- Thức thứ tám
- Email: lamnhutang@lycos.com
---o0o---
Mục Lục
Thức Thứ Tám là gì ?
I/ Những
tên gọi của Thức Thứ Tám
1/ Tâm
2/ A Lại Gia Thức
3/ Dị Thục Thức
4/ Nhứt Thế Chủng Thức
5/ Sở Tri Y
6/ Sơ Năng Biến Thức
7/ Vô Cãu Thức
8/ Căn Bản Thức
9/ Như Lai Tạng
10/ A Ðà Na Thức
II/ Khảo Sát sự hiện
diện và chức năng của Thức Thứ Tám
1/ Người Ðọa xuống làm ngựa
và tái sinh làm người trở lại
2/ Trường hợp Edgar Cayce
3/ Từ Ðàn ông sinh làm đàn
bà
4/ Trường hợp thần thức của
người vừa chết A nhập vào xác của người vừa chết B
5/ Sự hóa thân của những vị
Lạt Ma Tây Tạng
III- Chức năng của
Thức Thứ Tám thể hiện qua nhân duyên và nghiệp dẫn tái sinh
1/ Mười hai nhân duyên
A/ Nguồn gốc của Lý Duyên Khởi
B/ Theo lập trường Vãng Quan
C/ Theo lập trường Tam Thế
Lưỡng Trùng Nhân Quả của Hửu Bộ
2/ Nghiệp
A/ Ðịnh nghĩa của Nghiệp
B/ Tại sao có những sự bất
đồng về nhiều mặt trong nhân loại
C/ Lộ trình tiến triễn của
Ý Thức trong sự tạo nghiệp
D/ Vai trò của Mạt Na Thức
trong sự tạo Nghiệp
E/ Năm Thức Cảm Giác và hành
trình tạo nghiệp của Chúng
IV-Những điều kiện
trợ duyên cho Thức Thứ Tám
1/ Lục Nhân Luận
A/ Năng tác nhân
B/ Câu hửu nhân
C/ Ðồng loại nhân
D/ Tương ứng nhân
E/ Biến hành nhân
F/ Dị thục nhân
2/ Tứ duyên luận
A/ Sự liên hệ giữa 4 duyên
và 10 duyên
B/ Sự liên hệ giữa 10 duyên
và 24 duyên
C/ Sự liên hệ giữa 24 duyên
và 4 duyên
D/ Luận về Tứ Duyên
(1) Nhân duyên
(2) Thứ đệ duyên
(3) Sở duyên duyên
(4) Tăng thượng duyên
3/ Luận về năm quả
A/ Dị thục quả
B/ Ðẵng lưu quả
C/ Sĩ dụng quả
D/ Tăng thượng quả
E/ Ly hệ quả
4/ Bốn quả của Hửu Bộ
A/ An lập quả
B/ Gia hạnh quả
C/ Hòa hợp quả
D/ Tu tập quả
5/ Tâm Bất Tương Ưng Hành
A/ Theo luận bộ Nam Phương
B/ Theo luận bộ Bắc Phương
C/ Ý nghĩa của các Pháp Tâm Bất
Tương Ưng Hành
D/ Dưới cái nhìn của nhân
duyên quan về sự tương quan giữa Tâm Bất Tương Ưng Hành và Vô Vi
pháp
V- Sự phân loại
các Pháp, đối tượng biểu biệt của Thức Thứ Tám
1/ Ý nghĩa chữ Pháp
2/ Khái niệm về sự phân loại
3/ Nhận xét về phương pháp
phân loại
4/ Những phân loại tiêu biểu
A/ Mười hai xứ
B/ Mười tám giới
C/ Hai mươi hai căn
D/ Ngủ Vị |
THỨC THỨ
TÁM là gì ?
Trong luận ĐẠI THỪA
TRĂM PHÁP của ngài Thế Thân (Vasubandhu) Bồ Tát có hai bài kệ đầu như
sau:
"Như Thế Tôn ngôn :
"Nhứt thế pháp Vô Ngã". Hà đẵng nhứt thế pháp. Vân hà vi vô
ngã". (Như lời Đức Thế Tôn nói : "Tất cả pháp Vô Ngã". Vậy
cái gì là "Tất cả pháp". Và sao gọi là "Vô Ngã"?).
Bài kệ thứ hai :
"Nhứt thế pháp giả,
Lược hữu ngũ chủng: Nhứt giả Tâm Pháp, nhị giả Tâm Sở Hữu
Pháp, tam giả Sắc Pháp, tứ giả Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp, ngũ
giả Vô Vi Pháp". (Nói tất cả pháp có năm món : 1/ Tâm Pháp (có
8 món). 2/Tâm Sở Hửu Pháp (có 51 món). 3/ Sắc Pháp (có 11 món).
4/ Tâm Bất Tương Ưng Hành (có 24 món). 5/ Vô Vi Pháp (có 6 món).
Tổng cọng tất cả là 100 pháp. (1)
Theo định nghĩa cổ điển
về chữ PHÁP (nhậm trì tự tánh quỉ sanh vật giải) là tất cả những
gì có đặt tính riêng và có khuông khổ riêng của nó để có thể làm
phát sinh trong tâm thức ta một khái niệm phân biệt hiểu biết về nó.
(2)
Thế
nào gọi là VÔ NGÃ ?
Khi nói VÔ NGÃ gồm có
hai món đó là NHƠN VÔ NGÃ và PHÁP VÔ NGÃ.
Người đời thường cho rằng thân , tâm nầy thật là MÌNH, là TA, như
thế là NHƠN NGÃ, tất cả những vật quanh ta như núi, sông, đất, nước
v.v... là thật có như thế là PHÁP NGÃ. Thế nhưng theo luật vô thường
chi phối là kể cả NHƠN và PHÁP đều có đó nhưng sẽ băng hoại, không
trường tồn vĩnh viễn nên trong Duy Thức Học nói "Tất cả Pháp Vô
Ngã" tức là Nhơn Vô Ngã và Pháp Vô Ngã.
Ở đây xin
liệt kê tám món Tâm Vương hay còn gọi là Tâm Pháp (Citta, Mind):
1/ Nhãn Thức
(Consciousness dependent upon Sight). 2/Nhĩ Thức (Consciousness dependent upon Sound).
3/Tỷ Thức (Consciouness dependent upon Smell). 4/ Thiệt Thức (Consciousness
dependent upon Taste). 5/Thân Thức (Consciousness dependent upon Touch). 6/ Ý Thức
(Consciouness dependent upon mentation). 7/ Mạt Na Thức (Klista-mano
vijnana) (Soiled mind consciousness). 8/ A Lại Gia Thức (Alya vijnana) (Repository
consciousness). (3)
Theo sự trích dẫn ghi
trên THỨC THỨ TÁM còn gọi là A Lại Gia Thức trong Tám Món Tâm Vương.
Tùy theo tính chất và công năng rất phức tạp của thức nầy
nên nó có rất nhiều tên. Sau đây xin lược kê một số tên của THỨC THỨ
TÁM nầy :
I/ NHỮNG
TÊN GỌI CỦA THỨC THỨ TÁM
1/ TÂM : Trong Kinh
Hoa Nghiêm có bài kệ: "Nhược nhơn dục liễu tri. Tam thế nhứt thế
Phật. Ưng quán pháp giới tánh. Nhứt thiết duy tâm tạo".
Nhiều kinh luận còn nói
: "Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức", cũng không ngoài ý nghĩa của
bài kệ trên. Và như thế thức thứ tám nầy có nghĩa là TÂM vì công năng
của nó là chứa đựng tất cả các pháp thế gian, xuất thế gian.
Từ phàm phu, Nhị thừa,
đến Bồ Tát và Phật đều có cái TÂM nầy.
Ngoài ra chử tâm còn có
những nghĩa như :
a/ Chứa
nhóm các tập khí chủng tử, và sau đó cho các chủng tử phát khởi ra hiện
hành.
b/ Nhận
xét đối tượng và khởi lên sự phán đoán phân biệt.
c/ Những
chủng tử tập khí sanh diệt tương tục nhưng không gián đoạn.
Ngoài ra TÂM cũng có thể
ví như mãnh đất gieo trồng những hạt giống :
"Tâm là đất gieo hạt. Mọi hạt giống chứa đầy.
Tâm địa cũng chính là, Toàn thể hạt giống ấy" (hạt giống nghĩa là
tập khí và chủng tử) (Thích Nhất Hạnh).
Trong phần đầu của kinh Địa Tạng cũng nói đến TÂM như là mãnh đất
(Địa là bền chắc, Tạng chứa đủ) gieo trồng tất cả những hạt giống.
2/ A LẠI GIA THỨC
Trong tác phẩm THE VINAPTIMÃTRATÃSIDDHI-TRIMSIKÃ của
Vasubanddhu tức là DUY THỨC TAM THẬP TỤNG của ngài Thế Thân Bồ
Tát có đọan như sau:
"Trước là A Lại
Gia, (cũng gọi là) Dị thục, Nhứt thế chủng. Không thể biết hết sự
giữ gìn và thâu nhận của nó(chấp thọ), kể cả thế giới (xứ), và sự
phân biệt (liễu). Tương ưng với năm móm biết hành tâm sở đó là Xúc,
Tác Ý, Thọ, Tưỡng, và Tư. Trong năm món Thọ (là Khổ thọ, Lạc thọ,
Ưu tho, Hỷ thọ, Xã thọ) thì Thức Thứ Tám chỉ tương ưng với Xã thọ.
Thức nầy và các món tâm sở kể trên đều có tánh vô phú và vô ký.
Các chủng tử trong thức nầy luôn luôn biến chuyễn như thác nước.
Đến địa vị A La Hán mới xã bỏ (cái tướng hay còn gọi là cái
tên của thức nầy, nhưng cái thể của thức nầy về phần tịnh sẽ chuyễn
thành Đại Viên Cảnh Trí)". (4)
Bản tính của thức nầy
trong suốt như tấm gương không bị các món phiền não như tham, sân, si...
che lấp nên gọi là tính vô phú (không bị che lấp hay làm dơ bẩn), đồng
thời khi có người đến trước miếng gương thì ảnh người ấy liền hiện
lên nhưng khi người ấy đi nơi khác thì miếng gương cũng không ghi lại
hình ảnh gì đó là hình ảnh có thể ví dụ cho bản tính "vô
ký " trong suốt của thức nầy.
Alaya là nguyên gốc chữ
Sanskrit ngài Huyền Trang dịch là Tàng Thức. Về tự tướng của Tàng Thức
có ba nghĩa:
a/ Thức
nầy có công năng chứa đựng các hạt giống thiện ác, cũng như cái kho
có công năng chứa lúa (gọi là Năng Tàng).
b/ Thức
nầy chính là cái kho, chổ chứa đựng tất cả các hạt giống (gọi là Sở
Tàng).
c/ Thức
nầy được thức thứ bảy luôn luôn có mặt bên cạnh để canh giữ. Thức
thứ bảy xem thức nầy như là một người chủ khả ái không bao giờ muốn
rời xa (gọi là Ngã Ái Chấp Tàng) .
3/ DỊ THỤC THỨC
Trong đoạn văn trên
có từ DỊ THỤC. Vậy Dị Thục là gì ? Dị là khác thời gian,
còn Thục có nghĩa là chín.
Đứng về Quả Tướng
nghĩa là khi thọ quả các nghiệp lành, nghiệp ác và không lành không ác
mà nói thì chữ Dị Thục có ba nghĩa :
a/ Khác
thời mới chín : ví dụ quả ổi từ khi sinh ra đến khi chín phải cần một
thời gian.
b/ Biến
đổi bản chất mới chín : Ví dụ quả ổi khi xanh thì chát, khi chín thì
ngọt, tức là bản chất của nó đã biến đổi. Như vậy cũng cùng là
ổi nhưng loại ổi xanh chát đã biến đổi thành loại ổi chín ngọt.
c/ Biến
đổi hình thái khi chín : cũng cùng một ví dụ ổi nói trên, khi còn non
thì ổi nhỏ có màu xanh đậm, đến khi chín thì trái ổi lớn hơn mà màu
lại trắng ửng hồng. Hay như trái xoài khi còn non thì màu xanh, đến khi
chín màu của nó biến đổi thành vàng chẵng hạn.
Ba trạng thái nói trên
để chỉ cho các loại hạt giống trong Tạng thức khi khởi ra hiện hành
phải trải qua những giai đoạn biến đổi tất yếu của nó. Đó là
sự phối hợp tất cả các nghiệp nhân đã tạo ra trong quá khứ của
chúng ta để thọ thân hiện tại. Jean Paul Sarte (1905-1980) cũng có nói
rằng con người là tổng thể của các hành động của mình. Câu nầy rất
trùng hợp với trường hợp đã nêu trên của Duy Thức Học.
Khi chứng đến quả vị
Phật thì xã bỏ thức nầy (Kim Cang đạo hậu Dị thục không).
4/ NHỨT THẾ CHỦNG THỨC
Trong đoạn văn trích dẫn
trong Duy Thức Tam Thập Tụng nêu trên còn có từ NHỨT THẾ CHỦNG. Nghĩa là
Nhứt Thế Chủng Thửc. Vì thức thứ tám nầy có công năng chứa đựng tất
cả các hạt giống hửu lậu, vô lậu của thế gian và xuất thế gian...
Trong Nhiếp Đại Thừa
luận của ngài Vô Trước có phân tích 6 loại hạt giống như sau:
a/ Sát Na
Diệt : Có những hạt giống sanh rồi diệt đi rất nhanh từng giây phút.
Ví dụ trong tâm ta có lúc niềm vui sinh khởi nhưng lại biến mất
liền sau đó...
b/ Quả
câu hửu: Trong khi quả sinh ra cái nhân vẫn còn hiện diện đó. Ví dụ đứa
con tôi vừa làm bễ cái bình trà thật quí nên tôi liền buồn bực trong
lòng...
c/ Hằng
tùy chuyễn : Các hạt giống trong thức thứ tám luôn luôn biến chuyễn như
một thác nước.
d/ Tánh
quyết định : Tánh thiện hay ác của hạt giống nó quyết định sự
khởi ra hiện hành cũng thiện hay ác. Ví dụ người có chủng tử thiện tụng
kinh niệm Phật thì lúc nào cũng thích tìm đến chùa hoặc tìm nơi yên tịnh
để tịnh tu...Còn người đã có chủng tử nghiện thuốc phiện thì lúc
nào cũng tìm đến nơi hút xách bất tịnh...
e/ Đãi
chúng duyên : Hạt giống Phải đợi điều kiện thuận tiện mới khởi ra
hiện hành. Ví dụ ta có hạt giống thiện muốn lập chùa nhưng phải đợi
đến khi vận động đủ một số tiền tối thiểu mới có thể thuê công
ty xây cất được...
f/ Dẫn Tự
Quả : Đem lại cái kết quả của chính hạt giống đó. Ví dụ hạt
đậu chỉ sinh ra cây đậu, hạt ổi chỉ sinh ra cây ổi...
Trong Thành Duy Thức Luận
ngài Huyền Trang dùng từ Nhứt Thế Chủng Thức để chỉ cái "Nhơn
Tướng" của thức A Lại Gia. Khi chứng đến quả vị Phật có thể gọi
là :"Nhứt Thế Vô Lậu Chủng Thức".
5/ SỞ TRI Y :
Tên nầy xuất phát từ
Nhiếp Đại Thừa Luận của ngài Vô Trứớc. Vì thức nầy là nơi y chỉ
của các Pháp nhiểm và tịnh bị nhận thức (sở tri) hay còn gọi là đối
tượng phân biệt. Nghĩa của nó rất rộng kể cả phàm phu và Thánh
nhân đều có Thức nầy. Các pháp "sở tri" chính là chỉ cho ba
tánh : Biến kế sở chấp tánh, Y tha khởi tánh và Viên thành thật tánh
trong Duy Thức Học (sẽ giải thích các từ nầy ở các bài viết kế tiếp).
6/ SƠ NĂNG BIẾN THỨC:
Trong bài tụng đầu của
Duy Thức Tam Thập Tụng có nói đến thức năng biến thứ nhứt nầy. Thức
nầy chứa các chủng tử của các pháp rồi biến hiện ra tướng phần
là căn thân và thế giới. Vì sợ chúng phàm phu và hàng Nhị Thừa không
hiểu chấp là có thật ngã và thật pháp nên luận sư nói : "Các Ngã
và Pháp đều giả, vì chỉ do Thức biến hiện ra mà thôi". Thức năng
biến đó có ba loại. Thức Thứ Tám đứng đầu nên gọi là Sơ Năng Biến
Thức. (Thức năng biến thứ hai là Thức Thứ Bảy (tức Mạt Na thức), Thức
năng biến thứ ba là sáu thức còn lại (Tức là Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ
Thức, Thiệt Thức, Thân Thức và Ý Thức).
7/ VÔ CẤU THỨC:
Còn gọi là Bạch Tịnh
Thức hay Yêm Ma La Thức nghĩa là thức thanh tịnh không cấu nhiễm. Vì Thức
nầy chứa giữ các pháp hoàn tòan vô lậu thanh tịnh. Thức nầy chỉ Phật
mới có, từ Bồ Tát trở xuống không có thức nầy. Vì Bồ Tát còn có
vô minh hiện hành và các chủng tử tạp nhiểm nên không thể có Vô Cấu
Thức.
8/ CĂN BẢN THỨC:
Các pháp nhiễm tịnh và
bảy thức trước đều nương nơi thức nầy mà phát khởi hiện hành và
tác dụng. Do đó nên thức nầy còn được gọi là căn bản thức. Cả
phàm lẫn thánh đều có thức nầy.
9/ NHƯ LAI TẠNG:
Tên nầy hàm chứa ý nghĩa
là tất cả chúng hửu tình đều sẵn có "Trí huệ đức tướng, pháp
thân thanh tịnh Như Lai". Nhưng vì bị vô minh tạp nhiễm che lấp (chỉ
cho chữ Tạng là bao phủ ngăn che). Như vậy ghép hai cụm từ "Như Lai
thanh tịnh pháp thân" (lấy chữ Như Lai) ghép với "vô minh tạp nhiễm"
(tức là Tạng) tành tên Như Lai Tạng.
10/ A ĐÀ NA THỨC:
Trong kinh Giải Thâm Mật
có bài kệ : "Thức A Đà Na rất thâm sâu và tế nhị. Các tập khí chủng
tử của nó sanh diệt tương tục như thác nước. Ta (đức Phật) đối với
chúng phàm phu và Nhị Thừa không giảng nói thức nầy; vì sợ chúng phân
biệt chấp làm Ngã".
Trong kinh Đại Phật Đãnh
Thủ Lăng Nghiêm nói: "Thức A Đà Na rất là vi tế. Các tập khí chủng
tử biến chuyễn như thác nước. Vì sợ chúng phàm phu và Nhị thừa chấp
Thức nầy là "Chơn" hoặc "Phi Chơn", nên Ta (đức Phật)
chẵng hề giảng nói thức nầy".
Thức nầy là thức căn
bản của chơn và vọng nên nó là thức căn bản của phàm phu cũng như của
hàng nhị thừa. Do đó Duy Thức Tôn rất chú trọng đến thức nầy. Trong
hai bài kệ trên đại ý nói là thức nầy rất thâm sâu và tế nhị. Nó gồm
chứa các tập khí chủng tử từ vô thỉ đến nay. Nó là chủ nhân ông giữ
gìn báo thân (tức là thân thể hiện tại) của chúng hửu tình. Nó hằng
còn mãi nên xem chừng như chơn nhưng không phải chơn vì nó hư vọng sanh
diệt rất là vi tế. Cũng như thác nước khi đứng xa trông thấy giống như
một giải lụa trắng đứng yên nhưng khi đến gần mới thấy nó gồm vô
số những giọt nước từ trên cao rơi xuống rất mạnh và liên tục.
Hoặc có thể ví như dòng sông chảy mạnh không bao giờ đứng yên một chỗ.
Do đó Đức Phật không
giảng nói thức nầy vì sợ chúng phàm phu chấp làm "chơn ngã" mà
rơi vào chỗ vọng chấp sẽ đọa lạc mãi trong vòng sanh tử luân hồi.
Còn hàng nhị thừa nếu chấp thức nầy không phải chơn cũng không
được vì như thế sẽ mãi mê tìm cầu cái "thật ngã"
ngoài thức nầy mà sẽ bị rơi vào những mê chấp cũng không thể
chứng quả cao hơn được. Như thế chấp thức nầy là chơn cũng không
được mà chấp thức nầy không phải chơn cũng không xong. Do đó Đức Phật
không giảng nói là có nghĩa như vậy.
Trong Du Già Sư Địa Luận
(của ngài Di Lặc Bồ Tát truyền cho ngài Vô Trước) hoàn toàn căn cứ vào
kinh Giải Thâm Mật mà giải nói thức nầy. Trong Nhiếp Đại Thừa Luận của
ngài Vô Trước cũng như trong Thành Duy Thức luận của ngài Huyền Trang cũng
giải thích nhiều về thức nầy.
A Đà Na là tiếng Phạn
ngài Huyền Trang dịch là "TRÌ" (tức là giữ gìn).
Trong Thành Duy Thức luận của ngài Huyền Trang ở quyển ba có bài kệ
như sau: "Thức nầy có ba công năng nên gọi là A Đà
Na. Ba công năng đó là :
(1) Giữ gìn (chấp trì)
chủng tử của các pháp
(2) Giữ chịu (chấp thọ)
căn thân và thế giới
(3) Giữ lấy (chấp thủ)
việc nối tiếp đời sau
Xin lược giải từng điểm
ghi trên :
(1) GIỮ GÌN
(chấp trì) CHỦNG TỬ CỦA CÁC PHÁP:
Khi nói các pháp tức là
chỉ cho hai loại : "Hửu lậu hửu vi" là các pháp tạp nhiễm của
tất cả hàng phàm phu kể cả các loài động vật , và "Vô lậu hửu
vi" là các pháp thanh tịnh của bậc thánh hiền.
Chủng Tử tức là hạt
giống đã nói ở phần trên, đây xin thêm, hạt giống có thể thiện ,
ác, hoặc không thiện không ác. Hạt giống do đời trước đã tạo ra hoặc
do đời nầy mới tạo, hoặc là do công phu tu tập đã tạo ra các hạt giống
vô lậu v.v... Hạt giống có thể thường còn hoặc có thể bị hạt giống
đối lập triệt tiêu làm mất đi. Ví dụ hạt giống ác trộm cắp chẵng
hạn nếu người nầy được giáo dục lại và có công ăn việc làm tốt
họ trỡ thành người tốt không trộm cắp nữa. Như vậy tức là hạt giống
ác đã bị hạt giống thiện triệt tiêu. Thế nhưng ngược lại cũng có
những trường hợp hạt giống ác làm triệt tiêu hạt giống thiện.
