L à năm
con đường hay năm phương pháp đi đến
giác ngộ, tùy theo căn cơ và trình độ của từng cá nhân chọn phương pháp
thích hợp để ứng dụng tu có kết qủa, Phật giáo gọi là “ khế cơ” trong nền giáo lý đạo Phật
. Một con Người khôn ngoan là con người đó biết chọn lựa con đường
đến với đạo Phật theo căn cơ trình độ của chính mình .Cho nên trước tiên
phải giác ngộ rồi sau mới ứng dụng tu, nếu không hiểu mà
tu là một việc sai lầm dễ rơi vào tà kiến, cho nên người tu Phật và học
Phật phải là người sáng suốt biết chọn lựa phương pháp ( trạch pháp), niềâm tin mà không hiểu
là tin mù quáng.Đạo Phật đã từng dạy: “đến để mà thấy, chớ không phải đến để
mà tin”.Vì lẽ đó sự chọn lựa là một nhu cầu cần thiết của người
Phật tử và ngũ thừa Phật giáo là bản
đồ chỉ cho người giác ngộ đến với đạo Phật theo từng phương pháp mà chúng tatự chọn lựa.
b/ Ứng
dụng ngũ thừa Phật giáo:
[SC1] q Nhân thừa:
Nếu muốn
ứng dụng nhân thừa
việc trước tiên phải phát tâm quy y Tam bảo, đây chính gieo duyên với Phật,
Pháp, Tăng trong nhiều đời. Bước kế
tiếp là thọ trì năm giới, đây chính là nền tảng của Phật giáo nhằm
xây dựng cho con người có một nhân cách hoàn thiện của một con người
thực sự là người như: Không giết hại chúng sanh (sát sanh) không tham lam trộâm cắp (trộm cắp), không lang chạ ngoại tình (tà dâm), không nói lời dối tra (vọng ngữ)ù, không say sưa rượu chè (uống rượu). Đây chính là nền tảng đạo
đức Phật giáo xuyên suốt từ xuất gia lẫn tại gia đều dựa vào năm
giới nầy làm căn bản. Nếu ứng dụng vào đời sống hiện tại là một
con người có nhân cách đạo dức, một gia đình có hạnh phúc,một làng
xã hoà thuận và một xã hội thanh bình. Nếu một con người biết thực hành
ngũ giới hiện tại có an lạc cho tự
thân và gia đình sẽ hạnh phúc và tương lai sẽ sanh trở lại làm người
có nhân cách một con người.
q Thiên
thừa: Con đường sanh lên cỏi trời nếu người đó thực hiện mười pháp thiện
(thập thiện)
gọi thông thường là Thập thiện nghiệp đạo được
chia làm 2 phần:t iêu cực và tích cực.
uMười điều lành tiêu cực: Chúng ta chỉ dừng lại ở phần làm hay nói cách khác không tạo nghiệp ác, dựa trên tam nghiệp(ba nghiệp: Thân nghiệp có 3 ( sát, đạo, dâm), khẩu nghiệp có 4 ( không nói dối, không nói ly gián, không nói
thêu dệt, không nói ác khẩu) và ý nghiệp có 3 (Không tham lam, không nóng giận và không tà kiến
hay còn gọi là không si mê) .
uMười
diều lành tích cực: Chúng
ta bước lên một bước tích cực hơn là đem thập thiệp đi vào đời sống,
biến tinh thần thập thiện bằng hành
động cụ thể:
§ Về
thân: Không giết hại chúng sanh
mà phải lòng từ ra cức vớt chúng sanh, không gian tham trộm cắp còn biết đem tài sản
vật chất ra bố thí giúp đở mọi người, không tà dâm
mà còn trinh bạch thủy chung .
§ Về
miệng: Không nói dối mà
phải biết nói lời chân thật, không nói
ly gián(lưỡng thiệt) mà
phải biết nói gây được hoà thuận
với mọi người, không nói thêu dệt
mà phải biết nói đúng lẽ thực và đúng lẽ phải, không nói ác mà phải biết nói nhã nhặn ôn hòa.
§ Về
Ý : Không tham lam
mà phải biết khởi lòng từ bi đối
với mọi người; không sân hận mà
còn phải biết nhẩn nhục, không tà kiến
mà phải biết chánh kiến.