Thức nầy có công năng
giữ gìn tất cả hạt giống và khi có những điều kiện thuận lợi các
hạt giống đó sẽ phát khởi ra hiện hành. Có thể ví dụ Thức nầy như
mãnh đất gieo trồng các hạt giống. Các hạt giống nằm trong đất cũng
giống như chủng tử nằm trong THỨC nầy. Khi các chủng tử khởi ra hiện
hành cũng giống như các hạt giống nãy nầm thành cây con mọc lên khỏi mặt
đất...
Tóm lại giữ gìn chủng tử của các pháp nghĩa là thức nầy có công năng
giữ gìn tất cả các loại hạt giống do hàng phàm phu và các bậc thánh
đã tạo ra.
(2) GIỮ CHỊU (chấp thọ) CĂN THÂN và THẾ GIỚI :
Thức nầy có công năng
giữ gìn thân thể của con người và kể cả loài động vật trong thời
gian sinh vật ấy còn sống khiến cho họ biết cảm giác và nhận thức sự
vật chung quanh. Có những người vì bịnh tật hoặc tai nạn v.v... bị chết
đi trong một thời gian ngắn, thời gian nầy thân thể còn đó bộ não vẫn
còn đó nhưng không biết cãm giác và nhận thức gì những hiện tượng
chung quanh vì thức nầy đã rời khỏi thân xác. Đến khi người nầy sống
trở lại nghĩa là Thức nầy đã trở lại với thân thể họ, họ có thể
kể lại những gì đã xãy ra cho họ trong thời gian chết hụt đó. Điều
đó có thể nói lên được sự hiện diện của thức nầy. Vì nếu nó
lìa khỏi thể xác thì con người sẽ chết và xác thân nầy sẽ tan rã.
Vì lẽ đó nên nói Thức nầy có công năng duy trì thân thể của ta.
Ngoài ra Thức nầy còn
có công năng biến hiện ra cảnh vật, thế giới quanh ta theo nguyên tắc TỰ
BIẾN và CỌNG BIẾN và nó có công năng duy trì thế giới nầy nữa.
Ví dụ có một thầy muốn thành lập một ngôi chùa chẵng hạn việc đó
bắt nguồn từ tâm thức của vị sư ấy. Vị sư tưỡng tượng ra kế
hoạch thành lập ngôi chùa và thảo luận kế hoạch ấy với nhiều người
khác để thành lập ra đồ án, vận động tài chánh, mướn công ty xây cất...
Trãi qua nhiều năm gốp ý kiến, gốp công và của của nhiều người cuối
cùng trên miếng đất trống khi trước đã có một ngôi chùa khang trang.
Qua việc xây chùa đó đã nói lên sự TỰ BIẾN (ý kiến riêng và công sức
của vị sư muốn biến miếng đất trống thành một ngôi chùa) và CỌNG
BIẾN (tức là những ý kiến và công sức của những người khác đã đóng
góp vào công trình xây cất đó) mà thành. Từ thí dụ đơn giản nầy ta có
thể hiểu rằng tất cả cảnh vật và thế giới quanh ta đều do sự Tự
Biến và Cọng Biến của thức mà thành. Chẵng những thức biến hiện ra
thế giới mà còn giữ gìn sự hiện hửu của thế giới.
Do những lý do kể trên
nên chúng ta có thể hiểu là Thức nầy có công năng duy trì thân thể (căn
thân) và thế giới là nghĩa như vậy.
Những điều khó hiểu trên đây sẽ dùng phương pháp khoa học để dẫn
chứng và chứng minh ở những phần sau.
(3) GIỮ LẤY
(chấp thủ) VIỆC KẾT NỐI ĐỜI SAU :
Thức nầy có công năng
duy trì và tiếp nối từ đời nầy với đời sau của con người và
mãi mãi như thế không đoạn diệt trong kiếp sinh tử luân hồi. Sở dĩ có
sự sinh tử luân hồi đời nọ nối tiếp đời với đời sau là vì do phiền
não (ví dụ tham lam, sân giận, si mê...) tạo ra các nghiệp chướng, do các
nghiệp lực đã tạo ra nó sẽ là động lực chính dắt dẫn con người đến
đời sau để chấp nhận những gì đã tạo ra từ đời trước.
Từ đời nầy đến đời
sau con người phải trải qua bốn giai đoạn đó là: thân hiện sống, thân
đang chết, trạng thái sau khi chết, đến thân đời sau, phải có cái gì
duy trì tất cả các hạt giống từ nhiều kiếp trước. Cái đó chính là
Thức nầy vậy.
Nhưng vấn đề khó tin đối với nhiều người và cần phải tranh luận đó
là có thật có tiền kiếp và hậu kiếp không?
II- KHẢO
SÁT SỰ HIỆN DIỆN CỦA THỨC THỨ
TÁM
Nhiều nhà khoa học thực
ngiệm chú trọng nghiên cứu cơ năng não bộ của con người, họ cho rằng
tất cả những sự ghi nhớ và tạo tác về khoa học, văn chương... cũng
như mọi công năng hoạt động khác đều do não bộ điều khiển. Thế
nhưng họ không thể giải thích được tại sao thần đồng Blaise Pascal
(1623-1662), người Pháp, mới lên bảy tuổi, chưa học đến những công thức
toán khó bao giờ nhưng đã giải nỗi những bài toán kỷ hà học rất khó
của các nhà bác học. Những gì chưa học đến tức não bộ chưa ghi nhận
được từ trước, như thế khả năng và kiến thức ấy do đâu mà có
được ? Chỉ có thể hiểu được khi giải thích như nhà duy thức học rằng
đó là khả năng và kiến thức tích tập từ nhiều kiếp trước do Thức
Thứ Tám giữ gìn và đem đến cho đời nầy vậy.
Sau đây là những dẫn
chứng về sự luân hồi tái sinh của người thường và sự hóa thân của
chư vị Bồ Tát để nói lên sự hiện hửu và cơ năng của Thức Thứ Tám
là huân tập, duy trì tiếp nối những kiến thức, chủng tử thiện ác từ
nhiều đời trước và khởi ra hiện hành trong đời hiện tại.
1- NGƯỜI ĐỌA
XUỐNG LÀM NGỰA VÀ TÁI SINH LÀM NGƯỜI TRỞ LẠI
Một quan võ người tỉnh
Giang Nam (Trung Quốc), có đùi chân trái lông mọc ra dài như ngựa khiến
ông nhớ lại kiếp trước. Vì trước kia ông đã từng ngồi ghế chánh
án xử oan ức một tội tử hình nên đời kế đó bị đọa làm kiếp ngựa.
Kiếp ngựa đã đền trã xong nợ trước, không gây nên nghiệp ác lại có
lòng hối lỗi xưa nên kiếp sau đó được sinh trở lại làm người, tuy
thế vết tích lông ngựa mọc đài ở đùi đó chính là vết tích luân hồi
tái sinh từ loài ngựa.
Điều nầy đã được
kiểm chứng một cách có khoa học nhận biết đó là sự thật hiển nhiên
cho ta thấy trong kiếp luân hồi con người có thể trở thành thú vật và
ngược lại thú vật có thể tiến hóa làm người như Đức Phật đã dạy
trong nhiều kinh điển do Ngài thuyết giảng. Chúng ta có thể suy ra rằng Thức
Thứ Tám vẫn hiện hửu nơi lòai vật và nó vẫn có những công năng như
đã ghi ở phần trên.
(tài liệu trích trong "Tín Trừng Lục" do Thượng Tọa Thích Bảo Lạc
dịch) (5) .
2- TRƯỜNG HỢP
EDGAR CAYCE
Về tiền kiếp xin dẫn
chứng trường hợp Edgar Caycy để chứng minh. E.Caycy sinh tại Christian
Country, Kentucky Hoa Kỳ vào năm 1877, ông bị bịnh mất hẵn tiếng nói,
các bác sĩ đã chịu thua không chửa trị được. Thế nhưng sau khi
ông tự "thôi miên truy hồn" chỉ cách tr¸ liệu cho thân nhân giúp
ông đã bình phục, nói lại được như xưa. Sở dĩ có sự thành công đó
là nhờ ông tự tìm về bệnh tiền kiếp của mình và tìm ra được nguyên
do để chửa trị thành công nói trên. Sau đó E. Caycy đã dùng "thuật
thôi miên truy hồn" để tìm ra những căn bệnh kiếp trước của
nhiều người và đã chửa lành bệnh cho họ, những trường hợp chửa bệnh
của ông còn rất nhiều hồ sơ lưu lại tại Hoa Kỳ. (6)
Rất nhiều tác giả đã
viết sách nghiên cứu về cách chửa trị của ông. Gần đây có Mary
E. Carter và Dr. William A. McGarey nghiên cứu E. Caycy trong tác phẩm "Edgar
Caycy On Healing". (7)
E. Caycy còn có năng lực
chẫn đóan cho bệnh nhân ở cách xa ông hàng trăm cây số...
Câu chuyện nầy cho ta nhận
thức rõ ràng về công năng nối kết và duy trì những nghiệp lực từ nhiều
đời của Thức Thứ Tám hoàn tòan ngòai tầm hiểu biết và lối giải
thích của các nhà khoa học thực nghiệm.
Hiện nay khắp nơi trên
thế giới rất nhiều nhà khoa học đã dùng phương pháp thôi miên để tìm
hiểu tiền kiếp của nhiều người khi thấy cần để tìm hiểu nguyên
nhân bịnh tật của người đó rồi tìm ra phương pháp chửa trị hết sức
hửu hiệu...
3-TỪ ĐÀN ÔNG
SINH LÀM ĐÀN BÀ
Câu chuyện sau đây do
Bác sĩ Ian Stevenson, giáo sư đại học Virginia Hoa Kỳ sưu tầm và
thuyết trình tại đại học Virginia (8).
Một cô gái Miến Điện
(nay đã có gia đình) lúc sinh ra các ngón tay trên bàn tay mặt bị cụt gần
sát bàn tay. Cô thường nhớ về tiền kiếp kinh hòan đã thuật lại cho người
nhà nghe như sau : kiếp trước cô là một người đàn ông đã tạo nhiều
đau khổ cho người vợ khiến người vợ phải tự tử. Người mẹ vợ rất
căm giận quyết lập kế để trả thù cho con gái mình. Một hôm bà thuê một
tên giết mướn dùng một thanh kiếm chận đường chém người rể độc
ác kia, anh ta sợ hải quá liền đưa tay phải ra đỡ và la lên : Trời ơi!
Đừng giết tôi ! Nhưng tên giết mướn vẫn không dừng tay, đưa một dường
kiếm cắt đứt các ngón tay mặt và đâm anh ta chết ngay tại chỗ.
Giáo sư Ian Stevenson đã
cho cử tọa xem hình chụp bàn tay phải bị cụt các ngón tay và gải thích
đó là dấu tích của sự luân hồi, bị chặt đứt ngay từ kiếp trước.
Câu chuyện trên cho ta kết luận được hai diều : Một là trong kiếp luân
hồi vô tận con người có thể chuyển kiếp từ đàn ông thành đàn bà
và ngược lại.
Hai là chức năng mang những
vết tích luân hồi đó không phải là chức năng của não bộ hay một cơ
quan vật chất nào khác có thể thực hiện được vì sau khi chết cơ thể
đã thành tro bụi rồi. Chức năng đó chỉ có thể hiểu được là của
Thức Thứ Tám vô hình nhưng nối tiếp không đoạn diệt từ đời nọ
sang đời kia, và có như vậy con người mới có thể nhớ lại kiếp trước
của mình, đồng thời đem những vết tích từ đời trước đến thân hiện
tại.
4-TRƯỜNG HỢP
THẦN THỨC CỦA NGƯỜI VỪA CHẾT A NHẬP VÀO XÁC CỦA NGƯỜI VỪA CHẾT B
Trong sách Phật Học Phổ
Thông bài thứ sáu nói về"LUÂN HỔI" của Hòa Thượng Thích Thiện
Hoa, do Chùa Khánh Anh tại Paris in lại (không thấy ghi năm in lại) có câu
chuyện như sau : Câu chuyện cách nay khoản 30 năm, xãy ra tại Cà Mâu, dư
luận đã bàn tán xôn xao về câu chuyện thay nghiệp đổi xác nầy.
Tại Xứ Đầm Dơi (Cà Mâu) ở làng Tân Việt, gia đình ông cả Hiêu có
cô con gái 19 tuổi bị bệnh rồi qua đời. Gia đình khóc thương thảm thiếc,
trong niềm đau đớn tột độ đó ai cũng cầu mong sao cho con gái sống trỡ
lại với gia đình vì cô còn quá trẽ, lại là cô con gái đẹp đẽ dễ
thương dễ mến.
Cùng thời điểm đó,
có chuyện lạ lùng là cách đó khoản trăm cây số ở làng Vĩnh Mỹ (Bạc
Liêu) gia đình ông Hương Thừa có cô con gái trẽ dễ thương, đẹp đẽ
cũng bị bịnh rồi qua đời. Gia đình khóc thương thảm thiết chuẩn bị
ma chay tẫn lịm thế nhưng như một phép lạ một ngày sau khi chết cô gái
bỗng nhiên sống dậy và chỉ sau vài ngày tịnh dưỡng cô gái đã mạnh
khỏe như thường không nhắc chi đến bịnh trạng đã làm cô chết. Cả
gia đình nữa mừng nữa sợ không biết tại sao cô sống lại được trong
khi thực sự cô đã chết một ngày rồi... Cả nhà còn đang hồi hộp bán
tín bán nghi, cô con gái nói là cô con của ông cả Hiêu ở làng Tân
Việt Xứ Đầm Dơi Cà Mâu chứ không phải con của gia đình nầy. Gia đình
càng hoãn sợ cho rằng ma nhập xác nên đã nhờ thầy trừ tà đến cúng.
Cô gái thì tĩnh bơ và cứ nhắc đi nhắc lại cô không phải là ma quỉ
mà là con gái ông cả Hiêu và đòi dẫn cô về nhà cũ ở cách đó độ
trăm cây số. Qua mấy ngày trắc nghiệm thấy cô không phải quỉ ám
hay ma nhập chi cả, và hoàn toàn là cô không hiểu chi về gia đình nầy một
mãy may nào. Cô cũng hoàn toàn không biết gì về thời thơ ấu của cô cho
đến hiện tại, quả thật cô là một người hoàn toàn khác. Do đó
nên gia đình ông Hương Thừa đồng ý theo sự dẫn đường của
cô đi Cà Mâu đến làng Tân Việt để tìm hiểu thật hư thế nào...
Khi vừa vào nhà ông cả
Hiêu cả nhà còn ngơ ngát chưa biết thật hư thế nào cô đã chạy đến
ôm hôn cha mẹ là ông bà cả Hiêu nói rằng con đã về đây, chào hỏi mừng
rở với mọi người trong gia đình rồi đi rót nước pha trà mời mọi người
khách đúng như người con gái trong gia đình cái gì để chổ nào cũng biết...
Sau nhiều lần trắc nghiệm hỏi cô về quá khứ của cô và những việc
trong gia đình, gia đình ông cả Hiêu xác nhận đúng là con gái yêu quí của
họ thật sự mặc dầu với một thân hình khác. Từ đó hai gia đình
kết thân với nhau cô gái ấy sau nầy được hưỡng hai phần gia tài của
cả hai gia đình.
Qua câu chuyện trên chứng
minh cho ta thấy rằng tiền kiếp hậu kiếp xãy ra trước mắt mọi người.
Vấn đề ký ức ghi nhớ không phải hoàn là của bộ não, ở đây có thể
tạm lấy ví dụ cho dễ hiểu rằng Thức Thứ Tám ví dụ như dòng điện,
thân thể con người ví dụ như hệ thống dây dẫn điện và bóng đèn.
Nếu có bóng đèn mà không có dòng điện chạy qua thì bóng đèn không thể
tự phát ra ánh sáng được. Và ngược lại có dòng điện đó nhưng không
có những dụng cụ để kiểm chứng thì không thể nhận ra sự hiện hửu
của dòng điện...
Câu chuyện nầy cũng có
thể dùng để chứng minh những công năng của Thức Thứ Tám như đã ghi
ở phần trước là chứa tất cả các hạt giống, duy trì mạng sống, và
nối tiếp các đời sau...
Những trường hợp kể
trên là đầu thai trở lại theo nghiệp lực của người đó đẫn dắt đầu
thai, từ tiếng Anh thường dùng là Reincarnation. Sự đầu thai nầy không do
ý muốn của người đó quyết định.
Đức Phật dạy từ sự
sống qua sự chết chỉ là thay đổi một chu kỳ sinh diệt. vì con người
sinh ra, lớn lên rồi gìa chết đi như vậy thành một chuổi dài vô tận.
Sự sinh tử ấy do Nghiệp làm chủ động dắt dẫn. Đức Phật đã nói về
Nghiệp (Volitional action, karma) trong nhiều Kinh. Nói đến NGHIỆP là nói đến
những hành động có tác ý, thông qua hành động nghiệp được hình
thành. Đó là những kết quả của những hành động thiện ác do người
đó tạo ra mà động lực chính là Tham (covetousness (raga)) , Sân (hatred,
anger (pratigha)), và Si (delusion (moha)), đối khán lại là Không Tham, Không
Sân, Không Si.
Đức Phật dạy
:"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, nghiệp
là thai tạng sinh ra con người". (Owners of their Karma are the beings, heirs
of their karma, the karma is their womb from which they are born. Majjhima Nikaya 135).
Chính con người tự tạo
ra nghiệp và sau cùng bị nghiệp lôi cuốn vào vòng sinh tử luân hồi. Cũng
chính con người mới có thể tự dứt trừ nghiệp để thoát vòng
sinh tử luân hồi thành bậc La Hán (vô sinh) và sau cùng là thành bậc giác
ngộ hoàn toàn thoát vòng sinh tử luân hồi.
Nguyễn Du có viết trong
Truyện Kiều rằng :
Đã mang lấy nghiệp
vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần
trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài.
Nói về chữ NGHIỆP
trong kinh điển Phật Giáo giải thích rất phức tạp và gồm có nhiều loại,
thế nhưng giản lược mà nói thì gồm có năm loại chính:
1/ Cực
trọng nghiệp (weighty karma): như giết cha mẹ, giết người khác...
2/ Tập
quán nghiệp (habitual karma): nghiệp do thói quen huân tập.
3/ Tích lũy
nghiệp (stored-up karma): nghiệp do các hành động tạo ra và tích tụ
lại từ nhiều đời trước đến đời hiện tại.
4/ Cận tử
nghiệp (death-proximate karma): nghiệp tạo ra do các hành động lúc gần
chết.
5/ Năng hủy
nghiệp (tiếng Anh gọi là destructive karma) : đây là một loại nghiệp do những
hành động cực ác của người đó tạo ra có thể từ đời trước hoặc
đã tạo ra ngay trong đời hiện tại nay đã chín mùi và khởi ra tác dụng
hủy diệt thọ mạng người đó. Nghiệp lực nầy có thể gây cho người
đó chết bất đắc kỳ tử như gặp tai nạn xe cộ chết, chết đuối dưới
nước hoặc bị kể cướp bắn giết v.v..
Tóm lại loại Năng Hủy
Nghiệp nầy có thể làm cho người đó chết trước hạn kỳ thọ mạng của
họ thường gọi là chết bất đắc kỳ tử, nạn nhân chết trông mặt
mày kinh dị, mình mẫy cong queo hay mắt mở trừng trừng, miệng mồm há hốc
v.v..
Ngoài ra còn có các loại
nghiệp khác như nghiệp chung, nghiệp riêng, nghiệp cá nhân, nghiệp cộng
đồng v.v...
Nói chung có tất cả trên 60 loại nghiệp khác nhau không thể kể hết.
Nói đến đây không phải
chúng ta đã đi quá xa quên đi chức năng tàng chứa của Thức Thứ Tám mà
ngược lại ta đã làm sáng tỏ thêm vai trò tàng trữ những chủng tử thiện
ác và không thiện không ác...của Thức Thứ Tám. Khi nghiệp lực dắt dẫn
sự tái sinh qua kiếp sau đó chính là sự tác dụng của những hạt giống
trong Thức Thứ Tám đã chín mùi và đến lúc phát khởi ra hiện hành
vậy.
5- SỰ HÓA THÂN
CỦA NHỮNG VỊ LẠT MA TÂY TẠNG
Sau đây là sự đầu
thai trở lại do nguyện lực, do chính người đó muốn đầu thai trở lại
để tiếp tục hạnh nguyện của họ từ đời trước. Đó là sự hóa
thân của những vị có hạnh nguyện Bồ Tát đã dứt trừ nghiệp chướng,
không còn bị ràng buộc trong vòng sinh tử luân hồi thế nhưng họ muốn
trở lại vì để thực hiện những điều họ muốn tiếp tục từ nhiều
đời trước. Đó là sự tái sinh của các vị Lạt Ma Tây Tạng chẵng hạn...
Dựa theo tài liệu
nghiêng cứu về các vị Lạt Ma Tây Tạng (của tác giả Phương Dung trên
báo Việt Nam và Hồn Việt 1993) theo đó thì truyền thống tìm vị Lạt Ma
hóa thân bắt đầu từ năm 1419 khi Đại Sư Tsong Khapa qua đời. Trước khi
mất Đại Sư đã chỉ định Sư Gedun Truppa thay thế cho Ngài trong việc
lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng.
Đại Sư Gedun Truppa ra sức
hoằng dương Phật Giáo đồng thời Ngài cũng nguyện là sẽ tái sinh trở
lại để tiếp tục công việc độ sinh và hoằng dương chánh pháp cũng
như ra sức phát triễn phái Geluppas (phái mũ vàng).
Trước khi mất Đại Sư
Gedun Truppa có để lại một số những đồ dùng và một bài kệ do
Ngài viết để sau nầy dùng vào việc tìm lại hóa thân của Ngài. Sau khi
Ngài mất được hai năm các đệ tử dò tìm những nơi nghe có tin tức về
sự hóa thân. Các đệ tử tìm đến vùng kế cận thủ đô có cậu bé mới
hai tuổi đã hiểu biết thông thạo về Phật Pháp và tự nhận mình là hậu
thân của Đại Sư Gedun Truppa Sau nhiều cuộc trắc nghiệm như để những
đồ vật thường dùng của Ngài từ kiếp trước chung với những vật khác
xong họ bảo Ngài lựa riêng những món đồ của Ngài, kết quả Ngài lựa
ra đúng không sai. Nhiều cuộc trắc nghiệm Ngài đều trã lời đúng cuối
cùng các đệ tử đưa bài kệ để Ngài đọc thử không ngờ mới hai tuổi
Ngài đã đọc thông suốt bài kệ và còn giải thích ý nghĩa bài kệ cho mọi
người nghe...
Sau khi đã xác nhận đó
là đúng vị hóa thân mọi người đưa Ngài về tu viện và tôn Ngài làm Sư
Trưỡng lấy danh hiệu là Gedun Gyatso. Vị Sư nầy rất nỗi tiếng về nhân
đức và rất thông thái về Phật Học được mọi người kính nễ.
Vị Sư Trưỡng bị bệnh
và mất đi trong khi chưa thực hiện trọn vẹn ý nguyện của Ngài nên
Ngài làm bài kệ và những vật dụng để lại và nguyện tiếp tục đâù
thai trở lại để tiếp tục công việc độ sinh của Ngài.
Cũng như lần trước, lần
nầy các đệ tử đã tìm được cậu bé hóa thân mới một tuổi rưởi
ở một ngôi làng cách khá xa thủ đô. Cậu bé rất thông thái và cũng tự
nhận mình là hóa thân của Sư Trưỡng Gedun Gyatso. Có một hôm bé bảo cha
mẹ rằng chuẩn bị dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và lo trà nước để ngày
mai đón khách quí. Cả nhà đều ngạc nhiên nhưng vẫn nghe lời bé sửa soạn
đón khách. Đúng như lời cậu ngày hôm sau có phái đòan của các vị Lạt
Ma đi tìm hóa thân. Qua nhiều cuộc thử thách trắc nghiệm như cho lựa chọn
những món đồ thường dùng cũng cho bé đọc và gải thích bài kệ tiền
kiếp, hội đồng đã nhận ra được vị hóa thân. Mời cậu bé về thủ
đô và sau đó tấn phong Ngài làm sư trưỡng lấy tên là Sonaw Gyatso. Mỗi
lần vị hóa thân sau tỏ ra tài ba lỗi lạc hơn vị trước rất nhiều. Đó
là sự tích tụ kiến thức nhiều đời do Thức Thứ Tám tàng trữ và sau
mỗi đời như thế có tăng trưỡng thêm lên thấy rõ rệt.
Đại Sư Sonaw Gyatso là
người đã giáo hóa và làm cho tướng hung hãn của Mông Cổ là Đại Hãn
giác ngộ. Chính tướng Mông Cổ nầy đã phong Đại Sư làm Đạt Lai Lạt
Ma và cầu mong Đại Sư giáo hóa và bảo vệ cho người Mông cổ.
Năm 1588 Đại Sư Sonaw Gyatso qua đời. Năm 1593 hội đồng tìm hóa thân đã
tìm được Ngài hóa thân đưa về tu viện và phong Ngài làm Sư Trưỡng tên
là Yonsten Gyatso (Chính vị Đạt Lai Lạt Ma nầy là cháu nội của Đại Hãn
Mông Cổ), nhờ tài đức và sự bảo hộ của Ngài mà dân Mông Cổ đã
trãi qua một thời đại phồn thịnh an cư lạc nghiệp.
Sau khi Ngài qua đời người
ta đã tìm được vị hóa thân và được phong làm Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ 5 tên là Lobsang Gyatso. Chính Đời vị Đạt Lai Lạt Ma nầy cung điện
Potala được xây dựng. Ngoài ra các tu viện Phật Giáo được xây dựng khắp
nơi trên đất nước Tây Tạng. Tăng ni có trình độ học vấn rất cao và
đạo hạnh rất tốt. Từ đó đến mấy trăm năm sau nhờ sự lãnh đạo sáng
suốt và đạo đức của các vị Đạt Lai Lạt Ma nối tiếp nhau theo
phương cách hóa thân đất nước Tây Tạng độc lập và rất phồn vinh.
Từ thời Đức Đạt Lai
Lạt Ma thứ 13 là Thupten Gyatso các nước ngoài dòm ngó Tây Tạng. Trước
khi mất cũng như nhiều lần trước ngài có phát nguyện sẽ hóa thân trở
lại để tiếp tục sứ mạng của Ngài đối với nhân dân và Phật Giáo
Tây Tạng. Sau khi Ngài mất, chính quyền Công Sản Trung Quốc đã xua quân
xâm chiếm Tây Tạng đàn áp dân Tây Tạng và triệt hạ Phật Giáo.
Sau khi tìm được em bé
Lhamo sau nầy thành vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đương thời, ngài là một
nhà chính trị và nhà lãnh đạo Phật Giáo tài ba lỗi lạc, đức độ
vẹn toàn, cả thế giới xem Ngài như Vị Phật sống. Thế nhưng Ngài vẫn
sống không yên dưới sự dàn áp dã mang của chính quyền Cộng Sản Trung
Quốc. Năm 1959 giữa đêm khuya Ngài phải bí mật rời khỏi cung điện
Potala vượt qua biên giới để đến Ấn Độ tỵ nạn cho đến ngày nay.
Ngài đã được trao tặng
giải thưỡng Nobel Hòa Bình cho công cuộc tranh đấu đòi độc lập cho dân
Tây Tạng. Hiện nay cả thế giới không phân biệt tín ngưỡng đều rất
kính trọng tài đức của Ngài và mọi người tôn kính Ngài là vị Phật
sống. Nước nào, dân tộc nào cũng rất ngưỡng mộ, tỏ lòng quí mến
Ngài. Những biểu lộ lòng kính mến đó được thể hiện rõ nhất ở những
nơi Ngài đã đến thăm.
Từ những dẫn chứng
nêu trên đủ để chứng minh sự hiện hửu và công năng rất đa dạng, phức
tạp của Thức Thứ Tám như đã nêu rõ ở phần đầu của bài nầy (trong
phần ( I ) các tên gọi của Thức Thứ Tám).
Cũng từ những chứng
minh trên về sự hiện hửu và chức năng của Thức Thứ Tám, qua vấn đề
nghiệp báo và sự tái sinh đã giải thích được những trường hợp sau
(Theo sách "The Buđha and his teachinngs" của Nãrada Maha Thera, bản
in lần thứ nhì 1973, do Đài Loan in lại trang 238 - 239) :
"1- Vấn đề
đau khổ mà chính ta phải chịu trách nhiệm.
2- Sự chênh lệch
tựa hồ như bất công giữa nhân loại.
3- Sự hiện hửu
của những bậc vĩ nhân và những thần đồng.
4- Tại sao hai
trẽ sinh đôi giống nhau y hệt về mặt thể xác, được nuôi dưỡng với
những điều kiện như nhau mà lại có những đặt tính hoàn toàn khác nhau
về mặt tinh thần, đạo đức và trí tuệ.
5- Tại sao
trong một gia đình, nếu theo định luật (lai giống) truyền thống thì con
cái phải giống nhau hết, nhưng trong thực tế lại không giống nhau.
6- Tại sao nhiều
người lại có những năng khiếu đặt biệt.
7- Tại sao cha
mẹ và con cái lại có những đặt tính khác nhau về mặt đạo đức và
trí tuệ.
8- Tại sao trẽ
con có những đặt tính tự nhiên như tham lam, sân hận, ganh tỵ...
9- Tại sao khi
gặp một người nào đó lần đầu tiên mà ta dã có thiện cảm hay ác cảm.
10- Tại sao trong mỗi
người đều có tiềm tàng những đức tính tốt và rất nhiều tật xấu.
11- Tại sao có sự
thay đổi bất ngờ, bực thiện trí thức trở thành tầm thường hay kẻ sát
nhân bỗng nhiên đổi tánh sống như bậc thánh.
12- Tại sao có trường
hợp cha mẹ hiền lương mà sanh con hung ác, trái lại có cha mẹ hung dữ lại
sanh con hiền từ.
13- Tại sao có những
cái chết đột ngột và sự thay đổi tài sản một cách rất bất ngờ.
14- Theo thuyết nghiệp
báo và tái sinh giải thích vì sao có bậc toàn giác, bậc giáo chủ toàn
thiện như Đức Phật, có đầy đủ đức tánh vật chất, tinh thần và
trí tuệ..."
III-CHỨC
NĂNG CỦA THỨC THỨ TÁM THỂ HIỆN QUA NHÂN DUYÊN VÀ NGHIỆP DẪN TÁI SINH
1-MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN (Paticca
Samuppãda)
Trong
tiếng Pa-Li từ Paticca nghĩa là "bởi vì" hay "tùy thuộc nơi",
Samuppãda là "phát sanh" hay "xuất xứ". Như vậy Paticca
Samuppãda có nghĩa là "sự phát sanh... tùy thuộc vàọ... " hay
"bởi vì có A nên mới có B...". Và có thể nói rằng bởi vì có A
nên B mới phát sanh, bởi vì có B nên C mới sanh khởi được cứ như thế
yếu tố trước làm nhơn cho cái sau và liên tục tạo thành vòng tròn nhân
duyên thường gọi là 12 nhân duyên.
Trong
chuổi dài vô tận của luân hồi, Nghiệp do thân, miệng, và ý thức tạo
ra đều do Thức Thứ Tám cất giữ dưới trạng thái hạt giống hoặc thiện
hoặc ác hoặc không thiện không ác...
Khi
đề cập đến những loại hạt giống chúng ta không thể quên những hạt
giống hửu lậu (có thể chuyển đổi hoặc có thể bị triệt tiêu bởi
những hạt giống đối kháng, còn có nghĩa là loại hạt giống nầy khi khởi
ra hiện hành tức là đưa người đó vào vòng vô minh, khổ đau trong vòng
luân hồi sinh tử) , hoặc hạt giống vô lậu (là những hạt giống trong
sáng, từ bi lợi tha, vươn lên giác ngộ giải thoát khỏi vòng triền phược
sinh tử luân hồi). Do đó hành giả trong phương pháp tu tập Duy Thức ngăn
ngừa không cho hạt giống hửu lậu tái hiện hoặc khởi lên hiện hành, dần
dần dùng hạt giống vô lậu để triệt tiêu hạt giống hửu lậu khiến
cho Thức Thứ Tám chỉ còn chứa những hạt giống vô lậu thanh tịnh.
Sau
khi con người chết đi Thức Thứ Tám sẽ duy trì tất cả những hạt giống
đó qua một kiếp khác, trong đó "cận tử nghiệp" là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy trong việc đầu thai. Động lực nầy thúc
đẩy Thức đầu thai vào con đường thiện hoặc ác đều do cận tử nghiệp
thúc đẩy. Đời sống mới nầy có thể là người, súc vật, ma quỉ,
tiên, thánh...Những sự tái sinh đó nhất thiết tuân theo luật Nhân -
Duyên - Quả thể hiện qua vòng tròn 12 nhân duyên, tiếng Anh thường gọi
là The Wheel of Life, như sau :
1- Vô Minh (avidyã, ignorance) : Sự mê mờ, cuồng
si của tâm thức
2- Hành (samskãra, karma-formations) : các tánh hạnh
thuộc hoạt động tâm thức
3- Thức (Vijnãna, consciousness) : Thức đây phải
được hiểu là Căn Bản Thức tức là Thức Thứ Tám
4- Danh Sắc (nãmarũpa, mentality and corporeality) :
Danh tức là những gì thuộc về tâm lý, Sắc là những gì thuộc về
vật lý
5- Lục nhập (sabdãyatana, six sense spheres) : Tức
là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với đối tượng là Sắc,
thinh, hương,vị, xúc, pháp
6- Xúc (spãrsa, impression) : sự giao thoa giữa căn,
trần và thức
7- Thọ (vedanã, feeling) : Sự cảm thọ
8- Ái (sneha, craving) : sự ưa thích
9- Thủ (upãdãna, attachment) : sự bám víu, cố chấp
10- Hửu (bhãva, process of becoming) sự hiện hửu của dị
thục, của sinh
mệnh
11- Sinh (jãti, birth) : sự sinh thành, sự tạo tác
12- Lão tử (jarã- marana, decay and death) : sự già nua
và tử biệt.
Trên
đây là thứ tự của 12 nhân duyên theo lối giải thích thông thường.
A- NGUỔN GỐC CỦA LÝ
DUYÊN KHỞI (12 NHÂN DUYÊN)
Sau
khi Đức Phật thành bậc chánh đẵng chánh giác ngài vẫn ngồi thiền định
dưới cội Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddha Gayã) để chứng
hạnh phúc giải thoát (vimutti sukha). Trong đêm thứ bảy cuối tuần
ngài xuất thiền và suy niệm về Mười Hai Nhân Duyên (Paticca
samuppãda) theo chiều xuôi như sau: "Khi cái [nguyên nhân] nầy có,
thì cái [kết quả] nầy có; với sự phát sinh của cái [nhân] nầy, cái
[quả] nầy phát sinh". (when this [cause] exists, this [effect] is; with the
arising of this [cause], this [effect] arises). (9)
Ý
nghĩa đó được giảng lược như sau: Từ nơi Vô Minh, Hành, thiện và bất
thiện phát sinh. Từ nơi Hành, Thức phát sinh. Từ nơi Thức Danh Sắc phát
sinh. Từ nơi Danh Sắc, Lục căn phát sinh. Từ nơi Lục Căn, Xúc phát sinh.
Từ nơi xúc, Thọ phát sinh. Từ nơi Thọ, Ái Dục phát sinh. Từ nơi Ái Dục,
Thủ phát sinh. Từ nơi Thủ, Hửu phát sinh. Từ nơi Hửu có Sinh. Từ nơi
Sinh mới phát sinh bịnh, Lão Tử, phiền não (soka), ta thán (parideva), đau khổ
(dukkha), âu sầu và thất vọng.
Cũng
trong đêm ấy Đức Phật đã suy niệm 12 nhân duyên theo chiều ngược như
sau : "Khi nguyên nhân nầy không còn thì quả nầy cũng không còn. Với
sự chấm dứt của nhân nầy, quả nầy cũng chấm dứt." (when this
cause does not exit, this effect is not; with the cessation of this cause, this effect
ceases).
Nguyên
lý của chiều ngược nầy được diễn tã như sau : Với sự chấm dứt của
Vô Minh, hành chấm dứt. Với sự chấm dứt của Hành, Thức chấm dứt. Cứ
như thế tuần tự đến "với sự chấm dứt của Sanh, Bịnh, Tử, phiền
não, ta thán, đau khổ, âu sầu, và thất vọng chấm dứt."
Vào
khoản canh ba Đức Thế Tôn suy niệm về sự "tùy thuộc phát sanh"
theo chiều xuôi và chiều ngược như sau : "Khi nhơn nầy có thì quả nầy
có. Với sự phát sinh của nhơn nầy quả nầy phát sinh. Khi nhơn nầy không
có thì quả nầy không có. Với sự chấm dứt nhơn nầy, quả nầy chấm dứt."
Ý
nghĩa đó được diễn dịch như sau : "Từ Vô Minh, Hành phát sinh
v.v..Như thế ấy, toàn khối đau khổ phát sinh. Với sự chấm dứt của
Vô Minh, Hành chấm dưt v.v.. Như thế ấy, toàn khối đau khổ chấm dứt."
Trong
Kinh A-Hàm Đức Phật dạy :
"Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy sinh thì cái kia
sinh"
"Cái nầy không thì cái kia không, cái nầy diệt thì
cái kia diệt"
(Amasmin sati idam hoti imas'uppada idam uppajiati, imasanim
arati
idam na hoti imassa nirodba idam nirvjjhati, yad idam...).
Những
lời dạy nầy được coi là đơn giảng nhưng đầy dủ về lý Duyên Khởi.
Khi dạy về lý duyên khởi Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy một
cách rất khoa học giữa mối tương quang sinh diệt của vạn hửu vũ trụ,
phá được những mê lầm vọng chấp về đấng tạo hóa minh thị nguồn gốc
của vạn vật kể cả con người.
Để
truy nguyên về nguồn gốc của 12 chi trong lý duyên khởi xin trích dẫn
một đoạn trong Kinh Tạp A Hàm như sau (10) :
"Các
Tỳ Kheo! Xưa kia, khi ta còn là Bồ Tát, chưa thành chính giác, ta tự nghĩ:
cõi đời nầy thật do những nỗi khổ (kiccha) ràng buộc: sinh, gìa, chết
để rồi lại sinh ra, và vẫn chưa biết thoát ly cái khổ của già, chết
thì làm sao biết được cái khổ già, chết để thoát ly ? Lúc
đó ta tự hỏi : nhờ đâu có già, chết ? Do đâu có già, chết ?
Bấy
giờ nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực như
vầy: Nhờ có sinh mà có già, chết, do sinh làm duyên mà có già, chết.
Lúc
đó ta lại tự nghĩ : nhờ đâu mà có sinh, có hửu, có ái, có thọ, có
xúc, có lục nhập, có danh sắc, cho đến do đâu mà có danh sắc ?
Bấy
giờ nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực như
vầy : do có Thức mà có danh sắc, nhờ Thức làm duyên mà có danh sắc.
Rồi
ta lại tự hỏi : do đâu mà có Thức , lấy gì làm duyên mà có Thức ?
Bấy
giờ ta tự nghĩ , Thức nầy là vật có thể trở lại, vượt lên trên
danh sắc, chỉ nhờ vào đó (chúng sinh) có già, sinh, chết và tái
sinh, tức lấy danh sắc làm duyên mà có Thức, lấy Thức làm duyên mà có
danh sắc, lấy danh sắc làm duyên mà có lục nhập, lấy lục nhập làm
duyên mà có xúc v.v... Như vậy thuần là nguyên nhân của khổ uẩn.
Lớn
thay những nguyên nhân ấy ! Thế là, với ta, chưa từng nghe những pháp
ấy mà sinh mắt, sinh trí, sinh tuệ, sinh sáng, sinh ánh sáng.
Bây
giờ ta lại tự nghĩ, làm thế nào không có già, chết ?
Cái
gì diệt thì già chết diệt ?
Rồi
nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực như vầy
: không sinh thì không già, chết, sinh diệt thì già, chết diệt.
Lúc
đó ta lại tự nghĩ, làm thế nào có được không sinh, không hửu, không
thủ, không ái, không thọ, không xúc, không lục nhập, không danh sắc, cho
đến cái gì diệt thì danh sắc diệt ?
Rồi
nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực như vầy
: không có Thức thì không có danh sắc, Thức diệt thì danh sắc diệt.
Bấy
giờ ta lại tự nghĩ, làm thế nào để không có Thức ? Cái gì diệt thì
Thức diệt?
Rồi
nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực như vầy
: Không có danh sắc thì không có Thức, danh sắc diệt, thì Thức diệt.
Lúc
đó ta lại tự nghĩ, cái đạo mà ta vừa ngộ có thể đạt được, tức
là, danh sắc diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì danh sắc diệt, do danh sắc
diệt mà lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, cho đến... Như vậy
là thuần diệt những khổ uẩn.
Lớn thay sự tiêu diệt ấy ! Thế là với ta chưa từng nghe pháp ấy
mà sinh mắt, sinh trí, sinh tuệ, sinh sáng, sinh ánh sáng. Điều nầy cũng giống
một người đang thơ thẫn trong cánh đồng hoang bỗng phát hiện con đường
mòn của người xưa đã đi và cứ đi theo lối mòn ấy mà thấy được làng
mạc và thành quách của người xưa và nhà cửa của người xưa với vườn,
sân, rừng cây, ao sen và tường hoa v.v.."
Đoạn
kinh trên đây cho ta thấy sự phát khởi đầu tiên về lý duyên khởi là
tiềm hiểu nguyên nhân sinh tử và con đường thoát ly sinh tử.
Đồng
thời đoạn kinh có nói đến vai trò trọng yếu của Thức trong vấn đề
sinh tử và tái sinh.
Thế
nhưng đoạn kinh chỉ đề cập đến 10 chi trong 12 nhân duyên, không thấy
đề cập đến Vô minh và Hành, do đó có nhiều giả thuyết cho rằng Vô
Minh và Hành là do các đệ tử Phật sau nầy mới thêm vào. Cũng vì thế về
sau vấn đề nầy trỡ thành vấn đề giáo tướng và giữa các luận sư của
A Tỳ Đạt Ma đã sinh ra nhiều cuộc tranh luận sôi nỗi.
Để
làm sáng tỏ vấn đề xin trích dẫn một đoạn khác cũng trong kinh A Hàm
như sau : " Nầy Ca Chiên Diên ! Phần nhiều người ta chỉ đứng về
hai bên, tức hoặc cho là có, hoặc cho là không.., Ca Chiên Diên ! Bảo hết
thảy là có, là đệ nhất biên kiến, bảo tất cả là không, là đệ nhị
biên kiến. Ca Chiên Diên ! Như Lai nói pháp xa lìa nhị biên nầy mà
cho rằng vì Vô Minh làm duyên mà có Hành, Hành làm duyên mà có Thức...
"
Ta
thấy trong đoạn Kinh trên đây Đức Phật đã chỉ rõ lý trung đạo về vấn
đề thế giới quan và về Nhân Duyên Quan. Đức Phật vì sợ hàng đệ tử
chấp Thức làm ngã mà bị cản trở việc tu chứng giải thoát nên Ngài
không nhấn mạnh vai trò trọng yếu của Thức. Thế nhưng chúng ta có thể
hiểu được vai trò trọng yếu của Thức trong 12 nhân duyên và nhất là
Thức giữ vai trò chính yếu trong việc chuyễn kiếp qua đời sau.
Trở
lại Duyên Khởi Quan, từ hai đoạn kinh trên tính ra đã đủ số 12 chi từ
Vô
Minh, Hành..... Sinh, Lão Tử.
Ngoài
ra trong luận Đại Tỳ Bà Sa có đoạn : " Đại Đức nói, do chỗ
quan sát về
Duyên Khởi có mười hai chi tính khác nhau mà Xá Lợi Tử thành A La
Hán"
Điều đó cho ta nhận thức được rằng nhờ quán chiếu thực hành 12
nhân duyên
do Đức Phật dạy mà Xá Lợi Tử đã chứng quả A La Hán.
Từ
những dẫn chứng trên cho chúng ta xác quyết rằng 12 nhân duyên là do
Chính Đức Phật đã hệ thống hóa và giảng thuyết cho hàng đệ tử của
ngài để
theo đó mà tu tập.
Có
rất nhiều lối giải thích về lý Duyên Khởi nầy.
Khảo
sát 12 nhân duyên là khảo sát sự sinh tử tương tục trong ba đời: quá khứ,
hiện tại và đời vị lai.