Kết
qủa của pháp tu thập thiện là hành giả sau khi thân hoại mạng chung được
sanh về cỏi trời.
q Thinh
văn thừa: Đây Pháp nền tảng giáo lý đạo Phật nó đưa hành giả từ phàm đến thánh,
cho nên khi không hiểu được chân lý
tức là không hiểu tứ đế: “không thấy
được tứ đế là vô minh” .Tứ
đế còn gọi là Tứ Thánh Đế hay Tứ Diệu
Đế, thường được hiểu là 4 chân lý cao cả chắc thật :
- Khổ
đế (Dukkha) : Về sự khổ, ngoài tinh thần là bao của
khổ , nó còn chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc hơn đó là : bất toàn,
vô thường, trống rổng, giả tạm. Khổ đế được thể hiện nơi con
người như: sanh, già bệnh, chết, thương yêu phải xa lià ( ái biệt ly), mong cầu không được toại
nguyệïn (cầu bất đắc), oan gia ghét
bỏ mà luôn gặp nhau(oán tắng hội)
và năm ấm không được đều hoà ( ngũ
ấm xí thạnh khổ)...
- Tập đế (Samudaya) : Nguồn
gốc của khổ: Tất cả những khổ đau không phải ngẫu nhiên mà
có,mà nó bắt nguồn từ những nguyên nhân: tham lam, sân hận , si mê, mạn,
nghi, ác kiến, kiết thủ, giới cấm thủ,tà kiến .Tập hợp những nguyên
nhân tạo thành ngã chấp mà sanh ra khổ đau.
- Diệt
đế (Nirodha): Sự chấm
dứt khổ: Muốn trừ dệt mọi khổ đau con người phải đoạn trừ tham ái vì ái là gốc tạo ra
khổ .Con đường chấm dứt và đoạn
trừ ái đạt được Niết Bàn, đó chính là sự chấm dứt dục
vọng mà kinh Pháp Hoa gọi :“ Như củi hết
lữa tắt ” . Một khi hành giả đạt được con đường đi đến Niết Bàn sẽ
thành tựu tứ thánh qủa ( Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm Và A La Hán) .
- Đạo
đế ( Magga) : Con đường đưa đến sự chấm dứt khổ:
Con đường nầy Phật gọi la con đường
trung đạo vì nó tránh hai cực đoan đó là
qúa chạy tìm h ạnh phúc thông qua con đường dục lạc. Con đừơng nầy gọi
là 37 phẩm trợ đạo gồm có:
t Bốn món niệm xứ ( Tứ Niệmxứ): Quán thân bất tịnh, quán
tâm vô thường, quán Pháp vô ngã
và quán thọ thị khổ.
t Bốn món chánh cần ( Tứ Chánh cần): Tinh tấn ngăn ngưà những
điều ác chưa phát sanh đừng cho nó sanh; Tinh tấn dứt trừ những điều
ác đã phát sanh đừng cho nó tăng
trưởng ; Tinh tấn làm cho điều lành chưa phát sanh làm cho nó phát sanh;
Tinh tấn phát triển làm những điều lành đã phát sanh làm cho nó tăng
trưởng.
t Tứ như ý Túc ( Bốn phương pháp đi đến thiền định ): Dục như ý túc; Tinh tấn như ý túc;
Nhất
tâm như ý túc; Quán như ý túc.
t Ngũ căn, ngũ lực:
- Ngũ căn: tín căn , tấn căn, Niệm căn,
định căn, huệ căn.
- Ngũ lực: tín lực , tấn lực,Niệm lực,
định lực và huệ lực.
t Bảy phương pháp đi đến giác ngộ ( Thất Bồ Đề phần ): Trạch pháp giác
chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, Niệm giác chi, định
giác chi và xã giác chi.
t Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy
,chánh ngữ, Chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, Chánh niệm,chánh định
.