Hửu
Bộ Tôn đứng trên bốn lập trường chia Duyên Khởi quang như sau :
1/ Sát Na : trong một tích tắc có đủ quan hệ của 12 nhân
duyên
2/ Liên Tục : quan hệ trước sau nối tiếp nhau
3/ Phận vị : phô bày cái pháp tắc của ba đời
4/ Viễn tục : sự qui định vô hạn của vạn vật
(11)
Thứ
tự của 12 nhân duyên được giải thích theo hai lối là Vãng Quan và Hoàn
Quan.
Vãng
Quan là sự quan sát xem xét lão tử bắt đầu từ đâu, rồi từ Lão Tử
đến Sinh, từ Sinh đến Hửu và cứ thế lần lược đến Vô Minh.
Còn
Hoàn Quan là sự quan sát lấy Vô Minh làm khởi điểm rồi qui kết đến đâu
có Lão Tử.
B-THEO LẬP TRƯỜNG VÃNG
QUAN
Theo
Kinh Đại Duyên trong Trường Bộ Kinh (Mahanidana Sutta), Đức Phật giải rõ
cho A Nan biết về Vô Ngã Luận do đó mà đưa đến thứ tự duyên khởi,
trong văn Pali thiếu mất Vô Minh và Hành, đặt Lục Nhập sau Xúc. Thế nhưng
trong bản Hán dịch thì có đầy đủ 12 nhân duyên và có giải thích rõ
ràng. Như trên đã nói giải thích theo lập trường Vãng Quan là bắt đầu
từ Lão Tử và theo thứ tự như sau:
1- Lão Tử (Jara Marana) :
Có già rồi sẽ suy yếu và mất đi đó là sự tan rã
của Sắc tức Tứ Đại, bốn yếu tố vật chất không còn giữ sự kết
hợp điều hòa nữa mà đã bị luật Vô Thường làm tan hoại đi chỉ còn
lại Danh tức là Tâm cũng gọi là Thức (Thức Thứ Tám) tồn tại. Nhưng
do đâu mà có hiện tượng Lão Tử đó ? Đấy là khởi điểm của sự
quan sát về lý Duyên Khởi.
2- Sinh (Jati) :
Trên đã nói tại sao con người lại gìa chết
? Bởi vì ta có thân nầy ? Nhưng do đâu con người lại có thân nầy. Bởi
vì có Sinh nên mới có thân nầy và vì có thân nên phải lụy vì thân đó
là Gìa cả ốm yếu, bệnh tật rồi cuối cùng là chết đi. Như vậy Sinh
là điều kiện của Gìa Chết.
Sự
sinh ra tùy thuộc rất nhiều điều kiện nhưng trọng yếu nhất là Hửu.
3- Hửu (Bhava) :
Hửu tức là sự tồn tại, nghiã là có sinh
là có sự hiện hửu tồn tại. Vì nếu không tồn tại thì xem như không
có Sinh. Vì có sinh nên có Y Báo (thế giới đang sống) và Chính Báo (loài
người và các sinh vật) trong ba cõi là Dục giới (kamobhava), Sắc Giới
(rupabhava) và Vô Sắc Giới (arupabhava). Do có Sinh mới có sự tồn tại là
Hửu do đó mà Hửu đứng hàng thứ ba sau Sinh.
4- Thủ (rupadãna) :
Thủ có nghĩa là giữ lấy, nắm
chặt lại. Có bốn loại Thủ là Dục Thủ, Kiến Thủ, giới Thủ, và Ngã
Thủ. Vì có cái Năng Thủ là cái Ta mới có cái Sở Thủ là đối tượng
chung quanh ta do đó mà sinh ra chấp ngã, chấp pháp và sinh ra ái dục
chìm đắm trong sinh tử luân hồi trong ba cõi (tức là Hữu). Nếu thoát ra
được chấp trước (Thủ) thì dù có sự hiện hửu của ba cõi (Hửu) đi
nữa cũng không thể là thế giới của con người; điều nầy nói lên sự
liên hệ giữa Thủ và Hửu và do đó Thủ đứng sau Hửu.
5-Ái (tãnha) :
Thế nhưng sự chấp trước đó do đâu
mà có? Đó là do ÁI mà phát sinh. Ái đây là Dục Ái là tham luyến đam mê.
Khi Đức Phật giảng về pháp Tứ ĐẾ, Ái được gọi là Tập Đế tức
là nguồn gốc của thế giới hiện thực. Động lực căn bản của hoạt
động sinh mệnh là do Sinh-tồn-dục (bhavatãnha) làm trung tâm điểm rồi phát
sinh ra hai phương diện Tính-dục (kamatãnha) và Phồn-vinh-dục
(vibhavãtãnha). Bởi vì con người sau khi được sinh ra là muốn sống, do
bản năng sinh tồn nầy mà phát sinh ra những tham ái phụ thuộc khác
để thoả mãn cuộc sống...
Như
trên đã nói con người vì có Sinh ra nên mới có sự hiện Hửu. Và có hiện
hửu Ta và thế giới chung quanh nên có chấp Ngã và chấp Pháp tức
là Thủ và vì có Thủ nên mới Ái nhiễm rồi mới có suy tàn đưa đến Lão
Tử. Như vậy từ năm chi kể trên cho ta hiểu rõ về Khổ và Tập trong Tứ
Đế. Giải thích về Duyên -Khởi-Quan nghĩa là nói rõ về Khổ Đế và Tập
Đế.
Tuy
nhiên, Ái dục cũng có thể xem là một hiện tượng tâm lý, nghĩa là
một trong những hoạt động của Ý thức và Mạt Na thức sinh diệt tương
tục. Do đó sự phát sinh của dục Ái nầy có thể xem là điều kiện của
những tâm lý khác đó là:
6-Thọ (vedana)
7-Xúc (phassa)
8- Lục Nhập (salayatana)
Ái
và dục nếu khảo sát sâu hơn thì đó vẫn là những hiện tượng tâm lý
xãy ra phải đòi hỏi có điều kiện mới phát sinh được. Đó là phải
có đối tượng và có cảm tình về đối tượng đó thì Ái dục mới
phát sinh. Khi Aí phát sinh rồi thì liền sau đó là Thọ, nghĩa là trao đổi
cho nhau cái gì ngay cả về phương diện tâm lý lẫn vật chất...
Muốn
có Thọ ắt phải có Xúc tức là tiếp xúc. Xúc cảm về tâm lý cũng như
tiếp xúc về vật lý như đụng chạm, cọ xát...Muốn có Thọ, có Xúc phải
nhờ sáu cơ quan đó là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý tiếp xúc với sáu
đối tượng của nó là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mới sinh ra những
sự nhận thức đó là Nhãn Thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân
Thức và Ý thức. Do đó Lục Nhập tức là sáu căn tiếp xúc với sáu trần
mới sinh ra sáu sự nhận thức phân biệt được. Sáu thức nầy đều
nương nơi căn bản thức tức là Thức Thứ Tám mới phát khởi ra phân biệt.
Thế
nhưng sáu căn do đâu mà tồn tại được. Muốn hiểu rõ ta phải khảo
sát :
9- Danh Sắc (namarupa)
Danh tức là Tâm, Sắc là thân trong câu
nói "thân danh sắc tâm" , nghiã là tổ chức do thân và tâm hợp
lại mà thành. Như vậy lục nhập chỉ phát sinh khi có Danh Sắc làm chủ
các hành động đó, hay nói cách khác một con người thân tâm kiện toàn
thì sáu căn mới hoạt động hửu hiệu được.
Danh Sắc là tổ chức thân tâm kết hợp nhưng chủ yếu đó là một phức
hợp thể của Ngủ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưỡng, Hành, Thức). Trên lập trường
nhận thức luận và theo lời Đức Phật dạy ta phải khảo sát sự liên
quan và vai trò của Thức trong sự liên hệ nói trên.
10-Thức (Vinnana)
Thức là một bộ phận trong kết hợp
thể Danh Sắc nhưng nếu xem Danh Sắc như nhận thức thể thì Thức trở
thành trung tâm của sự hình thành Danh Sắc. Thức đây nên hiểu là Thức
Thứ Tám vì nó được gọi là Căn Bản Thức nên các thức khác trong tám
món tâm vương phải nương vào nó để phát khởi phân biệt.
Trong Bát Thức Qui Cũ của ngài Huyền Trang có bài tụng chỉ rõ tính chất
của các thức như sau :
Tám chú anh em ; si, một chàng (thức thứ bảy)
Tinh khôn rất mực , chỉ một trang (ý thức)
Cửa ngoài buôn bán, năm em nhỏ (năm thức trước)
Chủ soái trong nhà, cậu đảm đang (thức thứ
tám)
(Việt dịch : Như Tạng)
(Bát cá đệ huynh, nhứt cá si
Độc hửu nhứt cá tối linh ly
Ngủ cá môn tiền tố mại mãi
Nhứt cá gia trung tác chủ y)
Trở
lại công năng của Thức Thứ Tám là huân tập, giữ gìn các hạt giống
và cho các hạt giống phát khởi ra hiện hành; những điều đó đủ nói
lên vai trò chủ đạo của Thức trong tiến trình của các giai đoạn
trong lý duyên khởi nầy. Thế nhưng dù Thức có đóng vai trò chủ đạo trọng
yếu cách mấy nhưng nếu không có cơ quan làm chỗ dựa và không tiếp xúc
với trần cảnh là những đối tượng thì Thức cũng không thể chính nó
phát khởi ra nhận thức phân biệt được. Do đó cả chuổi 12 nhân
duyên không thể thiếu một món nào.
Nếu
đi từ Lão Tử đến Thức tất cả 10 chi kể trên cũng đủ để tiến tới
một nhận thức luận về duyên khởi quan một cách đại cương về
phương diện hiện thực. Thế nhưng không thể giải thích một cách rốt
ráo tại sao sự sống chết lại tương tục vô cùng, không thể nhận thức
về bản chất của sinh mệnh, về ý chí. Do đó cần nói rõ về nguồn gốc
của Thức đó là Hành và Vô Minh.
11- Hành (sankara) và
12- Vô Minh (avijja)
Thức sở dĩ có tác dụng phân biệt
là do ý chí (tức là Hành). Chữ Hành nguyên ngữ rất khó hiểu vì khó
hình dung được ý nghĩa của nó. Nhưng để giải thích Hành các luận gia
Phật Giáo thường có câu "vì hình thành hửu vi nên gọi là
Hành". Nếu nói theo nghĩa hẹp thì Hành tương đương với ý chí. Nhưng
nếu phân tích rộng ra thì tất cả những yếu tố khiến cho tâm (hay Thức
Thứ Tám) hoạt động đều thuộc về Hành.
Thức
thực hiện những mục tiêu của ý chí (Hành). Nếu đứng về mặt biểu
hiện mà nói thì Hành là nguyên động lực thúc đẩy thân, khẩu, ý hoạt
động. Nếu đứng về phương diện nội tại mà nói thì Hành chính
là Nghiệp, là động lực vô hình nhưng rất mãnh liệt thúc đẩy, dẫn dắt
Thức Thứ Tám thọ quả ở đời sau. Thế nhưng nguyên nhân sâu xa nhất
của ý chí (Hành) hay nghiệp là Vô Minh. Ngay cả những hoạt động của thân
tâm đều phát nguồn từ vô minh. Sự hoạt động của Thức Thứ Tám phát
xuất từ Vô Minh nhưng khi Thức Thứ Tám được hành giả tẩy sạch các hạt
giống mê mờ hửu lậu, Thức Thứ Tám chuyễn thành Trí rồi thì Vô Minh bị
tẩy xóa sạch nơi Thức. Lúc bấy giờ Thức Thứ Tám có tên là Bạch Tịnh
Thức, chỉ có đức Phật mới có thức nầy.
Như
vậy Vô Minh ở đây có nghĩa là sự mù quán, mê mờ, ngã chấp, triền phược,
phiền não, lậu hoặc v.v... Tất cả các chi trong 12 nhân duyên, mỗi
chi đều có tìm ẩn hai món Hành và Vô Minh. Ví dụ trong Lão Tử có Hành
và Vô Minh, trong Sinh cũng có Hành và Vô Minh... Vì trong quá trình Sinh phải
có sự chuyển nhập của Thức Thứ Tám đó là Hành, những giai đoạn trước
đó là Vô Minh. Trong Thức có Hành và Vô Minh vì khi căn tiếp xúc với đối
tượng của nó sau đó Thức khởi ra nhận xét phân biệt đó là Hành, nhận
xét thiên lệch không chính xác đó là Vô Minh...
Đức
Phật dạy : "Vô Minh là lớp ảo kiến mịt mù dày dặt trong ấy chúng
sinh quay quần quanh lộn" (Sutta Nipãta, câu 730).
Đến
đây ta đã truy tầm đến điểm mấu chốt cuối cùng của 12 nhân duyên đó
là Vô Minh. Trong Vô Minh không có điểm khởi đầu và không có điểm cuối
cùng. Điểm đặc sắc trong lý duyên khởi nầy là nói lên sự sinh tử
luân hồi của chúng sinh vô tận không có điểm khởi đầu và không có
điểm chấm dứt cuối cùng.
Đức
Phật dạy nếu muốn thoát khỏi sinh tử hành giả phải thực hành các phương
pháp tu tập đạt đến giác ngộ hoàn toàn giải thoát khỏi vòng sanh tử
luân hồi.
Theo
sự phân tích tiến trình trên có thể chia 12 nhân duyên thành 5
phạm trù như sau:
(1) Lão Tử - Sinh -
Hửu
(2) Hửu - Thủ
- Ái
(3) Ái - Thọ - Xúc -
Lục Nhập - Danh Sắc
(4) Danh Sắc - Thức
(5) Thức - Hành - Vô Minh
(12)
(1)
Phạm trù thứ nhất trình bày về thân phận hiện thực và thế giới hiện
hửu (Thủ) rồi lần lược khảo sát đến Sinh là điều kiện của Lão Tử.
Như thế Lão Tữ thuộc về đời quá khứ làm nhân cho đời hiện tại là
Sinh và tồn tại đó là Hữu.
(2)
Phạm trù thứ hai khảo sát sự kinh quá đạt thành của thân phận con người.
(3)
Phạm trù thứ ba giải thích quá trình hoạt động của bản năng căn bản
dục vọng và quá trình sinh hoạt tâm lý cũng như sự giao thoa giữa căn, cảnh
và thức.
(4)
Phạm trù thứ tư khảo sát tổ chức của thân tâm và nguồn gốc hoạt
động của nó trên phương diện nhận thức luận.
(5)
Phạm trù thứ năm khảo sát căn nguyên của giòng sinh mệnh và sự tiếp nối
vòng tròn vô thỷ vô chung của vòng luân hồi 12 nhân duyên.
Tóm
lại giải thích 12 nhân duyên theo lập trường Vãng Quan như trên cho ta thấy
những điểm nỗi bậc là khảo sát từ Lão Tử tức là sự chung cuộc của
đời người rồi từ đó qua đến điểm khởi đầu là Sinh, có nghĩa là
tìm nguyên nhân của Lão Tử cứ như thế tìm mãi đến Vô Minh là nguyên
nhân sâu xa và vô hạn đưa đến vòng tròn nối tiếp vô tận luân hồi của
lý duyên khởi.
Đây
có thể nói là lối khảo sát đi từ hiện tượng thực tại tìm đến
căn nguyên sâu xa nhất, nguyên thỷ nhất của giòng sinh mệnh. Giống như
cuộc hành trình đi từ hạ lưu của một con sông tìm mãi tìm mãi lên đến
nơi phát nguyên để rồi từ điểm khởi đầu trên cao kia nhìn toàn bộ
giòng sông một cách tinh thông hơn về giòng chảy của nó. Đây là lối giải
thích từ Quả tìm ra Nhân trên lập trường Vãng Quan.
Đứng
trên lập trường của Duy Thức Học mà nói thì trong 12 chi của lý duyên
khởi chi nào cũng có tác dụng của Thức Thứ Tám; vì chức năng
của Thức là phân biệt, huân tập chứa nhóm chủng tử và khởi ra hiện
hành. Ví dụ trong Hành và Vô Minh nếu không có sự phán đoán phân biệt
thì sẽ không có Hành và cũng sẽ không nhận thức được Vô Minh. Trong
Ái cũng vậy nếu không phân biệt được đối tượng không chứa chủng
tử của yêu thương thì làm gì có sự phát khởi hiện hành là Ái. Trong Lục
Nhập lại càng thấy rõ hơn đó là sự giao thoa giữa căn, cảnh và thức
mới có thể gọi là Lục Nhập v.v...
Giải
thích theo Hoàn Quan là đi từ Vô Minh, Hành đến Thức, Danh Sắc... đến
Sinh và cuối cùng là Lão Tử. Đó là lối giải thích thứ tự phát sinh cũng
như thứ tự luận lý đều biến đổi khác với lối giải thích theo qui
luật đồng nhất như Vãng Quan nói trên. Đứng về phương diện Danh tức
là tâm lý hay Thức mà nói thì Thức đóng vai trò chủ yếu trong 12 chi của
lý duyên khởi. Nhưng đứng về Sắc tức vật lý hay đối tượng của Thức
mà nói thì cách giải thích của Hoàn Quan xoay quanh Hửu. Trong vấn đề Lão
Tử, chẵng hạn, chẵng qua là quá trình biến đổi từ Sinh mới có Hửu
và từ Hửu mới có Lão Tử, vì Lão Tử chẵng qua là sự biến đổi không
ngừng của Hửu mà ra v.v...
C-THEO LẬP TRƯỜNG TAM
THẾ LƯỠNG TRÙNG NHÂN QUẢ CỦA HỬU BỘ
Đây
còn gọi là lối giải thích phân đoạn sinh tử trong đó từ Vô Minh, Hành
thuộc về đời quá khứ. Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ,
Hửu thuộc về đời hiện tại. Sinh, Lão Tử thuộc về đời sau. Sự phân
chia như thế gọi là phân đoạn sinh tử theo Tam Thế (ba đời).
Lưỡng
trùng nhân quả: được phân chia như sau :
Vô
Minh, Hành, Thức là NHÂN. Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ là Quả. Như
thế từ Vô Minh đến Thọ là một nhất trùng nhân quả (a).
Thọ,
Ái, Thủ, Hửu là Nhân của đời sau. Sinh, Lão Tử là Quả của đời sau.
Phần còn lại từ Thọ đến Lão Tử là một nhất trùng nhân quả (b).
Theo
sự phân đoạn nêu trên nếu cọng cả (a) lẫn (b) lại ta sẽ có TAM THẾ
LƯỠNG TRÙNG NHÂN QUẢ.
Thế
nhưng do đâu mà có lối giải thích nầy ? Xin trích dẫn một đoạn trong
Kinh Trung A Hàm, 45, Trà Đế KInh (M. 38 Mahatanhasankhayasattu) để làm sáng tỏ
thêm về duyên khởi quan nói trên trên.
"Nầy
Tỳ Khưu! Phải có ba việc hòa hợp mới có thụ thai, đó là khi cha mẹ
giao hợp nếu không có tinh trùng của cha, noãn cầu của mẹ và Thức (Thức
Thứ Tám) của người thọ nghiệp đầu thai thì không thể có thụ thai...
Khi
cha mẹ giao hợp mà có đủ ba yếu tố trên thì người mẹ mới có thể
thụ thai.
Thế rồi người mẹ mang thai trong khoảng thời gian từ chín đến mười
tháng trong tình trạng hồi hộp lo âu...
Tỳ
Khưu! Sau chín đến mười tháng lo âu mẹ mới sinh con và sau khi sinh lại
dùng chính tinh huyết của mình để nuôi con. Tỳ Khưu ! Tinh huyết ấy
trong Thánh luật gọi là sửa mẹ.
Thế
rồi, Tỳ Khưu! Bé lớn dần thành đứa trẽ cho đến khi các căn phát triễn
thì đứa trẽ chơi những trò chơi như múa gậy, nhảy cao, thả diều,
cỡi xe bắn tên v.v... Cứ thế đứa bé lại lớn thêm, các căn nẫy
nỡ, rồi bị các cãnh ngủ dục trói buộc sai khiến. Tức là nhờ
vào mắt mà biết các cảnh sắc đáng thương, đáng yêu mà sinh lòng ham đắm
sắc cảnh. Nhờ vào tai mà nghe những âm thanh đáng thương, đáng yêu rồi
sinh lòng ham đắm âm thanh. Cho đến nhờ vào mũi lưỡi, thân mà phân biệt
được hương, vị, xúc đáng thương yêu rồi sinh lòng ham đắm những thứ
ấy cho nên mới bị chúng trói buộc sai khiến.
Thế
là khi Mắt thấy sắc thì ham đắm cái sắc đáng yêu, nếu gặp sắc
không đáng yêu thì sinh ý niệm gắt bỏ, không trụ vào thân mà theo sự
sai khiến trói buộc của tâm (còn gọi là Thức Thứ Tám) để hành động.
Cho nên bảo rằng những pháp diệt hết tâm giải thoát, tuệ giải
thoát...
Thế
là bị những cảm giác (Thụ) mãn túc và bất mãn túc chi phối, hoặc vui
hoặc khổ, hay là không khổ không vui, hân hoan đón nhận "Thọ", bị
Thọ chinh phục, bởi thế mới khởi tình vui sướng, sự vui sướng do Thọ
phát khởi tức là Thủ lấy Thủ làm duyên mà có Hửu, do Hửu làm duyên
mà có Sinh, do Sinh làm duyên mà có Lão Tử, ưu bi, khổ não".
Nói
cho cùng dù giải thích Lý duyên khởi theo lối nào đi chăng nữa ta vẫn thấy
hiễn lộ rõ chức năng của Thức Thứ Tám làm chủ đạo tất cả. Vì nếu
không có Thức Thứ Tám chủ đạo thì làm sao nhận thức được đối tượng
mà sinh ra cãm giác (Thọ) , không có năng phân biệt là Thức làm sao quan niệm
được sở phân biệt là Hửu... Tương tự như thế, Lão Tử có thể nói
là trạng thái xãy ra trên thân thể con người nhưng con người gồm Danh là
Tâm (còn gọi là Thức Thứ Tám) làm chủ đạo và Sắc là thân, nếu
không có Thức là phần năng phân biệt thì không thể phân biệt được sự
Lão Tử xãy ra.
2-
NGHIỆP (KAMMA, KARMA).
A- Định nghĩa của
Nghiệp
Nghiệp
hay nói cho đủ là "nghiệp báo" đó là phiên âm từ tiếng Trung Quốc.
Tiếng Pali gọi là Kamma, tiếng Sanscrit gọi là Karma.
Trong
kinh Trung A Hàm (Majjhima Nikãya) có câu : "Tất cả mọi chúng sinh đều
có cái nghiệp của mình".
Nghiệp
đây có nghĩa là hành động hay việc làm có tác ý. Sự suy nghĩ, lời nói,
việc làm tất cả đều phát xuất từ ý muốn hay ý chí đó là tác ý. Tất
cả những gì do Thân Khẩu Ý biểu hiện có tác ý đều tạo ra nghiệp. Tác
ý là yếu tố tối quan trọng để tạo nghiệp. Kinh tăng nhứt A
hàm có câu : "Tác ý là nghiệp".
Đức
Phật dạy : "Nầy các Tỳ Kheo, Như Lai xác nhận rằng chính tác ý là
nghiệp. Có ý muốn làm mới có hành động bằng thân, khẩu hay ý"
(Anguttara Nikãya iii 415). Thế nhưng tất cả những ý nghĩ Lời nói việc
làm đó đều phát xuất từ căn bản thức tức là Thức Thứ Tám còn gọi
là tâm, tất cả do tâm tạo và giữ gìn những hạt giống thiện ác.
"Không kềm chế tâm tức nhiên không kềm chế được việc làm, lời
nói và tư tưỡng. Kềm chế tâm tức là kềm chế thân, khẩu, ý. Chính
tâm dẫn dắt thế gian. Chính tâm lôi kéo thế gian. " (Atthasãlini tr.
68; The Expositor, phần I tr. 91).
Trong
kinh Pháp Cú có câu : "Tâm dẫn đầu mọi hành động. Tâm làm chủ,
Tâm tạo ra tất cả. Nếu ta nói hay làm với tâm ác thì sự đau khổ sẽ
theo ta như bánh xe lăn theo dấu chơn con bò kéo xe".
Nhưng
nếu tất cả những ý nghĩ, lơì nói hay việc làm của ta đều phát xuất
từ tâm trong sạch, tâm thiện thì : "Hạnh phúc sẽ theo ta như bóng
theo hình" (Dhammapada, câu 2).
Một
câu đơn giản như sau có thể nói lên giáo lý của Nghiệp Báo : Nếu con học
chăm chỉ đạt được thành quả tốt cha mẹ sẽ khen thưởng, con sẽ cảm
thấy sung sướng, hạnh phúc vô cùng. Ngược lại nếu con lười biếng cải
lời cha mẹ ham chơi không chịu học, kết quả không tốt sẽ bị cha mẹ
phạt, con sẽ cảm thấy đau khổ, hối hận.
Nghiệp
là hành động. Quả là kết quả, là phản ứng của hành động ấy. Bởi
vì nghiệp có thể tốt hay xấu nên Quả có thể lành hay dữ.
Kinh
Samyutta Nikãya, Tạp A Hàm có những câu như sau : "Đã gieo giống nào
thì sẽ gặt quả nấy. Hành thiện sẽ thâu gặt quả lành. Hành ác sẽ
thâu gặt quả dữ. Hãy gieo giống tốt ta sẽ hưõng quả lành".
Nghiệp
Báo tự nó là một định luật có hiệu lực trong phạm vi riêng biệt,
không chịu ảnh hưỡng của những tha lực . Thế nhưng Nghiệp Báo có thể
hiểu dễ dàng hơn khi giải thích nó tương quan với luật nhân quả.
Có
một số người ngoại đạo cố tình xuyên tạt rằng nếu theo định luật
nghiệp báo thì người chịu khổ trong hiện tại hãy cứ cam tâm chịu đựng
vì đó là sự trã nợ cho cái nghiệp kiếp trước đã làm. Thế nhưng Đức
Phật không dạy như vậy. Vì tất cả nghiệp xấu của kiếp trước đều
trở thành chủng tử (hạt giống) xấu nằm trong Thức Thứ Tám, ta
có thể cố gắng làm nhiều điều thiện để tạo ra những hạt giống tốt
để triệt tiêu những hạt giống xấu đó đi. Đó tức là khả năng chuyễn
nghiệp của mỗi người.
Ta
thử tìm hiểu xem nguồn gốc của nghiệp bắt nguồn từ đâu ?
Trong
12 nhân duyên có câu : "Do nơi Vô Minh, Hành phát sinh, do nơi hành Thức
phát sinh" và còn có câu :"Ái Dục đi liền với Vô Minh". Do đó
nguồn gốc của nghiệp là Vô Minh. Do chúng phàm phu không am hiểu chơn tướng
của các Pháp nên sinh ra chấp Ngã và chấp Pháp mà sinh ra những ý tưỡng,
lời nói và hành động bất thiện đưa đến việc tạo ra nghiệp.
Như vậy muốn tận diệt Nghiệp là phải tận diệt Vô Minh và Ái Dục.
Phân
tích đến đây ta không thể quên vai trò tạo nghiệp của Căn Bản Thức,
cũng gọi là Tâm hay Thức Thứ Tám vì "Tác Ý là Nghiệp" mà Tác
Ý là do Thức chủ đạo. Khi đã tạo Nghiệp rồi chúng ta cũng không quên
vai trò tàng trữ Nghiệp ấy trong Thức Thứ Tám dưới dạng thức hạt giống.
Một điều tối quang trọng đó là việc giải Nghiệp bằng cách tinh tấn
tạo ra những hạt giống tốt để triệt tiêu hạt giống xấu do Nghiệp tạo
ra đó là lối tu giải Nghiệp.
B- Tại sao có những sự
bất đồng về nhiều mặt trong nhân loại
Trong
nhân loại có nhiều người sanh ra liền hưỡng sự giàu sang phú quí, nhưng
nhiều người lại sống cảnh lầm than cơ cực. Tại sao có nhiều người
thông minh xuất chúng, nhiều bậc thiên tài, nhưng nhiều người lại ngu si
đần độn. Tại sao có những thần đồng về âm nhạc, văn chương, hội
họa, thể thao... Tại sao có kẽ sinh ra đã bị câm điếc, mù loài. Tại
sao có những đấng Giáo Chủ thánh thiện trong những xứ nghèo nàn, xã hội
hổn loạn phân hóa v.v...
Phải
chăng có những nguyên nhân nào đã tạo nên những sự bất đồng đó ? Hoặc
là đó chỉ là những sự ngẫu nhiên hoàn toàn do sự may rủi ?
Có
một số tôn giáo cho rằng có một đấng tối cao trong vũ trụ có quyền năng
sắp đặt mọi việc.
Đức
Phật không nhìn nhận có một đấng tạo hóa quyền năng như vậy. Do đó
Ngài đã đưa ra nhiều giáo thuyết để giải thích những sự bất đồng
đó ví dụ như Thập Nhị Nhân Duyên, Nghiệp Báo v.v...
Các
nhà bác học cố gắng giải thích những sự bất đồng đó theo phương pháp
khoa học như nguyên nhân hổn hợp vật lý và hóa học, do truyền thống,
do giới thân cận và môi trường sinh hoạt v.v...
Ta
hãy nghe nhà sinh lý học trứ danh, Julien Huxley, giải thích theo thuyết Truyền
Thống đặt căn bản vào sự di truyền do GENE như sau :
"Mần
giống sơ khởi cấu tạo con người là do GENE trong tinh trùng, nhờ nó mà mầm
giống của cha truyền qua cho con gọi là Định Luật Truyền Thống.
"...Có
những loại Gene tạo ra màu sắc cho cơ thể. Có loại chi phối bề cao và
sức nặng. Có loại ảnh hưởng đến khả năng sanh sản , tuổi thọ và sức
khỏe của con người. Cũng có loại Gene ảnh hưởng đến hình hthể
vóc. Phần lớn các đặt tính di truyền, nếu không phải là tất cả, đều
do Gene chi phối".
"Riêng
về những đặc tính tinh thần, phức tạp và tế nhị hơn, thật khó mà
chứng minh được một cách cụ thể. Mặc dầu có những sự kiện hiển
nhiên chứng tỏ rằng có sự di truyền thuộc về tinh thần, nhưng không
có hiện tượng nào xác nhận rằng những đặc điểm tinh thần từ ông
bà cha mẹ truyền xuống cho con cháu phải theo một thể thức nào giống như
thể thức truyền thống về thể xác".
"Mọi
truyền thống tinh thần và vật chất, bằng cách nầy hay cách khác, đều
tùy thuộc nơi tác động tương quan giữa các bẩm thụ GENE mà mỗi người
mang trong mình từ lúc mới được thọ thai". (The Stream of Live trang 15)
Thuyết
Truyền Thống căn cứ vào GENE, cực nhỏ, lối một phần ba chục triệu
phân Anh (1/30.000.000 inch) để giải thích các sự khác biệt về thân thể
của loài người, nhưng họ đành bó tay khi phải giải thích về tinh thần.
Chúng ta không thể phủ nhận Thuyết Truyền Thống vì nó đã giải thích
được một phần của vấn đề nhưng không phải là tất cả. Vì Thuyết
Truyền Thống không thể giải thích được tại sao hai đứa trẽ song sinh
có cùng một giống di truyền cùng được nuôi dưỡng trong một môi trường
giống nhau lại có người thông minh, người kia không thông minh bằng, và
tính tình lại khác hẵn nhau...Thuyết Truyền Thống không thể giải thích
được tại sao một gia đình bình thường có thể sinh được thần đồng
và chỉ một không thể sinh thêm thần đồng thứ hai hay nhiều hơn. Thuyết
nầy cũng không thể giải thích được tại sao một gia đình rất lương
thiện lại sinh ra con ngổ nghịch trộm cướp giết người, và ngược lại
gia đình không mấy hiền lương lại sinh con thông minh tánh tình lương thiện...
Dr.
Th. Pascal trong sách Reincarnation, khi bàn về thuyết Truyền Thống, ông viết
như sau:
"Quay
về vai trò bẩm thụ của GENE trong vấn đề truyền thống, chúng ta lặp lại
rằng bẩm thụ vật lý GENE tự nó chỉ giải thích phần vật chất của
con người. Về khả năng trí thức và đạo hạnh bẩm thụ GENE không rọi
được tia sáng nào. Nếu Gene cấu tạo được trọn vẹn con người , ta sẽ
tìm thấy trong mọi người tất cả bẩm tính của cha mẹ và không khi nào
có những tánh khác.
"Như
vậy sẽ không có những đứa con sát nhơn trong gia đình lương thiện và cũng
không có những bậc hiền nhơn sinh trưỡng trong gia đình hung ác. Trong đời
sống thường ngày ta có thể gặp hai đứa trẽ sanh đôi, cùng cha cùng mẹ,
cùng thừa hưởng một bẩm thụ của cha mẹ, cùng được sanh ra trong những
điều kiện như nhau, cùng trưỡng thành trong một giới thân cận, thân
hình mặt mày thật giống nhau, nhưng một đứa thì hiền lương, còn một
đứa lại hung ác tàn
bạo.
"Ngoài
ra, số trẽ thần đồng cũng khá nhiều và đủ làm bối rối các học giả
chủ trương thuyết Truyền Thống. Nếu đi ngược dòng thời gian phăng mãi
lên trong gia phả các vị thần đồng, ta có thể tìm được chăng những vị
tổ tiên cũng thần đồng như vậy ? Như vậy không phải tất cả bẩm
tính và trí tuệ đứa trẽ hoàn toàn do nơi cha mẹ, ông bà. Ta cũng có thể
nói rằng tất cả bẩm tính và trí tuệ của ông bà và cha mẹ không truyền
lại hết cho con cháu. Bằng chứng là trong hàng con cháu của Mozart,
Beethoven và Dante không có một thần đồng hay một vĩ nhân nào cả ! Như vậy
ta phải kết luận rằng cho đến ngày nay và trong phạm vi các nhà duy vật
học chưa có gì chứng minh một cách thiết thực Thuyết Truyền Thống.
"Về
mặt thể xác không phải tất cả các đặc điểm vật lý của cha mẹ đều
được truyền hết cho con. Trong nhiều gia đình, cha mẹ có những chứng bịnh
nguy hiểm mà con cháu lại không có. Về mặt khác, trong một gia đình đông
con, trí tuệ và tính nết mỗi đứa một khác. Nhiều gia đình lương thiện
lấy làm đau khổ khi họ có những đứa con ngổ nghịch bất lương".
Về
trường hợp văn hào trứ danh của Anh là Shakespeare, Đại tá Ingerslo đã
viết như sau :"Cả cha lẫn mẹ ông Shakespeare đều không biết đọc và
biết viết. Ông trưỡng thành trong một làng bé nhỏ giữa những người dốt".
Trường hợp Shakespeare rõ ràng là kiến thức thiên tài của ông về thơ
văn kịch nghệ không phải do Gene của cha mẹ truyền lại , cũng càng
không phải do môi trường sống trong làng đã hun đúc cho ông những trí tuệ
mà ông có...
Như vậy những di truyền thiên tài đó do đâu mà có ? Chúng ta lần lần
phân tích và tìm hiểu ở những phần sau đây.
Phật
Giáo không phủ nhận thuyết Truyền Thống nói trên nhưng cho rằng Thuyết
ấy chưa đủ để giải thích tất cả những bất đồng của nhân loại.
Do đó Phật Giáo có giáo lý Nghiệp Báo để giải thích những sự bất đồng
nêu trên và nhấn mạnh vai trò của THỨC THỨ TÁM trong chức năng tàng trữ
Nghiệp trong quá khứ và đem đến cho đời nầy.
Câu
"nhất thiết duy tâm tạo" ở đây được minh thị rõ ràng. Chính
con người tự tạo ra cho mình tất cả. Ta là người tự tạo ra tương lai
cho chính mình. Mỗi người phải chịu trách nhiệm lấy cho những hành động
trong quá khứ và hiện tại. Sự tàng trữ và vai trò nối tiếp đời sau của
Thức Thứ Tám được chứng minh một cách rất rõ ràng qua những dẫn
chứng ghi trên.
Thuở
Đức Phật còn tại thế có thanh niên tên Subha muốn biết những tình trạng
bất đồng của loài người đến bạch Đức Phật :
"Bạch
đức Thế tôn, vì lý do gì và do nguyên nhân nào mà trong đời có người
yểu và có người thọ, người bịnh hoạn và người mạnh khỏe, người
xấu và người đẹp đẽ, có hạng người làm gì cũng không ai làm theo,
nói gì cũng không ai nghe và hạng người có thế lực làm gì cũng có người
theo, nói gì cũng có người nghe theo, có người nghèo khổ và người giàu
sang, có người sanh trong gia đình bần tiện và có người dòng dõi cao sang
quyền quí, có người dốt nát, và người thông minh trí tuệ...? "
Đức
Phật đã giải thích như sau :
"Tất
cả chúng sanh đều mang theo cái nghiệp (Kamma, Karma) của chính mình như một
di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính
vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng
giữa chúng sanh" (Majjhima Nikãya III 135, Cũlakammavibhanga Sutta).
Đức
Phật còn giải thích rõ từng trường hợp một về Nghiệp Quả của chúng
sanh như sau :
"Nếu
người kia trọn đời chỉ biết sát sanh, người thợ săn chẵng hạn, bàn
tay luôn luôn đẵm máu, hằng ngày sống trong sự giết chóc và gây thương
tích không chút xót thương. Do tính hiếu sát ấy, nếu tái sanh trong cõi người,
người ấy sẽ là một người yểu.
"Nếu
người kia luôn luôn thận trọng không hề xúc phạm đến đời sống của
ai, sống xa gươm đao, giáo mác và các loại khí giới, lấy lòng từ ái đối
xử với tất cả chúng sanh. Do tâm từ bi không sát sanh ấy, nếu tái sanh
trong cõi người, người ấy sẽ là một người thọ.
"Nếu
người kia độc ác, luôn luôn tìm cách hại người, luôn luôn dùng đấm
đá và gươm đao đối xử với mọi người. Do nết hung dữ ấy, nếu tái
sanh trong cõi người, người ấy sẽ ươn yếu bịnh hoạn.
"Nếu
người kia không bao giờ làm tổn thương ai khác, do đức tánh hiền lương
nhu hòa ấy nếu tái sinh trong cõi người, người ấy sẽ mạnh khỏe.
"Nếu
người kia thô lỗ cộc cằn luôn luôn giận dữ, chưởi mắng, nguyền rủa
kẻ khác, do kết quả của sự thô lỗ cộc cằn ấy, nếu tái sinh trong
cõi người, người ấy sẽ xấu xí.
"Nếu
người kia thanh tao nhã nhặn, dầu ai có chưởi mắng thậm tệ cũng không
hề oán giận và tìm cách trã thù. Do kết quả của sự thanh nhã ấy, nếu
tái sanh trong cõi người, người ấy sẽ đẹp đẽ.
"Nếu
người kia có tánh đố kỵ , thèm thuồng ham muốn lợi danh của người khác,
không biết tôn kính người đáng kính, luôn luôn chứa chấp lòng ganh tỵ,
Do kết quả của tánh tật đố ganh tỵ ấy, nếu tái sanh trong cõi người
sẽ là người không có ảnh hưởng, nói gì cũng không ai nghe, làm gì cũng
không ai làm theo.
"Nếu
người kia không có tánh đố kỵ , không thèm thuồng tham muốn lợi danh của
người khác, biết tôn trọng người đáng kính không chứa chấp lòng ganh
tỵ , do ảnh hưởng của tâm không ganh tỵ ấy, nếu tái sanh trong cõi người
sẽ là người có thế lực, nói gì cũng có người nghe theo, làm gì cũng có
người làm theo.
"Nếu người kia không bao giờ biết bố thí vật gì cả, do tánh keo kiết
bám víu vào tài sản sự nghiệp của mình, nếu người ấy tái sanh vào
cõi người, sẽ là người nghèo nàn thiếu thốn.
"Nếu
người kia giàu lòng quảng đại, tính ưa bố thí, do lòng quảng đại rộng
rãi ấy nếu tái sanh trong cõi người, người ấy sẽ là người giàu có dư
dã.
"Nếu
người kia không biết phục thiện, tánh ưa kiêu hãnh không tôn trọng người
đáng kính, do tánh ngạo mạn và vô lễ ấy, nếu tái sanh trong cảnh người,
sẽ là người đê tiện thấp hèn.
"Nếu
người kia biết phục thiện, tánh không kiêu hãnh, biết tôn trọng người
đáng kính, do đức tính biết phục thiện và lễ độ ấy, nếu tái sanh
trong cảnh người, sẽ là người sang trọng quyền quí.
"Nếu
người kia không chịu gần người có tài đức để học hỏi điều hay lẽ
phải và phân biệt chánh tà, do sự kém học ấy, nếu sanh trong cõi người
sẽ là người dốt.
"Nếu
người kia có công tìm đến người có tài đức để học hỏi, do sự tìm
cầu học hỏi chánh đáng ấy nếu tái sanh trong cõi người, người ấy sẽ
là người thông minh trí tuệ".
Những
đoạn kinh đã trích dẫn và những dữ kiện thực tế cho ta thấy rằng
trên đường tái sanh luân hồi con người bị ảnh hưởng của nghiệp quá
khứ nhiều hơn ảnh hưỡng của Truyền Thống Di Truyền. Nhờ đứng trên
giáo lý Nghiệp Báo của Phật Giáo chúng ta đã giải thích và hiểu rõ về
những trường hợp thần đồng, thiên tài và sự ra đời của những đấng
Giáo Chủ thánh thiện xưa nay.
Hơn
thế nữa nếu không quán triệt giáo lý Duy Thức, không nghiên cứu tường
tận về chức năng của Thức Thứ Tám làm thế nào ta có thể giải
thích được việc tái sanh, đời nối tiếp đời và sự thọ nghiệp từ
đời trước đến đời hiện tại để có thể kết luận rằng sự thông
minh trí tuệ, sự giàu sang tột đỉnh là do con nguời đã tạo ra từ
nhiều kiếp trước. Đã tạo trong nhiều kiếp trước rồi cất giữ nơi nào,
cất giữ dưới dạng thức nào và đem đến đời hiện tại ra sao ? Tất
cả những dấu hỏi về sự tạo Nghiệp, thọ Nghiệp, tái sanh đưa đến
sự xuất hiện những Thần Đồng hay người ngu muội đều được giải
thích qua chức năng của Thức Thứ Tám như đã trình bày ở những phần
trên.
Theo
gia phả giòng họ của Đức Phật Thích Ca thì từ Ngài trỡ về trước, tổ
tiên của Ngài không ai có tài trí đức độ có thể so sánh với Ngài được.
Vì Ngài đã sanh ra với cái Nghiệp phi thường do chính Ngài đã tạo ra từ
vô lượng kiếp trước chứ không phải do sự di truyền từ tổ tiên, cha
mẹ của Ngài mà có được.
Do đó mà theo kinh Lakkhana Sutta : Đức Phật sanh ra với tướng mạo phi phàm,
Ngài có 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp không người nào trên thế gian nầy
có được là do chính Ngài đã tu tập tích tụ từ vô lượng kiếp trước.
Khi
đề cập đến sự khác biệt giữa chúng sanh, Đức Phật còn dạy trong
kinh Attasãlinĩ rằng :
"Do sự khác biệt giữa cái Nghiệp của mỗi chúng sanh nên có sự
chêng lệch trong sự tái sanh.
"Do
sự khác biệt giữa cái Nghiệp của mỗi chúng sanh nên mới có sự chênh
lệch trong xã hội như được, thua, hơn, thiệt, danh thơm tiếng xấu, được
kính vì hay bị khinh rẽ, phúc hậu hay bần cùng.
"Do
Nghiệp thế gian luân chuyễn. Do Nghiệp chúng sanh tồn tại.
Và cũng do Nghiệp mà chúng sanh vướng víu, liên kết với nhau như bánh xe,
cấu hợp, dính liền và quây xung quanh cái trục".
Những
trường hợp Nghiệp đã tạo ra trong quá khứ được Thức Thứ Tám tàng
trữ dưới dạng thức hạt giống sau đó phát khởi ra trong đời hiện tại
Duy Thức Học gọi là Chủng Tử Sinh Hiện Hành do công năng của Thức Thứ
Tám điều khiển.
Những
Nghiệp lực đó không chỉ do những kiếp trước tạo ra không thôi mà còn
do chính những Nghiệp con người tự tạo ra ngay trong đời hiện tại nữa.
Đó là những trường hợp mà Duy Thức Học gọi là Hiện Hành Sinh Hiện
Hành.