Người
Phật tử chân chính là người thấy cuộc đời : “Như thật tri kiến ”, cho nên không khổ
đau, sầu muộn, sợ hải, lo âu...Người Phật tử khi tu pháp Tứ đế làngười có hạnh phúc giửa nhân gian,
luôn luôn bình an giải thoát không bị
cuộc đời làm điêu dứng đảo điên vì họ thấy được đúng như thật
về cuộc đời.
q Duyên
giác thừa: Đây là con đường của
hành giả tu theo 12 nhân duyên( thập nhị nhân duyên) bao gồm: Vô minh, hành
, thức, danh sắc, lục nhập, xúc,thọ, ái, thủ, hữu , sinh, lão,
tử. Do thấu rõ lý duyên sinh của mọi pháp nên hành giả đạt được qủa
Duyên giác . Đây là con đường chấm dứt sự khổ đạt được qủa vị
Niết Bàn.
q Bồ
tát thừa: Đây là con đường thực hành Bồ tát hạnh cũng chính là
con đường độ tha “ vì lợi ích chúng sanh” trên bước đường
đi đến Phật qủa, đó là pháp lục độ. Còn gọi là 6 phương pháp đưa
người qua bên kia bờ giải thoát: Bố thí Ba
la mật, Trì giới ban la mật, Nhẩn nhục ba la mật, tinh tấân ba la mật,
Thiền định ba la mật và trí huệ ba
la mật.
c/ G
iác ngộ lý nhân quả & luân hồi:
rGiác
ngộ lý nhân quả: Mọi sự vật hiện tượng trên thế gian nầy nếu chúng ta đem ra khảo
sát thì không có sự vật hiện tượng
nào không có nhân quả mà hình thành. Nó không phải do ai đặt ra mà là một quy luật chung của
thiên nhiên, chi phối toàn bộ cuộc sống của con người cũng vạn vật.
Đối với đạo Phật thì nhân quả là yếu tố quan trọng, trong việc xây dựng
niềm tin cho người học Phật: “ tin nhân
quả là chánh tín, không tin nhân quả là mê tín”.
- Định
nghĩa: Nhân là nguyên nhân, qủa là kết
qủa của nguyên nhân đó tạo nên
.Nhân là năng lực tác động ,quả là sự thành tựu của năng lực tác động
đó
- Những
quan niệm sai lầm về nhân quả: cho
rằng, bất cứ một sự vật nào có
mặt do bàn tay của đấng sáng tạo hoặc hoàn cảnh giàu nghèo, hạnh phúc hay
khổ đau của con thường đổ thưà cho số mạng hay do Ông Trời, Thượng
Đế như Nguyễn Du đã nói: “ Bắt phong
trần phải phong trần, cho gian lao phải chịu phần gian lao”. Đối với
Phât giáo tất cả đều có nhân của nó không phải do “đấng sáng tạo” nào sắp đặt hoặc do “ số mạng an bài ” hay do “ ngẫu
nhiên” hên sui mai rũi mà có.
- Đặc tính của nhân quả: Chúng ta có
thể tóm tắt nhân quả trong 4 câu.
Dục tri tiền thế nhân
Kim
sanh thọ giả thị
Dục
tri hậu thế qủa
Kim
sanh tác giả thị
(
Muốn biết nhân đời trước , hảy nhìn quả đời nay mình hưởng.
Nếu
muốn biết quả đời sau hảy nhìn nhân đời nay mình tạo).
- Sự lợi ích khi hiểu nhân quả: Sau khi
hiểu được lý nhân quả người Phật tử không còn bị quan niệm sai lầm
làm mê mờ mất hết ý chí tự chủ chính mình. Chính sự hiểu biết nhân
quả giúp chúng ta lạc quan tin tưởng hơn
vào chính mình ở hiện tại cũng như tương lai.
Trong
đời sống hằng ngày của người con Phật hiểu được nhân quả là một
quy luật cho nên khi làm việc gì, nói lời nào đều phải nghĩ đến kết quả mà mình tạo ra trong đời
sống.
r Lý
luâ n hồi (Samsera):
Vấn đề có hay không có luân hồi trong đời sau, nó làm cho con người
băng khăng, thắc mắc từ nhiều đời nay. Nhìn ở góc độ Phật giáo sự
luân hồâi được hiểu như một qúa
trình chuyển hoá, biến đổi xê dịch của mọi sự vật hiện tượng
trong thế gian.