Như
trên đã nói không phải tất cả những sự bất đồng trong nhân loại
đều do Nghiệp trong quá khứ truyền lại mà còn do chính những hành động
của người đó trong hiện tại gây ra. Dù cho những Nghiệp ác từ quá khứ
truyền lại đi chăng nữa theo Duy Thức Học ta có thể chuyễn Nghiệp đó
bằng cách tạo ra những hạt giống đối khán để triệt tiêu Nghiệp đó
đi. Ví dụ vì Nghiệp trong đời trước dắt dẫn người đó làm nghề trộm
cướp đi chăng nữa thì người ấy cũng có thể tự kềm chế mình bỏ
nghề xấu tìm nghề tốt hơn để sinh sống vẫn là điều mà Phật Giáo
khuyên họ phải làm và ai cũng có thể làm. Không ai có thể viện lý do rằng
vì nghiệp trong kiếp trước đã tạo là ngu dốt rồi lại buông xuôi
không chịu học tập để theo kịp người chung quanh đó là điều trái với
lời Đức Phật đã dạy.
Do
đó cho nên: "Không phải những quả lành, dữ hay không lành không dữ
tất cả đều phát sanh do những hành động nào đó trong quá khứ".
Trong
kinh Anguttara Nikãya Đức Phật Phật dạy rằng :
"Nếu
luận như vậy và quả quyết rằng do những hành động trong quá khứ mà
con người trở thành sát nhơn, trộm cướp, dâm loàn, láo xượt, thô lỗ,
nhảm nhí, tham lam, xảo quyệt, hư hèn thì ta sẽ có lý do để ỷ lại, dựa
trên quá khứ mà không muốn thực hiện, không cố gắng thực hiện và cũng
không thấy cần thiết phải thực hiện một hay nhiều hành động rất cần
phải thực hiện để cải thiện bản thân và tạo ra những ảnh hưỡng tốt
cho mọi người ".
Giáo
lý Nhân Quả Nghiệp Báo của Phật Giáo có tính cách rất tích cực của
nó như đoạn kinh vừa dẫn trên đây vì con người chẵng những có khả năng
chuyễn Nghiệp xấu để trở thành thánh thiện mà còn có thể tiến xa hơn
nữa là có thể thành Phật để giác ngộ, giải thoát cho chúng sanh nữa
như kinh Pháp Hoa Phật đã dạy "tất cả chúng sanh đều có Phật tánh
và là những vị Phật sẽ thành". Như vậy thì không ai có thể xuyên
tạc được giáo lý Nghiệp Báo giống như thuyết Định Mệnh hay Tiền Định
của các triết gia tây phương.
Giáo
lý Phật Giáo hoàn toàn khác với những đức tin cho rằng con người là do
một đấng toàn năng hay Thượng đế tạo ra và định đoạt tất cả số
mệnh của người đó, không thể tự mình cải sửa được ! Nếu tin như
vậy con người dễ lạc vào mê tín và tiêu cực, xuôi tay với số mệnh
đã an bài và họ sẽ trỡ thành mù quán bất lực, tiêu cực không nỗ lực
để vương lên tự cải tiến cho số phận của mình, chỉ ngồi cầu nguyện
chờ Thượng Đế phán xét !...
Phật
Giáo không tin có Thượng đế hay đấng toàn năng nào tạo ra con người và
sắp đặt , định đoạt số mệnh cho họ. Phật Giáo chủ trương "Tam
Giới Duy Tâm, Vạn Pháp Duy Thức". Nghiệp của mỗi người là do người
ấy tự tạo ra và thọ lãnh lấy hậu quả của nó. Do đó người ấy có
thể tự cải đổi Nghiệp xấu thành thánh thiện bằng cách nỗ lực tạo
ra những hạt giống tốt đối kháng để triệt tiêu những hạt giống xấu
đang tìm tàng Trong Thức Thứ Tám là có thể từ người xấu trở thành người
tốt ngay trong hiện thế nầy. Ví dụ người bị nghiện thuốc phiện, cờ
bạc , đâm chém... có thể những hành động xấu ấy là do cái
Nghiệp xấu từ kiếp trước phát khởi ra hiện hành nhưng nếu người ấy
biết nổ lực tự cai thuốc ăn năn hối cải tội lỗi, trở lại làm người
lương thiện thì những Nghiệp xấu ấy lần lần sẽ tiêu tan. Những hạt
giống xấu trong Thức Thứ Tám hoàn toàn bị tẩy đi thì người ấy sẽ tạo
được những hạt giống tốt cho hiện tại và trong tương lai nữa.
Để
làm sáng tỏ thêm vai trò, bản chất của Thức Thứ Tám trong việc tàng trữ
Nghiệp và Nghiệp dẫn tái sanh xin trích dẫn bài tụng trong Bát Thức
Qui Cũ của ngài Huyền Trang như sau :
"Hạo
hạo tam tàng bất khả cùng
Uyên
thâm thất lãng cảnh vi phong
Thọ
huân trì chủng căn thân khí
Khứ
hậu lai tiên tác chủ ông"
Như
Tạng : Việt dịch
Vời
vợi ba Tàng thật khôn cùng
Vực
sâu gió cảnh bảy lần sóng reo
Gom
nhận giữ chủng căn thân khí
Tới
trước đi sau chủ lối về
Bài
thơ trên câu đầu có từ "ba Tàng" nghĩa là "Năng Tàng"
(Thức Thứ Tám có công năng chứa tất cả các hạt giống), "Sở
Tàng" (Thức nầy là nơi để tất cả các Pháp hiện hành huân tập
vào), "Ngã Ái Chấp Tàng" (Thức Thứ Bảy chấp Kiến Phần của thức
nầy làm Ngã, làm người chủ khả ái không buông thả).
Vì
thể và dụng của Thức Thứ Tám sâu rộng vô cùng nên gọi là vời vợi
khôn cùng.
"Gió
cảnh" ý nói các cơ quan (Căn) khi tiếp xúc với cảnh vật bên ngoài
(Cảnh) có sự tham dự của Ý Thức (Tác Ý) sẽ gây nên Nghiệp và Thức
Thứ Tám tàng trữ Nghiệp dưới dạng thức hạt giống (chủng tử). Như vậy
Gió Cảnh là chỉ cho sự tác động của bốn duyên (căn, cảnh, tác ý, chủng
tử) sẽ khiến cho Bảy Sóng tức là Nhãn Thức, Nhỉ Thức, Tỷ Thức,
Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức và Mạt Na Thức khởi lên tác dụng phân
biệt.
Thức
Thứ Tám có những công năng duy trì Chủng Tử, Căn Thân và tất cả ngoại
cảnh (tức là "Khí") và tất cả các pháp hiện hành huân tập
vào.
Thức nầy còn đóng vai trò chủ nhân trong việc dẫn Nghiệp tái sanh ở đời
sau vì khi thọ thai Thức nầy tới trước và khi một con người chết đi
thì Thức nầy rời khỏi thân xác sau cùng.
C- Lộ
trình tiến triễn của Ý Thức trong sự tạo nghiệp
Như
trên đã phân tích, tác ý chính là nghiệp, hoặc nghiệp được tạo ra là
do tác ý mà thành. Như thế tác ý là do Ý Thức chủ động suy nghĩ sắp
đặt kế hoạch sau đó Ý Thức dùng thân và khẩu để phát hiện ra
hành động. Thế nhưng Ý Thức cũng chỉ là sự biểu hiện của Thức Thứ
Tám, nương vào Thức Thứ Tám để phát khởi ra tác dụng, tổng hợp hành
động và chỉ đạo năm thức trước hoạt động để đưa đến những kết
quả, đó là quá trình tạo nghiệp do Ý Thức chủ động.
Trước
khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp tưỡng cũng cần nhấn mạnh lại
câu "nhất thiết duy tâm tạo" trong tư tưỡng Hoa Nghiêm của Phật
Giáo để nói rõ bản chất của Nghiệp là do nơi tâm của mỗi con người
tự tạo ra và phải gánh chịu hậu quả của hành động đã làm, đó là
cách suy nghĩ cơ bản về Nghiệp. Để nói rõ điều nầy Đức Phật
đã dạy:
"
Làm ác do nơi ta
Làm cho ta nhơ bẩn do nơi ta
Không làm ác do nơi ta
Làm cho ta trong sạch cũng do nơi ta
Cả hai, nhơ bẩn và trong sạch, chỉ tùy thuộc nơi ta,
Không ai có thể làm cho ta trong sạch." (Dhammapada, câu 165).
Theo
câu kinh đã dẫn Đức Phật muốn nhấn mạnh tất cả đều do tâm của ta
tạo ra, hành động thiện hay ác đều do nơi tâm. Tâm trong Duy Thức Học
còn có tên khác là THỨC THỨ TÁM.
Nương
vào Căn Bản Thức bảy thức khác phát khởi ra phân biệt và nhận
xét về đối tượng. Cũng từ Căn Bản Thức tức là Thức Thứ Tám
các thức khác nương vào đó để tổng hợp về đối tượng và đưa ra
suy tính cũng như hành động. Từ những hành động đó tạo ra Nghiệp
lành hay nghiệp ác là tùy vào mỗi trường hợp khác biệt. Như vậy luận
cho cùng thì Thức Thứ Tám vẫn là chủ nhân ông trong mọi hành động tạo
Nghiệp và tàng trử Nghiệp dưới dạng thức chủng tử.
Xin
dẫn chứng hai bài tụng trong Duy Thức Tam Thập Tụng của Ngài Thế Thân Bồ
Tát để chứng minh điều đó :
Nguyên
văn bằng tiếng Sanskrit ngài Huyền Trang dịch ra chữ Hán
Pãncãnãm mũlavijnãne yathãpratyayam udbhavah
Vijnãnãnãm saha na vã tarangãnãm yathã jale
(Y chỉ căn bản thức
Ngủ thức tùy duy hiện
Hoặc câu hoặc bất câu
Như ba đào y thủy)
oOo
Karmano vãsanã grãhadvayavãsanayã saha
Ksine pũrvavipãke nyadvipãkam janayanti tat
(Do chư nghiệp tập khí
Nhị thủ tập khí cu
Tiền dị thục ký tận
Phục sanh dư dị thục
oOo
Như
Tạng Việt dịch :
Do nơi Thức Căn Bản (Thức Thứ Tám)
Năm thức tùy duyên khởi (nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân)
Hoặc cùng hoặc không cùng
Như sóng sanh từ nước
oOo
Do hạt giống các nghiệp (nghiệp lành, nghiệp
dữ và nghiệp bất động do tu thiền định mà đạt được)
Và tập khí hai thủ (hai thủ gồm có tướng
phần (phần bị phân biệt) và kiến
phần (phần năng phân biệt) của Thức ; sắc (phần thuộc về vật chất),
và danh (thuộc về Tâm) ; tâm sở và tâm vương)
Nên dị thục trước dứt (thân dị thục tức
là báo thân, thân thọ quả báo của
nghiệp)
Lại sinh dị thục sau.
(trong
bài tụng thứ hai nầy có từ "tập khí" nếu dịch theo nghĩa đen
thông thường thì tập khí là những thói quen lặp đi lặp lại do học tập,
do thói quen mà thành. Nó đã trở thàng tìm năng , thành hạt giống được
huân tập vào thức Thứ Tám. Ví dụ người nghiện rượu thì tập
khí đó là hay uống rượu. Còn người tập viết chữ thì tay của họ nhờ
tập viết lâu ngày nên có khả năng viết chữ được đó là tập khí viết
chữ. Trường hợp trong bài tụng trên tập khí có nghĩa là chủng tử (hạt
giống) đã gieo trồng hoặc đã tạo ra từ trước).
Trở
lại chính văn của bài tụng thứ nhất, ý của ngài Thế Thân là do nương
vào Thức Căn Bản mà năm thức trước là Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức mới có thể có tác dụng phân biệt khi tiếp xúc
với đối tượng của nó. "Tùy duyên hiện" chẵng qua đó là những
lúc thuận tiện, những lúc mà các thức có đủ điều kiện để có thể
hoạt động được. Ví dụ mắt muốn thấy được một bình hoa trong
phòng tối thì cần phải có đèn sáng, cần đứng cách bình hoa một khoản
thích hợp mà mắt người đó có thể quan sát kỷ bình hoa ấy...Mặc dù nương
vào Thức Căn Bản nhưng khả năng hoạt động của năm thức nầy có
tính cách "liễu biệt cảnh" nghĩa là mỗi thức hoạt động một
cách cá biệt trong phạm vi khả năng của nó khi tiếp xúc với đối tượng
mà thôi không có tính cách xen kẻ hay tổng hợp. Ví dụ mắt chỉ có khả
năng nhìn thấy sự vật trong tầm nhìn của nó, còn tai thì chỉ nghe những
tiếng động trong khoản độ dài sóng của âm thanh có thể nghe được mà
thôi chứ mắt không thể nghe tiếng, ngược lại tai không thể nhìn thấy
cảnh vật được.
Những
sự giải thích trên đều nằm trong nghĩa của hai chữ "tùy duyên"
trong bài tụng.
"Hoặc
cùng " nghĩa là năm thức nầy cùng có những điều kiện cùng hoạt động
được một lúc ví dụ mắt đang xem truyền hình, tai đang nghe nhạc, trong
khi đó mũi đang ngửi mùi dồ ăn để trên bàn, thân đang dùng tay gắp đồ
ăn bỏ vào miệng nhai và lưỡi đang nếm vị của đồ ăn đó... Đó là
trường hợp năm thức cùng hoạt động trong một lúc.
"Hoặc
không cùng" trường hợp một người nằm trên dường trước khi ngủ,
tắc đèn, nhắm mắt nghe một bản nhạc. Trường hợp đó chỉ có tai hoạt
động mà thôi. Do đó trường hợp nầy là năm thức không cùng hoạt
động một lúc.
Câu
cuối cùng "như sóng sinh từ nước" (xin mở ngoặc thêm rằng có
nhiều bản dịch câu đầu là "Nương vào thức căn bản", câu
thứ tư dịch là "như sóng nương vào nước" , năm thức trước có
thể khởi lên phân biệt được là do lệnh từ thức căn bản hay có thể
nói là sự biểu hiện của Thức Căn Bản do đó dịch là DO dễ hiểu hơn
chữ NƯƠNG. Câu thứ tư nói như sóng nương vào nước... Vì sóng với nước
không phải hai vật thể khác nhau nên khi nói nương nhau dễ sinh ra hiểu lầm
đó là hai vật thể cá biệt nương vào nhau do đó xin tạm dịch là
"như sóng sinh từ nước"). Cũng như năm thức trước không phải
là những trạng thái sinh hoạt độc lập riêng khác với thức căn bản mà
chúng chính là những biểu hiện của thức căn bản khi các cơ quan trong thân
thể đối diện trước đối tượng của chúng mà khởi lên phân biệt về
những đối tượng đó.
Khi
nói đến nghiệp là phải nói đến những hành dộng có tác ý. Nhưng bài
tụng nầy không nhắc đến Ý thì có liên quan gì đến việc tạo ra nghiệp
mà đưa vào đây?
Trong
nguyên văn bài tụng mặc dầu không nói đến Ý nhưng khi tổng hợp toàn
thể ý nghĩa bài tụng khiến ta hiểu rằng khi một thức như mắt muốn hoạt
động xem hoa chẵng hạn mệnh lệnh đó phải phát xuất từ thức căn bản
truyền xuống Thức Thứ Bảy vì đây là anh lính canh giữ cửa giữ kho rồi
truyền xuống Thức Thứ Sáu hay Ý Thức vì Thức nầy ví như một vị tư
lệnh hành quân vậy. Do đó không có một thức nào hoạt động mà không
có sự chỉ đạo của Ý thức.
Một
ví dụ dễ hiểu về sự cọng tác có tính cách chỉ đạo của Ý Thức
là : Mỗi ngày tôi đều đi bộ từ nhà ra ga xe lữa tôi không để ý hai
bên đường có những loại hoa gì, có bao nhiêu nhà ở sân trước có trồng
hoa hồng, bông bụt...Một hôm có người bạn nhờ tôi tìm chụp hình loại
hoa Hải Đường, tôi để ý đi bộ chậm rãi để tìm nó thì ra ở sân trước
của một nhà trên đường ra ga có loại hoa Hải Đường , thế mà
bao lâu nay qua qua lại lại tôi vẫn nhìn vẫn thấy nhưng không để ý nên
không xác nhận được là ở đây có loại hoa nầy. Đây là hành động
có sự cọng tác của Ý Thức mà trong Duy Thức Học gọi là Tác Ý nghĩa là
móng khởi cái ý, có chủ tâm đi tìm loại hoa nầy nên khi thấy nó tôi mới
nhận ra ngay. Nếu không có chủ ý đi tìm loại hoa nầy thì dù có qua lại
có thấy cũng không nhận biết hay không để ý tới.
Đó
là Ý Thức đã hợp tác chỉ đạo cho nhãn thức. Tương tự như vậy khi mở
truyền hình nếu không chủ ý tìm nghe bản nhạc My Heart Will Go On (Love
Theme from "Titanic", Words and Music by James Horner/Will Jennings) thì có để
truyền hình hàng mấy giờ, bản nhạc có được hát đi hát lại mấy lần
cũng không để ý đến là bản nhạc gì. Qua hai ví dụ trên ta thấy Ý Thức
phải cọng tác chỉ đạo cho năm thức trước và tổng hợp các hành động
của các thức đó thì mới đưa ra các kết quả nhận xét như ý muốn
được.
Còn
trong vấn đề tạo nghiệp thì thức Thứ Sáu nầy chủ đạo tất cả. Ngài
Huyền Trang nói "động thân phát ngữ độc vi tối, Dẫn mãn năng chiêu
nghiệp lực khiên" (Thức Thứ Sáu nầy có công năng hơn hẵn các thức
khác về việc làm phát sinh hành động của thân thể và ngôn ngử. Nó tạo
ra dẫn-nghiệp và mãn-nghiệp có công năng đưa đến quả báo đời sau).
Như thế chính Thức Thứ Sáu nầy, đương nhiên nó là biểu hiện của Thức
Thứ Tám, do nơi Thức Thứ Tám mà khởi ra hiện hành tác dụng chỉ
đạo nhưng nó tinh khôn và hơn hẵn năm thức trước, nó nắm quyền chỉ
huy các thức đó hoạt động để tạo ra nghiệp.
Khi
đề cập đến Ý Thức ngài Huyền Trang nói rằng "độc hữu nhứt
cá tối linh ly", cũng từ Thức Thứ Tám phát khởi ra nhưng so với sáu
thức khác thức nầy tinh khôn lanh lợi đệ nhứt. Do đó trong Duy Thức học
gọi là "công vi thủ, tội vi khôi", khi nói về công thì thức nầy
có công đầu, nhưng luận về việc tạo ra các điều ác thức nầy cũng có
tội hơn hết.
Luận
về sự tác dụng phân biệt sự vật của năm thức trước như trên đã
nói là khi nhãn căn chạm phải đối tượng là sắc trần làm phát sinh ra
tác dụng phân biệt là nhãn thức tác dụng thấy. Trường hợp của
Ý Thức nương vào căn bản thức khởi ra tác dụng phân biệt nên hành tướng
của nó rất tế nhị khác hẵn năm thức trước có căn là nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, và thân căn. Ta có thể đụng chạm cảm nhận được vì nó hửu
hình còn Ý thức nương vào Ý căn (tức là thức thứ bảy), cả hai đều
vô hình nên rất khó cho ta nhận biết nếu không qua một trung gian lý luận.
Sự biểu hiện của Ý thức chia làm hai loại :
(1)
Độc đầu Ý Thức
(2)
Ngủ câu Ý Thức
(1)-
ĐỘC ĐẦU Ý THỨC : Ý thức có khả năng hoạt động riêng biệt
không cần sự phối hợp của năm thức trên. Ý Thức có thể tổng hợp
những việc đã qua, suy nghiệm những sự kiện trong hiện tại và lập dự
án cho tương lai... Khả năng của Độc đầu Ý thức rất đa dạng, và
phạm vi hoạt động của nó rất sâu rộng và phức tạp nên phải chia
làm ba loại :
a)
Ý thức trong mộng : Ý thức hoạt động trong mộng chính là lúc mà năm thức
trước hoàn toàn không hoạt động, không có tác dụng phân biệt. Khi ngủ
say thì năm thức trước không có tác dụng phân biệt, đình chỉ hoàn
toàn do đó ý thức hoạt động thường xa rời thực tại. Ý thức tự biến
hiện ra những cảnh tượng riêng tuy cũng có phân biệt suy lý nhưng hầu hết
là sai lầm, điên đảo; tin những việc phi lý khác với thường tình...
Những
cảnh mà ta thấy trong mộng thường thường là "độc ảnh cảnh"
vì đó là những hình ảnh sự vật hoàn toàn do ý thức chủ quan biến hiện
ra mà thôi.
Đôi khi cũng là những đới chất cảnh vì nhiều lúc do biến động sinh lý
của cơ thể mà sinh ra những hình ảnh đới chất cảnh ấy. Vì dựa vào
căn bản thực chất mà khởi lên những hình ảnh nên được gọi là đới
chất cảnh.
b)
Ý thức tán vị : Trong khi tĩnh thức Ý thức suy nghĩ tính toán việc nầy
việc kia, nhớ lại quá khứ, tính toán trù liệu mọi việc trong hiện tại,
lập kế hoạt cho tương lai...
Khi Ý thức suy nghĩ tính toán có kế hoạt làm việc thiện thì tức khắc
có 11 món thiện tâm sở hiện khởi như : Tin, tinh tấn, tự xấu hổ, thẹn
với người, không tham lam, không sân hận, không si mê, nhẹ nhàn thư thới,
không buông lung phóng túng, làm rồi không chấp trước, không làm tổn hại.
Chính
lúc nầy ta có thể hoạt động giải nghiệp bằng cách tinh tấn tu tập tiến
đến giải thoát hoàn toàn. Thành Phật, thành Bồ Tát là lúc nầy...
Nếu
khi Ý thức suy nghĩ tính toán lập ra kế hoạch làm ác tức thì có 6 món căn
bản phiền não phát khởi đó là : tham lam, nỗi nóng, si mê, khinh mạn,
nghi ngờ do dự.
Sau
cùng là thấy biết cố chấp thuộc về nhiễm ô tội ác ((trong phần nầy
chia làm năm loại : chấp ta; chấp một bên ví dụ cho rằng con người chết
rồi là hết (đoạn kiến), hoặc cho rằng con người sau khi chết sẽ có
linh hồn bất tử không thay đổi (chấp thường); mê tín dị đoan tà vạy;
khư khư giữ lấy chổ hiểu biết của mình không tiếp thu cái mới đúng
hơn, cho ý kiến người khác đều là sai trái; chấp giữ theo giới cấm
không chơn chánh của ngoại đạo theo những tục lệ trái với luân thường
đạo lý.))