- Định nghĩa: Chử
Samsera là bánh xe, người Trung Hoa dịch là Luân
,còn chử hồi là xoay tròn. Hình ảnh bánh xe quay là một hình
ảnh nhằm để chỉ sự luân hồi của
chúng sanh xuống lên trong lục đạo(trời,
người,A Tu la, điạngục, ngạ quỹ và súc sanh ) .
- Nhìn vào
mọi sự vật
từ đất nước gió lửa cho đến
con người đều biến đổi từ trạng
thái nầy sang trạng thái khác, từ đời sống nầy sang đời sống khác mà
chúng ta nếu pân tích có thể giải thích trên cơ sở khoa học.
- Khi hiểu được sự luân hồi chúng ta không còn quan niệm sai lầm về thân phận mình và luôn luôn cố gắng vươn lên vì chết không phải là mất
hẳn. Chính hiểu được như vậy cho nên chúng ta
thực hiện những điều tốt
đẹp và cố tránh những điều xấu xa trong hành động, tư tưởng ngõ hầu
tránh rơi vào nơi khổ đau khi bước
vào một đời sống khác.
III.XÁC
ĐỊNH THIỆÏN ÁC THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO:
Trong mọi xã hội
thiện ác là những quy ước theo từng phong tục tập của mỗi quốc gia khác nhau, ở đây cho là tốt nơi
khác cho điều đó là xấu. Quốc gia nầy cho điều nầy là phải nơi khác
lại cho là sai. Sự đúng sai phải trái ở từng lúc từng nơi khó có ranh giới nhất định ,ơÛ đây Phật
tử chúng ta tu theo Phật và học Phật
căn cứ vào lời Phật dạy để
xác định quan niệm sống đúng với Chánh pháp.
1/ Thế
nào là thiện ác?
a)Định
nghĩa thiện ác: Những gì có lợi cho mình, cho người trong hiện tại
đến tương lai gọi là thiện. Ngược lại
những gì có hại cho mình và người hiện tại đến tương lai là ác.
Như được
trình bày ở trên, khi đánh giá thiện ác phải nhìn toàn diện không nên
chỉ căn cứ ở một khía cạnh đạo đức đơn thuần của một quốc gia một dân tộc thông qua
3 nghiệp: thân, khẩu, ý
b)Những
quan niệm Thiện ác của thế gian: Có người cho tằng “ăn hiền ở lành” là thiện ? và chính từ
câu nầy mà Nho giáo cố đưa quan niệm Thiện ác của mình vào đời sống
băng những câu: “ tâm hành từ thiện hà tu nổ lực khán kinh” (Lòng hằng từ thiện ,cần chi gắng sức xem
kinh) hoặc “ Vô cầu thắng bố
thí, cẩn thủ thắng trì trai”( không tham
cầu hơn là bố thí, khéo giử gìn nề nếp hơn là trì trai).
2/
Mười Nghiệp lành :
a) Định nghĩa : Tiếng Phạn là Karma có
nghĩa là hành động tạo tác qua thân klhẩu ý và điều nầy trong Kinh
Tăng Nhất A Hàm Đức Phật nói: “ Nầy
các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có
hành động thân khẩu ý ”. Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp
cho con người thực hiện trong sạch
hoá thân khẩu và ý .
b)
Các loại nghiệp:
uVề phương
diện thời gian:
- Thuận sanh nghiệp: là nghiệp đem lại
trong kiếp kế tiếp.
- Hiện báo nghiệp: Là nghiệp gây ra trong
kiếp hiện tại và có kết quả tức
thì.
- Hậu báo nghiệp: đời nầy tạo nghiệp
đời sau mới có quả.
- Vô hiệu nghiệp:Nghiệp tạo ra theo lẽ phải
bị quả báo nhưng không đủ yếu tố
phát khởi nên trở thànhvô hiệu.
u Về phương
năng lực( khả năng báo ứng )
- Cực trọng
nghiệp : Đây
là nghiệp tạo tội ngũ nghịch( Giết cha, giết Mẹ, giết A La Hán, làm
thân Phật bị thương chảy máu,Phá hoà hợp tăng).
- Cận tử nghiệp: Nghiệp nầy đến lúùc
thân sắp mất mới phát khởi.
- Tập Quán nghiệp: Thói quen trong một đời hay nhiều đời
do tập quán để lại.
- Tích lũy nghiệp: do nhiều đời nhiều kiếp tạo nên mỗi lần mỗi ích trở thành nghiệp.
IV
.NỘI DUNG THẬP THIỆÏN NGHIỆP ĐẠO & ỨÙÙNG DỤNG THẬP THIỆN
VÀO ĐỜI SỐNG TẠI GIA:
1/Nội
dung:
N hư đã
trình bày ở trên con người sở dĩ khổ đau trong hiện tại cũngnhư luân hồi sinh tử nguyên nhân chính là do chính tự thân tạo ra . Muốn chuyển đổi
hoàn cảnh chính mình việc trước tiên
chúng ta phải biết chọn cho mình một hướng đi hay nói cách khác chúng ta
phải biết giao nhân để gặt quả. Đó mới chính là con người khôn
ngoan. Con đường thiết thực góp phần xây dựng bản thân,chuyển hoá
hoàn cảnh không thể không thực hành thập thiện. Thế giới ngày nay nhân
loại tranh giành chém giết lẫn nhau,
đạo đức của một số người cũng từ đây mà suy thoái, giửa người với
người mất hết tình thương yêu qúi trọng chỉ còn là lòng đố kỵ
hơn thua.Đó chính là do con người tạo 10 ác nghiệp.cho nên Tổ Huệ Viễn
nói: “ Mười nghiệp lành nầy ,nếu có thể từ một nhà,một làng (xã)
đến một quốc gia mà thực hành thì
thuần phong mỹ tục,hình phạt của xã hội sẽ giảm bớt, cá nhân đó
được an lạc,gia đình được hạnh phúc, quốc gia sẽ thái bình. Thập thiện nghiệp đạo dựa trên 3
thành tố : Thân khẩu và ý nghiệp
mà phát khởi.
* Thân nghiệp
chia làm 3 loại:
a)
Không sát sanh: Các nhà nghiên cứu
Phật phân tích cho rằng : “ Sát sanh là cắt
đứt sự sống,tâm vật lý của một chúng sanh, ngăn chặn sức tiến của
năng lực một đời sống”. Có 5 yếu
tố tạo nên nghiệp sát : - Có một chúng sanh, biết rằng đó là một
chúng sanh, ý muốn giết, cố gắng để giết và giết chết chúng sanh đó.
Giới
nầy là giới nhằm bảo vệ sự sống,vì người con Phật là người tôn
trọng sự sống của người khác như tôn trọng sự sống của chính mình
b) Không
trộm cướp: Không phải là tài sản vật sở hữu của mình mà mình
chiếm đoạt bằng cách nầy hay cách khác đều là tội trộm cướp. Có 5
yếu tố cấu thành tội trộm cướp: Một vật sở hữu của người khác;
Biết đó không phải là của mình mà
mình tìm cách lấy; Cố ý muốn chiếm đoạt; Cố gắng thực hiện ý định
chiếm đoạt đó và thành tựu ý trộm.
c) Không tà dâm: Không phải là vợ ø chồng
,không có hôn phối với nhau mà có mối quan hệ
như vợ chồng đó là tà dâm. Tà dâm
được chia làm 4 loại: Phi phận
dâm ( k hông phải là hôn phối mà
quan hệ với nhau); Phi thời dâm ( là vợ
chồng nhưng quan hệ với nhau không phải lúc); Phi xứ dâm ( quan hệ không đúng nơi đúng
chổ,trái với bình thường) và Phi nhân
dâm (quan hệ với loài không phải người).