Đồng
thời 20 món tùy phiền não cũng cùng lúc phát khởi đó là: giận, hờn,
che dấu, buồn phiền, tật đố ganh ghét, bỏn xẻn, dối gạt, bợ đở nịnh
hót, tổn hại, kiêu căng, tự mình không biết xấu hổ, không biết thẹn
với người, thân tâm chao động, hôn muội mờ tối trầm trọng,
không tin, biếng nhác trễ nãi, buông lung, quên mất chánh niệm, rối
loạn, biết không chơn chánh.
Ý
thức bị vây quanh bởi 6 món căn bản phiền não và 20 món tùy phiền não
nầy nên nó tạo ra vô số nghiệp ác cũng trong lúc "ý thức tán vị"
nầy hoạt động. Đây là những "chập tư tưởng" vô cùng ác hại
nếu ta không biết dùng chánh niệm để tiêu diệt chúng.
Ý
thức tán vị hầu như chiếm trên 90 phần trăm tổng số các hoạt động
của độc đầu ý thức. Nó hoạt động trong trường hợp một người ngồi
trong phòng thật yên tĩnh không có những âm thanh hay ánh sáng khuấy động,
nhắm mắt suy tưỡng những gì mà mình muốn, cố gắng không cho các giác
quan hoạt động chỉ để cho ý thức hoạt động một mình. Ví dụ suy nghĩ
lại những việc làm đã qua, đúc kết kinh nghiệm để thiết lập một kế
hoạt cho một công trình tương lai chẵng hạn. Trường hợp nầy có thể
là một kế hoạch thiện cứu người, giúp đời; ngược lại như trên đã
đề cập lắm lúc lại là những kế hoạch độc ác hại người để đạt
được những mục tiêu cá nhân; hoặc những kế hoạch không thiện không
ác...
Do
khả năng hạn chế của mỗi người nên những tổng kết kinh nghiệm quá
khứ, đưa ra nhận xét và lập ra kết hoạt tương lai cũng do đó mà bị hạn
chế, hơn nữa trường hợp ý thức tán vị nầy hoạt động có tính cách
suy lý hạn hẹp vì thiếu sự hợp tác của năm thức trước nên không
chính xác vì thiếu dữ kiện thực tế để so sánh kiểm nghiệm... Ví dụ
nhận xét về một căn nhà chẵng hạn những sự đúc kết đều do suy
nghĩ nhớ lại nên thiếu nhiều chi tiết bên trong căn nhà không bằng
đi quan sát thực tại hiện trường vì lúc ấy có năm giác quan đưa đầy
đủ dữ kiện vào để suy xét thì mới chính xác hơn.
Cảnh
của ý thức tán vị thường là độc ảnh cảnh. Những ảnh tượng hiện
ra do suy nghiệm về một vật thể có thực đó là hửu chất độc ảnh (ví
dụ hình ảnh của một ngôi nhà mà ta đã từng thấy rồi).
Còn
hình ảnh của một con quỉ mình đầu bị lủa đốt cháy đỏ mà ta chưa
hề thấy lại hiện ra đó là vô chất độc ảnh.
c)
Ý thức trong định: Khi những bậc tu thiền định đã đạt đến độ nhất
tâm bất loạn thì ý thức không tiếp nhận các nhận thức do năm giác
quan đưa vào lúc ấy ý thức trong định phát sinh độc lập với năm thức
trước.
Cảnh
của ý thức trong định thường là tánh cảnh. Chỉ có những bậc tu thiền
định đạt đạo mới thể nghiệm được những hình ảnh tánh cảnh nầy.
Còn những người tu thiền mà tâm chưa an định chưa đạt đến nhất tâm
bất loạn thì lắm lúc vẫn có những độc ảnh cảnh và đới chất cảnh
hiện ra như thường.
Các
nhà duy tâm luận chủ quan cũng thường hay nói về ý thức nhưng họ chỉ
bàn về ý thức tán vị và ý thức trong mộng là chấm dứt. Họ không biết
đến ý thức trong định như trong môn Duy Thức Học của Phật Giáo đề cập.
(2)
NGỦ CÂU Ý THỨC: Nói về ngủ câu nghĩa là Ý Thức phát sinh cùng
lúc với năm thức trước để nhận xét về những đối tượng của năm
giác quan.
Khi
Ý Thức chỉ chung khởi với một thức trước thì năng lực nhận xét của
nó có chiều sâu hơn, tinh tế và nhiều năng lực hơn. Ví dụ khi xem một
loài hoa lạ chỉ chăm chú phân tích loài hoa ấy thì sự phân tích đó có
chiều sâu hơn tinh tế hơn là phải vừ xem hoa vừa nghe nhạc v.v... Điều
nầy cũng dễ hiểu vì năng lực bị phân tán thì mũi tấn công sẽ không
được mạnh.
Henri
Luois Bergson cũng có phân tích về "Trực Giác", điều nầy có thể
nói nó tương tự như "cảm giác" của ngủ câu ý thức nầy. Thế
nhưng đi sâu hơn nữa đến vai trò của sự tạo nghiệp của ngủ câu ý
thức và vai trò tàng trữ nghiệp và phát khởi hiện hành trong hiện
tại cũng như động lực dẫn nghiệp đầu thai qua kiếp sau thì ông nầy hầu
như không có được những kiến thức về thức thứ bảy và Thức Thứ
Tám trong duy thức học. Các triết gia tây phương hầu như rất thích thú
phân tích về những chức năng của Ý Thức nầy nhưng đi xa hơn nữa đến
thức thứ bảy và Thức Thức Tám thì hầu như họ không có quan niệm tới.
Tôi không nghĩ rằng họ không nghiên cứu về Phật Giáo nhưng vì họ bị
gò bó bởi những kiến thức khoa học thực nghiệm của xã hội tây
phương đó thôi ! Nhiều người cũng có nói đến tìm năng, nói đến cái
"IT" , đó chẵng qua trong duy thức học xem như là "Tập
Khí" hay tìm năng hay chủng tử cũng vậy.
Xin
trích dẫn một đoạn trong sách "Duy Thức Học Thông Luận" của Thạc
Đức
có liên quan đến trường hợp ngủ câu ý thức nầy :
Do
cảnh vật thực tại chạm vào giác quan, ý thức và năm thức trước
đồng thời (ngũ câu ý thức) phát sinh, công nhận có cảnh vật thực
tại nghĩa là công nhận có thế giới khách quan, giống với chủ trương của
thực tại luận. Nhưng chỉ trong trường hợp cảm giác, Ngủ câu ý thức
mới có được sự trực nhận Tánh Cảnh, chứ đi sâu vào tri giác, thì cảnh
đó lại trở thành Đới Chất Cảnh Rồi. Mà đã là Đới Chất Cảnh thì
không phải là Tánh Cảnh nữa. Thế giới đới chất cảnh khác với thế
giới tánh cảnh, vì đó là những biến hiện của thế giới tánh cảnh.
Điểm nầy giống với Chủ Quan Duy Tâm Luận. Tuy thế, Duy Thức Học không
phải Chủ Quan Duy Tâm Luận vì lẽ Duy Thức Học có công nhận thế giới
khách quan; lại không giống Thực Tại Luận vì cho rằng thế giới do ý thức
nhận biết chưa phải là thế giới tánh cảnh chân thực và tánh cảnh chỉ
là sở duyên duyên cho sự phát sinh đới chất cảnh. Ngủ câu ý thức rất
gần với Kinh Nghiệm của thực nghiệm chủ nghĩa. Phần căn bản của kinh
nghiệm là cảm giác, mà của ngủ câu ý thức cũng là cảm giác vậy.
Nhưng
cảm giác là gì ?
1- Phần nhận thức (chủ
thể)
2- Phần bị nhận thức (đối tượng)
Cả
hai phần hợp lại gọi là cảm giác, hai phần là một. Ta đừmg nên lầm
hai phần ấy với giác quan (chủ thể) và ngũ trần (đối tượng) là những
điều kiện làm phát sinh cảm giác.
Có
người sẽ bảo rằng Tánh-Cảnh giống hệt như " vật tự thân "
của Kant, vì lẽ thế giới của đới chất cảnh không phải là thế giới
tánh cảnh cũng như hiện tượng của sự vật không phải là "vật tự
thân". Duy Thức Học vẫn công nhận cái bản chất ấy của sự vật,
nhưng có khác với Kant là ở chỗ Ngũ-câu-ý-thức có thể, trong trường-hợp
cảm-giác, nhận thức đến được tánh-cảnh, mà Kant thì nhất định quả
quyết ý-thức không thể hiểu đến được "vật tự thân".
Nếu
có "bản chất" ấy, thì đó là gì ? Bản chất ấy cố nhiên
không phải do ý-thức chủ quan biến hiện được, chỉ có Ngũ- câu ý-thức
có thể cảm-giác đến được mà thôi. Nhưng nếu bản chất ấy là Thần,
ý-tưởng của Thượng-đế, thì bản chất ấy lại giống với nguyên-tắc
tạo-hóa của Berkeley. Và nếu đứng về Thực tại luận, cho đó là vật
có thực chất, thì lại giống "thế-giới khách quan" của Duy-vật-luận.
Nếu bảo đó là "lý", thì lại giống với ý chí của Schopenhauer
mất.
Vậy
thì tánh cảnh ấy là gì ? Sao lại tồn-tại ngoài ý-thức chủ-quan ? Muốn
tìm biết, ta phải bước thêm một bước nữa để tìm hiểu Thức Thứ
Tám (thức Alaya). Đến đây ta chỉ mới biết rằng Duy-Thức-Học chủ-trương
thế giới tánh cảnh là thế giới thực tại và thế giới đới chất cảnh
là thế giới hình bóng, một bên thực, một bên hư thôi."
(Trường
hợp nầy xin đọc lại phần đầu nói về các tên gọi và chức năng
của Thức Thứ Tám.)
Khi
nói đến thế giới tánh cảnh tức là nói đến bản chất sinh khởi ra thế
giới đới chất cảnh , đồng thời cũng đề cập đến đối tượng của
Thức Thứ Tám.
Thế
giới tánh cảnh là hiện tướng của Thức Thứ Tám, đều do thức nầy biến
khởi, trong là căn thân, ngoài là thế giới. Căn tức là các giác quan là
căn cứ phát sinh ra thức. Thế giới do ý thức nhận biết được là thế
giới đới chất cảnh. Rất hiếm khi nhưng ngủ câu ý thức trong trường
hợp cảm giác cũng có thể cảm nhận được đến thế giới tánh cảnh.
Ngoài
thế giới chủ quan do ý thức nhận biết còn có thế giới khách quan. Thế
nhưng cả thế giới chủ quan và thế giới khách quan đều là biến tướng
của Thức Thứ Tám. Do đó có thể nói rằng thế giới tánh cảnh làm bản
chất cho thế giới đới chất cảnh vẫn nằm trong Thức Thứ Tám. Thế giới
tánh cảnh là một bộ phận của Thức Thứ Tám.
Trong
phần nầy không phải chú trọng bàn về thế giới tánh cảnh mà chỉ chú
trọng đến việc tạo nghiệp của Ý Thức. Sự tạo nghiệp đó có nhiều
nguyên nhân, có thể là do sự phán đoán sai lầm của ý thức trong trường
hợp Phi Lượng (sự nhận xét sai về đối tượng) chẵng hạn mà tạo ra
nghiệp. Cũng có thể là do bản ngã chấp trước không trong sáng là nguyên
nhân dẫn dắt Ý Thức đến chỗ sai lầm mà tạo ra nghiệp, cũng có thể
là do những chủng tử bất thiện trong Thức Thứ Tám phát khởi ra hiện
hành mà tạo ra nghiệp v.v...
Trong
bài tụng thứ hai ngài Thế Thân đề cập thẵng đến Nghiệp. Vì do
nghiệp của những Tập Khí đó là những hạt giống của các nghiệp, gồm
có nghiệp lành, nghiệp dữ, và nghiệp bất động do tu thiền định đạt
được làm sơ duyên.
Thứ
đến là hạt giống của Hai Thủ. Hai Thủ gồm có Tướng Phần (sở phân
biệt) và Kiến Phần (năng phân biệt) của Thức; Danh (tức là Tâm) và Sắc
(tức là phần thuộc về vật chất, thuộc về thân); Tâm và Tâm sở.
Phần sau nầy tức là hạt giống của Hai Thủ làm thân duyên.
Tóm
lại do Tập Khí cũng gọi là Chủng Tử hay Hạt Giống của các Nghiệp và
của Hai Thủ kể trên làm Sơ Duyên và Thân Duyên nên thân dị thục đời
nầy nghĩa là thân sinh ra do thọ nghiệp báo từ nhiều đời trước vừa
chết đi liền sau đó chủng tử các nghiệp và chủng tử hai thủ trở
thành động lực chính yếu lôi kéo Thức Thứ Tám đi đầu thai để thọ
quả báo ở đời sau và đời sau nữa trong vòng luân hồi khó mà thoát ra
được nếu không quyết chí chuyên tu để tiêu diệt các Nghiệp thoát khỏi
vòng sinh tử luân hồi.
D. Vai trò của Mạt-Na
Thức (Klista-mano Vijnana) trong sự tạo Nghiệp
(1)- Những tên gọi
của Thức nầy
Thức nầy cũng
từ Căn Bản Thức Thứ Tám mà ra, như thế sự hoạt động và biểu hiện
của nó là một phần của sự biểu hiện của Thức Thứ Tám.
Thức Mạt-Na có nhiều tên như:
a/ Mạt-Na Thức: tên nầy được phiên
âm theo tiếng Phạn như đã ghi trên.
b/ Ý-Căn: vì thức nầy là cơ quan của
Thức Thứ Sáu, Thức Thứ Sáu nương vào nó mà phát khởi ra nhận thức.
c/ Thức thứ bảy: vì trong tám thức
Tâm Vương thức nầy đứng hàng thứ bảy.
d/ Truyền Thống Thức: vì thức nầy có
công năng đưa các pháp hiện hành huân tập vào Tạng Thức dưới dạng chủng
tử và đưa chủng tử các pháp từ trong Tạng Thức cho phát khởi ra hiện
hành.
e/ Ý: trong Duy Thức Học chia tám món
tâm vương làm 3 loại như sau: Tâm, Ý và Thức. Tâm chỉ cho Thức Thứ Tám
vì Thức nầy có những công năng như chứa nhóm các chủng tử và phát khởi
ra hiện hành, duyên cảnh tức là nhận xét về đối tượng và khởi ra
phán đoán về những đối tượng đó, duy trì căn thân và thế giới... Do
đó Thức Thứ Tám còn gọi là Tâm.
Vì Thức Mạt-Na có tính chất sanh diệt
tương tục nên nó có biệt danh là Ý.
Sáu Thức còn lại là: Nhãn Thức, Nhĩ
Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức và Thức Thứ Sáu có đặc tính
là phân biệt thù thắng nên có cùng chung biệt danh là Thức.
(2) Những đặc tính
của Thức Thứ Bảy
Thức nầy có những
đặc tính như: trong Ba Cảnh là Tánh Cảnh, Ðộc Ảnh Cảnh và Ðới Chất
Cảnh, thức nầy chỉ có nhận xét phân biệt về Ðới Chất Cảnh mà
thôi. Về hình thức nhận xét đối tượng thì Thức nầy luôn luôn là Phi
Lượng vì bản tính chấp Ngã của nó nên nó thường là sai lầm (Phi Lượng)
không thể nhận xét trực tiếp như Hiện Lượng hay gián tiếp như Tỷ Lượng.
Ðây là những đặc tính mê mờ khiến cho thức nầy có ảnh hưởng lớn
đến Thân, Khẩu, Ý góp phần tạo ra nhiều nghiệp lực. Vì nó luôn luôn
nhận xét sai lầm về đối tượng nhưng nó lại là chỗ nương tựa của
Thức Thứ Sáu do đó hai thức nầy hợp lại hướng dẫn năm thức còn lại
cũng sai lầm luôn nên nó là nguyên nhân chính yếu tạo ra nghiệp lực.
Về Ba Tánh là: Thiện, Ác và Vô Ký
(Tánh nầy chia làm hai là Hữu Phú Vô Ký và Vô Phú Vô Ký), Thức Thức Bảy
chỉ có tính Hữu Phú Vô Ký nghĩa là tánh của nó thường bị các món phiền
não che lấp bản tính nhưng nó không giữ lại các hạt giống xấu đó như
Thức Thứ Tám. Ðây cũng là bản tính không tốt của thức nầy, là
nguyên nhân gây ra nghiệp.
Những điều kiện cần cho thức nầy có
thể hoạt động được là "Căn Cảnh Duyên" (tức là Thức Thứ
Tám và kiến phần của Thức Thứ Tám), vì Thức Thức Bảy dùng kiến phần
của tâm mình duyên qua kiến phần tâm của Thức Thứ Tám nên giữa hai thức
nầy sinh ra một tướng phần là cảnh "chơn đới chất" (vì thế
nên có câu Dĩ tâm duyên tâm chơn đới chất. Trung gian tướng phần lưỡng
đầu sanh).
"Tác Ý Duyên" là điều kiện khác
để cho thức nầy khởi phán xét phân biệt về đối tượng. Vì trước
đối tượng mà không có ý tưởng gì phát sinh nghĩa là lúc đó Mạt-Na Thức
không hoạt động.
"Chủng Tử Duyên", vì thức nầy
có tên là Truyền Thống Thức nghĩa là nó có chức năng gom các chủng tử
các pháp do sáu thức trước đem vào tích tập trong Thức Thứ Tám và lại
có chức năng ngược lại nữa là đem các chủng tử nằm sâu trong Thức
Thứ Tám ra cho khỏi hiện hành. Do đó nhiệm vụ của nó là mang chủng tử
vào kho cất giữ và lại lấy chủng tử ra khi cần. Do đó nếu không có
chủng tử thì anh nầy rảnh rỗi vô cùng.
Tánh và tướng của thức nầy là hay thẩm
xét so đo suy nghĩ thiệt hơn, luôn luôn chấp Ngã, cho cái nầy, cái kia,
cái nọ đều là của ta. Tính mà Ngài Huyền Trang gọi là "Bát Cá đệ
huynh nhứt cá si" (tám chú anh em, si một chàng) nghĩa là trong tám thức
tâm vương thì thức nầy ngu si đệ nhứt. Bởi vì bản tính ngu si bị các
món phiền não làm mê mờ bản tính sáng suốt đi rồi nên sinh ra rất nhiều
tội lỗi đồng nghĩa với việc tạo ra các nghiệp xấu ác.
Trong 51 món Tâm Sở thì chỉ có 18 món
Tâm Sở đi kèm hay còn gọi là chung khởi với Thức nầy đó là 5 món Biến
Hành (Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư).
Trong năm món Biệt Cảnh (Dục, Thắng Giải,
Niệm, Ðịnh, Huệ) Thức nầy chỉ tương ứng với Huệ mà thôi. Tại sao
đã gọi là anh chàng si mê mà lại cùng với món Huệ tâm sở chung khởi bởi
vì Huệ đây có nghĩa là hiểu biết, suy xét, so sánh, suy lường. Thức nầy
không phải là u tối mà anh chàng cũng đầy thông minh hiểu biết đấy chứ,
có điều là bị bản tính hay chấp ngã nên bị các món phiền não quấy
nhiễu làm cho mê mờ u tối đấy thôi.
Nặng nhứt là Thức nầy bị bốn món căn
bản phiền não (Si, Kiến, Mạn, Ái) khuấy nhiễu. Thật ra thì chỉ cần một
trong bốn món nầy khởi lên cũng đủ dắt dẫn chúng ta đời đời kiếp
kiếp tạo ra nhiều nghiệp nặng khó dứt được ra khỏi đường sanh tử
luân hồi rồi nói chi đến bốn món mà mỗi món đều có trọng lượng
tương đương như núi Hy Mã Lạp Sơn đè lên thân thể thì dẫu có trăm Tề
Thiên Ðại Thánh hợp lực cũng không tài nào vùng dậy nổi huống chi chỉ
có một mình Thức Thứ Bảy nhỏ nhoi như vậy làm sao thoát khỏi sức nặng
kinh hồn đó. Ðó là những động lực nặng ký nhất trong vấn đề tạo
nghiệp của con người.
Ngoài ra Thức Thứ Bảy nầy còn bị 8
món đại tùy phiền não nữa cùng chung khởi đó là Trạo Cử (lao chao),
Hôn Trầm (mờ tối trầm trọng), Bất Tín (không tin), Giải Ðãi (biếng
nhác trì trệ), Phóng Dật (buông lung), Thất Niệm (mất chánh niệm), Tán
Loạn (rối loạn), Bất Chánh Tri (hiểu biết một cách sai lầm).
Khi nói 18 món Tâm Sở nầy cùng chung khởi
với Thức Thứ Bảy là để cho dễ hiểu thôi chứ đó chính là những biểu
hiện hay là những đặc tính của Thức Thứ Bảy không hơn không kém.
Cũng từ những bản tính xấu đó mà
nhiều nhà Duy Thức Học đặt cho Thức Thứ Bảy nầy nhiều tên không đẹp
như là Thức Nhiễm Ô, Thức Si Mê, Thức Chấp Ngã...
Nói cho cùng đó là những biểu hiện
tiêu cực hay là những tướng trạng xấu của Thức Thứ Tám vì Thức Thứ
Bảy nầy do Thức Thứ Tám mà ra (y Bỉ chuyển duyên Bỉ).
(3) Thức Thứ Bảy
trong Duy Thức Tam Thập Tụng của Ngài Vasubandhu
Sách Duy Thức
Tam Thập Tụng của Ngài Thế Thân là một trong những sách căn bản nhất
về môn Duy Thức Học, triết học Phật Giáo nầy và nó rất phổ biến tại
Việt Nam, nguyên văn bằng tiếng Sanskrit Ngài Huyền Trang dịch ra Hán văn.
Trong sách đó có ba bài tụng, mỗi bài có 4 câu thơ 5 chữ nói về Thức
Thứ Bảy.
Bài tụng thứ nhất:
Tasya vyãvrtirarhatve
Thử
đệ nhị năng biến
Tadãsritya pravartate
Thị
Thức danh Mạt Na
Tadãlambam manonãma
Y Bỉ chuyển duyên
Bỉ
Vijnãnam mananãtmakamm
Tư lương duy tánh tướng
***
Thức năng biến thứ hai
Có tên là Mạt Na
Nương nơi Nó, duyên Nó
Tánh tướng là tư lượng
(Như Tạng Việt dịch)
Trong tám thức
tâm vương được chia làm ba loại thức năng biến. Ðó là Thức Thứ Tám
gọi là Thức Năng Biến thứ nhất đã phân tích ở những phần trên.