2/ Khẩu nghiệp chia làm 4:
a) Không Vọng ngữ: “ Vọng ngữ được
hiểu như lời nói không thật nhằm mục đích mưu cầu lơị ích riêng tư
”. Có ý giả dối,Ý muốn người khác hiểu sai sự thật; thốt ra lời
nói làm cho người khác hiểu lệch đi .Vọng ngững được chia làm 3 loại:
Đại vọng ngư õ(Không chứng đạo mà cho mình chứng để người khác
tôn trọng ); Tiểu vọng ngữ ; Phương tiện vọng ngữ .
b) Không nói thêu dệt ( ỷ ngữ):
Không trao chuốc thêu hoa dệt gấm, không ngon ngọt chết người
nhằm mục đích dụ dỗ đưa ngươi vào nơi nguy hiểm.
c)
Không nói lưỡi hai chiều ( lưỡng thiệt): Không đến người nầy nói chuyện bên kia, đến
bên kia không nói chuyện bên nầy.
d) Không nói lời hung ác ( ác khẩu):
3/ Ý nghiệp
chia làm 3:
a) Không tham lam: Tham được hiểu như là
lòng dục của chúng sanh bao gồm có ngũ dục: ( tài dục,sắc dục, danh dục
, thực dục và thùy dục). Đây là năm
loại dục
làm cho con người tham đắm không thể thoát được sự trói buộc
của nó.
b)Không
sân hận: Lòng giận được các
vị tổ sư xem như cửa ngỏ của các
tội ác “ Nhứt niệm tâm sân khởi,bá vạn chướng môn khai” ( một niệm sân nổi lên thì các cửa khác đều
mở) hay
“ nhứt niệm tâm sân khởi năng thiêu vạn khoảnh công đức
chi sơn” ( Một niệm sân nổi lên sẽ thiêu tất cả muôn ngàn công đức
).
c)
Không si mê: đối với Phật giáo
nguyên thuỷ loại thứ ba nầy được gọi là tà kiến. Đây là sự vô
minh không nhận ra lẽ thực chỉ chấp chặc những hư dối không thật có,đưa
đến chấn ngã,chấp nhân...
Chúng
ta biết rằng con đường đi đến Tam
thưà đều lấy thập thiện nghiệp
đạo làm nền tảng.vì thập thiện có sức mạnh ngăn chặn những hành vi
ác , nó cũng có công dụng đối trị với hành vi bất thiện. Đối với
Phật tử tại gia thập thiện là con đường, phương pháp chuyển hoá hoàn
cảnh bản thân và gia đình xã hội, khi chúng ta áp dụng thập thiện hằng
ngày.
1/
Cải tạo bản thân: Do nghiệp
lực thúc đẩy, chi phối đưa con người đến khổ đau, nếu bản thân
chúng ta biết áp dụng điều lành xa rời điều ác, do đó đời nầy an
vui đời sau sanh vào cỏi lành.Nếu một người biết ứng dụng tu thập
thiệp nghiệp đạo vào đời sống tức là người đó tự mình làm cho
nhân cách đạo đức của mình được chuyển hoá.
2/
Cải tạo hoàn cảnh: Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời nầy
đều do mình làm chủ chứ không phải
ai khác. thế giới ngày nay thiên tai dịch
bịnh làm điêu dứng con người ,sự thống khổ không biết đâu mà cùng Nếu
chúng ta biết chuyển biến chính mình xây dựng gia đình thì hoàn cảnh cũng
từ đó phát sanh hoàn cảnh tốt.Khôngthể ngồi đó trách đất than trời.
3/
Chánh nhân thiên giới: Tu tập
thập thiện là nguyên nhân sanh về cỏi trời có phước
báu hơn người, nó cũng là nhân lành thoát
khỏi sanh tử khổ đau khi ba nghệp thanh tịnh.
KẾT
LUẬN:
Đức
Phật là đấng y vương biết bệnh mà cho thuốùc ,tuỳ theo tâm bệnh ấy Ngài dạy những phương pháp khế với hoàn cảnh và căn cơ của chúng
sanh đễ giúp cho người đó đi đến
con đường giải thoát.Nếu tu thập thiện thân tâm của chúng ta sẽ được
cải thiện, hoàn cảnh sống cũng nhờ đó được thay đổi tránhxa
những ác pháp do nhờ thực hành thiện pháp . Điều nầy Ngài Điều ngự
Giác Hoàng thời Trần đã phát tâm thực hạnh đầu đà đi khắp hang cùng
ngõ hẻm của những vùng nông thôn Việt Nam
với mục đích duy nhất là truyền bá tinh thần thập thiệp
nghiệp đạo, cũng vì lợi ích cho mọi người.
http://www.buddhismtoday.com/viet/ddtamly/thapthiennghiep.htm