Kế đến đây là Thức Thứ Bảy được
gọi là Thức Năng Biến thứ hai. Thức nầy còn có tên là Mạt Na Thức như
đã nói trên.
Sáu Thức còn lại được gọi là Thức
Năng Biến thứ ba.
Câu "Nương nơi Nó, duyên Nó".
Chữ Nó chỉ cho Thức Thứ Tám vì Thức nầy phát sinh từ Thức Thứ Tám,
nương vào Thức Thứ Tám, Mạt Na nhận Thức A Lại Gia là đối tượng của
mình. Do đó A Lại Gia được gọi là gốc rễ và chỗ nương tựa cho Mạt
Na. Tánh và tướng nhận thức của nó là Tư Lượng.
Ðây là những bản tính cố hữu khiến
cho nó đóng một vai trò rất lớn trong việc tạo ra những nghiệp lực.
Bài tụng thứ hai:
Kelsais caturbhih
Tứ
phiền não thường cu
Sahitam nivrtãvyãkrtaih sadã
Vị ngã si, ngã kiến
Ãtmadrsty ãtmamoh
Tịnh
ngã mạn, ngã ái
Ãtmamãn Ãtmasnehasamjnitaih Cập giữ xúc
đẳng cu
Thường cùng bốn phiền não
Là ngã si, ngã kiến
Ngã mạn, ngã ái, và
Xúc v.v... cùng chung khởi
(Như Tạng Việt dịch)
Ðối tượng chấp
ngã của Thức Thứ Bảy là A Lại Gia. Ðể chỉ bản tính cố hữu chấp
ngã của Thức Thứ Bảy nên Ngài Thế Thân đã thêm chữ ngã vào trước bốn
món phiền não để trở thành ngã Si (si mê cái ngã), ngã Kiến (chấp chặt
nhận định về bản ngã), ngã Mạn đề cao cái bản ngã của mình, khinh
khi người khác, ta thường nghe từ "ngã mạn cống cao" và ngã Ái
(chỉ yêunhững gì của chính mình mà thôi).
Câu "Xúc" v.v... nghĩa là Xúc,
tác, ý, thọ, tưởng, tư, trong năm món biến hành tâm sở cùng chung khởi
với thức nầy.
Trong Duy Thức Học còn chú trọng phân
tích tính chất các tâm sở thường chung khởi với thức nầy có Si, Kiến,
Mạn, Ái; không thường chung khởi có năm món biến hành và 8 món đại tùy
phiền não như đã đề cập ở phần trên
Bài tụng thứ ba:
Yatrajas tanmayair anyaith
Hữu phú vô ký nhiếp
Sparsadyais carhato na tat
Tùy sở sanh sở hệ
Na nirodhasamapattau
A La Hán,
diệt định
Mãrge lokotare na ca
Xuất
thế đạo vô hữu
***
Tính hữu phú vô ký
Sinh nơi nào theo đó
La Hán, Diệt Tận Ðịnh
Xuất Thế Ðạo không còn
(Như Tạng Việt dịch)
Tính chất của Thức nầy là "hữu
phú vô ký". Thức Thứ Tám sinh vào cảnh giới nào thì Thức Thứ Bảy
cũng có mặt bên cạnh, vì bản ngã của nó là Thức Thứ Tám, đó là đối
tượng chấp ngã của nó. Khi hành giả đã tu chứng đến quả vị A La Hán,
nhập Diệt Tận Ðịnh và vào Ðạo Xuất Thế thì tên Thức Mạt Na không
còn. Vì bản tính chấp ngã đã được đoạn diệt.
Vì chứng đến A La Hán tên Tạng Thức
không còn là bản thể thanh tịnh sau nầy sẽ chuyển thành trí do đó Thức
Mạt Na cũng không còn đối tượng để chấp ngã, bản tính chấp ngã đã
mất tức là tên Mạt Na không còn chỉ còn bản tính thanh tịnh.
Trong Diệt Tận Ðịnh các món Tâm Vương
và Tâm Sở của sáu thức trước đã bị đình chỉ hoạt động, ngoài ra
các món tâm sở về phần tạp nhiễm cũng bị diệt do đó Thức Thứ Bảy
cũng bị chấm dứt các hoạt động chấp ngã.
Khi hành giả vào được Ðạo Xuất Thế
nghĩa là đã chứng được Trí Chơn Vô Ngã và Trí Vô Lậu Hậu Ðắc thì
hành tướng của Mạt Na cũng không còn tồn tại.
Khi hành giả đã đạt được những
trường hợp kể trên Thức Thứ Bảy không còn tác hại tạo ra NGHiệp nữa.
(4) Ngài Huyền
Trang nhận xét về Thức Thứ Bảy
Trong "Những
bài tụng mẫu mực về Tám Thức" Ngài Huyền Trang có ba bài tụng về
Thức Mạt Na như sau:
Ðới chất hữu phú thông tình bổn
Tùy duyên chấp ngã, lượng phi vi
Bát đại, biến hành, biệt cảnh huệ
Tham, si, ngã kiến, mạn tương tùy
***
Hữu phú, đới chất, thông Bảy, Tám
Tùy duyên chấp ngã, lượng là Phi
Biệt cảnh Huệ, Biến Hành, tám Ðại
Theo hoài, ngã kiến, mạn, tham, si
(Như Tạng Việt dịch)
Trong ba cảnh, thức nầy chỉ duyên về
"đới chất cảnh".
Ðới Chất Cảnh là cảnh tướng do vọng
chấp nương theo "hữu chất tánh cảnh" mà biến hiện ra, có hai loại:
a/ Chơn đới chất cảnh: trong Duy Thức
Học có câu "dĩ tâm duyên tâm chơn đới chất".
Mạt Na dùng "kiến phần" tâm
(phần năng phân biệt) của nó duyên qua "kiến phần" tâm của Thức
Thứ Tám, do đó cái Ngã Tường được sinh ra và trở thành "tướng phần"
(phần bị phân biệt) của Thức Thứ Bảy. Ngã tướng đó do sự phối hợp
của Thức Thứ Bảy và Thức Thứ Tám mà biến hiện ra được gọi là
"Chơn đới chất".
b/ Tợ đới chất cảnh: Cảnh do mê lầm
chấp ngã của Thức Thứ Bảy biến hiện ra. Cảnh nầy là sự phóng ảnh
lại, biến hiện lại bóng dáng của "chơn đới chất" mà thôi.
"Hữu phú" tức là tánh "hữu
phú vô ký" của Mạt Na.
"Thông TÌNH, BỔN" TÌNH là chỉ
cho Thức Thứ Bảy, BỔN là chỉ cho Thức Thứ Tám. Ở phần (a) trên đã
giải thích vì Mạt Na dùng kiến phần tâm (phần nầy trong bài tụng gọi
là TÌNH) duyên qua kiến phần tâm của Thức Thứ Tám. Sở dĩ Thức Thứ Tám
được gọi là BỔN vì nó là "cái gốc", chỗ nương tựa của Mạt
Na.
Hình thái nhận thức của Mạt Na thuộc
về phi lượng.
Bài tụng thứ hai:
Hằng thẩm tư lương ngã tương tùy
Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê
Tứ hoặc, bát đại, tương ưng khởi
Lục chuyển hô vi "nhiễm tịnh
y"
Tư lương, hằng, thẩm, theo ngã chấp
Ngày đêm hữu tình luống hôn mê
Bốn hoặc, tám đại cùng chung khởi
Sáu Thức nương vào "nhiễm tịnh
y"
(Như Tạng Việt dịch)
Trong bài thơ trên câu đầu nói về
tính chất của Thức Thứ Bảy là tư tưởng, chấp ngã đã bàn đến nhiều
lần ở những phần trên. Có hai từ Hằng và Thẩm cần giải thích.
Hằng là thường còn, Thẩm là thẩm
xét. Thức Thứ Bảy có tính chất là thường còn và hay thẩm xét.
Thức Thức Tám thường còn mà lại
không thẩm xét.
Thức Thức Sáu hay thẩm xét nhưng lại
hay gián đoạn, vì khi ngủ mê không chiêm bao, sinh vào trời Vô Tưởng, nhập
định diệt tận... Thức Thức Sáu không phát khởi.
Năm Thức trước không thường còn mà cũng
không thẩm xét.
Câu thứ hai cho ta thấy rõ vì bản tính
si mê chấp ngã của Mạt Na đã tạo ra nhiều nghiệp lực khiến chúng hữu
tình bị quay cuồng hôn mê trong luân hồi sinh tử.
Tah, sân, si, mạn là bốn món trong 6 món
căn bản phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến), 4 món nầy nằm
trong 10 món Tư Hoặc nên Ngài Huyền Trang gọi là "bốn Hoặc"
"Bốn Hoặc" đó là tham, sân,
si, mạn. Trong 10 món tư hoặc được phân ra trong ba cõi như sau: Dục Giới
có bốn: tham, sân, si, mạn. Sắc Giới có ba: Tham, si, mạn. Vô Sắc Giới
có ba: Tham, si, mạn. Vì trong hai cõi Sắc Giới và Vô Sắc Giới chúng sanh
không còn món "sân" như cõi của chúng ta đang sống.
Nguyên văn bài tụng gọi là "lục
chuyển" có nghĩa là sáu thức trước. Vì Thức Thứ Bảy nầy là nơi
nương tựa của sáu thức trước về mặt nhiễm ô cũng như về phần
thanh tịnh. Do đó sáu thức trước gọi thức nầy là "nhiễm tịnh
y".
Bài tụng thứ ba:
Cực hỉ sơ tâm, bình đẳng tánh
Vô công dụng hạnh ngã hằng thôi
Như Lai hiện khởi tha thọ dụng
Thập Ðịa Bồ Tát sở bị côi (cơ)
***
Chứng Sơ-Tâm, thành Bình Ðẳng Tánh
Trí
Ðến Vô Công Dụng, Ngã liền rơi
Thành Phật hiện thân Tha Thọ Dụng
Mười Ðịa Bồ Tát được độ rồi.
(Như Tạng Việt dịch)
Khi hành giả chứng được Sơ Ðịa tức
là Sơ Tâm Hoan Hỷ Ðịa, Thức Mạt Na chuyển thành Bình Ðẳng Trí.
Khi chứng đến
Ðịa Thứ Tám tức là Bất Ðộng Ðịa cũng gọi là Vô Công Dụng Hạnh
các chủng tử ngã chấp trong Thức Thứ Tám mới được tẩy sạch. Lúc bấy
giờ Thức Thứ bảy nầy cũng không còn tạo ra nghiệp lực nữa.
Khi hành giả chứng đến bậc Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác thành Phật, Thức Mạt Na đã chuyển thành Trí, lúc
ấy hành giả hiện thân Tha Thọ Dụng để giáo hóa hàng Thập Ðịa Bồ
Tát.
E. năm thức cảm
giác và hành trình
tạo nghiệp của
chúng
(1) Năm Thức Cảm Giác
Năm Thức Cảm Giác
còn gọi là Năm Thức Trước trong tám món Tâm Vương. Ðó là:
Nhãn Thức : Caksur-vijnãna
Nhĩ Thức :
Srota-vijnãna
Tỉ Thức
: Ghrãna-vijnãna
Thiệt Thức : Jihvã-vijnãna
Thân Thức : Kayã-vijnãna
Sở dĩ năm thức này được gọi là Năm
Thức Cảm Giác vì chúng có liên hệ mật thiết với lĩnh vực sinh lý và
vật lý của cơ thể và môi trường chung quanh.
Năm thức này cũng
chỉ là những biểu hiện của Căn Bản Thức (tức Thức Thứ Tám) như
trong Duy Thức Tam Thập Tụng có bài tụng:
Do nơi Thức Căn Bản
Năm Thức tùy
duyên khởi
Hoặc cùng hoặc
không cùng
Như sóng sinh từ
nước
Do nương vào Thức
Căn Bản tức là Thức Thứ Tám, năm Thức Cảm Giác này nếu hội đủ điều
kiện chúng sẽ phát khởi ra phân biệt nhận xét về đối tượng của chúng.
Hoặc cùng chung khởi hoặc chỉ phát khởi riêng lẽ nhưng tất cả năm thức
này cũng chỉ là những biểu hiện của Thức Thứ Tám. Sự liên hệ của
chúng với Thức Thứ Tám giống như NƯỚC (Thức Thứ Tám) và SÓNG (Năm Thức
Cảm Giác).
Ngược dòng lịch
sử để truy nguyên nguồn gốc của học thuyết Duy Thức, theo Giáo sư
Takakusu người Nhật Bản trong sách The Essentials of Buddhism Philosophy có đoạn
nói về nguồn gốc đó như sau: Bộ luận đầu tiên và căn bản nhất của
học thuyết Duy Thức là Nhiếp Ðại Thừa Luận (Mahãyãna-samparigraha) do
Vô Thức (Asangha) viết vào thế kỷ thứ V tại Ấn Ðộ, do người em là
Thế Thân (Vasabandhu) chú giải. Phật Thủ (Buddhasanta) dịch ra Hán văn vào
năm 531. Chân Ðế (Paramãrtha) vào năm 563, và Huyền Trang một lần nữa dịch
ra Hán văn vào khoảng 648-649. Bản dịch của Chân Ðế được xem là mẫu
mực nên nó trở thành bản văn căn bản của Nhiếp Luận Tông tại Trung
Hoa.
Bộ luận này đặt
trọng tâm vào 10 điểm như sau:
1/ A Lại Da Thức,
từ đó tất cả các pháp hiện khởi.
2/ Học Thuyết về
Duy Thức, tất cả các pháp không có tương hệ tánh, phân biệt tánh cũng
không có cả chân thực tánh.
3/ Sự đắc ngộ
trí tuệ Duy Thức.
4/Lục Ðộ Ba La
Mật.
5/ Thập Ðịa Bồ
Tát (*)
6/ Giới
7/ Ðịnh
8/ Huệ
9/ Vô Phân Biệt
Trí
10/ Tam Thân Phật
:
a) Pháp Thân: Bản tính là lý
thể và Trí Tuệ (Dharmakãya);
b) Báo Thân: hay thọ dụng
thân chỉ thị hiện để độ hàng Bồ Tát (Sambhogakãya);
c) Hóa Thân: thị hiện để
giáo hóa nhân loại, và các loài chúng sinh (Nirmãnakãya).
(*) Thập Ðịa Bồ
Tát gồm có:1)
Hoan Hỷ Ðịa,
2) Ly Cấu Ðịa, 3) Phát Quang Ðịa, 4) Diệm Huệ Ðịa, 5) Nam Thắng Ðịa,
6) Hiện Tiền Ðịa, 7) Viễn Hành Ðịa, 8) Bất Ðộng Ðịa, 9) Thiện Huệ
Ðịa, 10) Pháp Vân Ðịa.
Ngoài bộ luận
khởi đầu của học thuyết Duy Thức nói trên còn có Duy Thức Hai Mươi Bài
Tụng do Thế Thân viết và giảng giải và Duy Thức Ba Mươi Bài Tụng của
Thế Thân mà chúng tôi đã nhiều lần đề cập ở những phần trên.
Trong Nhiếp Ðại
Thừa Luận cho rằng "A Lại Da Thức, từ đó tất cả các pháp hiện
khởi" cũng như trong Duy Thức Tam Thập Tụng có câu "Do nơi Thức
Căn Bản, Năm Thức tùy duyên khởi..." Ý nghĩa không khác nhau mấy. Từ
đó ta có thể hiểu các luận sư Duy Thức đã đưa ra học thuyết về Duy
Thức là tất cả Ngã và Pháp đều do thức biểu hiện nghĩa là do thức
biến hiện ra chứ không có tự tánh thật sự.
Theo Giáo sư
Stcherbatsky có nêu ra những giai đoạn phát triển của triết lý Ðại Thừa
như sau:
1/ Thế kỷ thứ
I: Mã Minh (Asvaghosa) khởi xướng phong trào hưng khởi Ðại Thừa A Lại Da
Thức và Chân Như. Viết sách Ðại Thừa Khởi Tín Luận...
2/ Thế kỷ thứ
II: Long Thọ (Nãgãrjuna) và Ðề Bà khởi lập học phái Tánh Không Duyên Khởi
Luận.
3/ Thế kỷ thứ
III và IV: Có hai vị nổi bậc là Kiên Huệ (Saramati) và Di Lặc (Maitreya).
Di Lặc là vị thầy trực tiếp hay gián tiếp của Vô Trước và tính cách
lịch sử của ông thì không thể nghi ngờ gì được mặc dù có những huyền
thuyết về ông nên có một số học giả cho rằng ông chỉ là một nhân vật
tưởng tượng.
4/ Thế kỷ thứ
V: Lập trường Duy Tâm (cũng gọi là Duy Thức) của hai anh em Vô Trước
(Asangha) và Thế Thân (Vasubandhu).
5/ Thế kỷ thứ
VI: Luận tranh giữa các trường phái Duy Tâm và Tánh Không, An Huệ
(Sthiramati) và Trần Na (Dingnãga) đại biểu cho trường phái Duy Tâm, Phật
Hộ (Buddhapalita) và Thanh Biện (Bhãvaviveka) đại biểu cho trường phái
Tánh Không.
6/ Thế kỷ thứ
VII: Nguyệt Xứng (Candrakĩrti) xiển dương hệ thống Trung Quán... (theo Giáo
sư Takakusu trong sách The Essentials of Buddhism Philosophy đã dẫn).
Trong sách Ðại
Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh đã nói về A Lại Da Thức như sau:
"Tâm Sanh Diệt, Y theo không sanh diệt của Như Lai Tạng, mà có tâm sanh
diệt, tức là nói không sanh, không diệt của Như Lai Tạng và có sanh có
diệt của tâm ô nhiễm tương ứng, không phải một không phải khác, tên
gọi là A Lại Da Thức. A Lại Da Thức này có hai nghĩa, có thể chứa nhóm
tất cả các pháp tập nhiễm và thanh tịnh, cũng có thể nảy sanh ra tất
cả các pháp tập nhiễm và thanh tịnh, thế nào là hai? Một là nghĩa GIÁC
(Giác ngộ), hai là nghĩa Bất Giác (chưa giác ngộ, còn mê)".
Trở lại Năm Thức
Cảm Giác nói trên mỗi thức đều nương vào hai phần Phù Trần Căn là phần
vật chất thô phù bên ngoài chúng ta có thể xúc chạn cảm giác được và
phần vi tế ẩn tàng bên trong cơ thể gọi là Tịnh Sắc Căn cũng gọi Thắng
Nghĩa Căn.
Ví dụ Nhãn Thức
muốn phân biệt được đối tượng của nó, nó cần phải có tác dụng hỗ
tương của hai phần: Phù Trần Căn là cơ quan của cặp mắt phía bên
ngoài và Thắng Nghĩa Căn là hệ thống thần kinh bên trong cơ thể. Về phần
Thắng Nghĩa Căn theo Thái Hư pháp sư và Thiền sư Nhất Hạnh thì đó là hệ
thần kinh cảm giác và trung tâm tiếp nhận ấn tượng cảm giác trong não
bộ.
"Hãy lấy
ví dụ con mắt THẤY cái hoa. Con Mắt là phù trần căn, còn cái hoa, một
hiện tượng của thế giới tánh cảnh, là đối tượng của con mắt. Sự
XÚC CH[1][1]M (xúc)
tạo nên một hình ảnh của cái hoa in trên võng mô của con mắt; ấn tượng
của hình ảnh này được lập tức chuyền tới trung tâm cảm giác của
não bộ. Trong giai đoạn đầu chúng ta có mắt (phù trần căn) và hoa. Trong
giai đoạn hai, chúng ta có võng mô, thị giác thần kinh (thắng nghĩa căn) và
hình ảnh của cái hoa in trên võng mô ấy. Trong giai đoạn thứ hai này,
chúng ta vẫn còn nằm trong phạm vi sinh lý và vật lý. Chỉ khi nào vượt
đến giai đoạn thứ ba thì mới thực là có thực phát sinh. Năm thức trước
và Ý thức vì vậy liên hệ mật thiết với sinh lý và vật lý, và không
thể phát hiện và tồn tại ngoài sinh lý và vật lý. Vì vậy không thể
nói là thế giới thực chất nằm trong các thức ấy.
"Vào giái
đoạn thứ ba, thức được phát sinh. Và điều hệ trọng nhất là thức
bao gồm trong đó cả phần chủ thể lẫn phần đối tượng. Kiến phần
(darsanabhãga) và tướng phần (nimittabhãga) tức là hai phần thiết yếu
không thể không có của thức, của nhận thức. Cảm giác luôn luôn phải
là cảm giác về một cái gì; tri giác phải luôn luôn là tri giác về một
cái gì; ý thức phải luôn luôn là ý thức về một cái gì; không thể có
chủ thể riêng biệt với đối tượng. Cái ý niệm cho rằng có một cái
thức tồn tại độc lập ngoài đối tượng của nó và đi tìm để cảm,
để thấy để biết từ đối tượng này sang đối tượng khác là một
điều sai lầm căn bản đối với Duy Thức Học.
"Thức, như
vậy, là những dòng tiếp nối của cảm giác (nếu ta nói về năm thức đầu)
hay của tri giác hoặc phân biệt (nếu ta nói về Ý Thức). Thức được phát
hiện theo luật nhân duyên (điều kiện hóa) như bất cứ một hiện tượng
hữu vi nào khác. Nhãn thức (thị giác) không thể tồn tại nếu không có
nhãn căn tức là thị quan và sắc trần, tức là hình sắc. Sự tiếp
nối của những chuỗi xúc chạm (sparsas) giữa các cảm quan sinh lý và đối
tượng vật lý của chúng tạo nên tiếp nối của những chuỗi cảm giác
mà ta gọi là thức. Vì luôn luôn chuyển biến, thức là những dòng cảm
giác hay tri giác mà không phải là một cái gì bất biến có tính cách đồng
nhất ... (theo sách Vấn Ðề Nhận Thức Trong Duy Thức Học của Nhất
Hạnh)".
(2) Tính
chất và điều kiện của năm thức cảm giác
a/Tính chất:
Bài tụng thứ
tám trong Duy Thức Ba Mươi Bài Tụng của Thế Thân nói về Thức Năng Biến
thứ ba như sau:
Dvitiyah parinãmo
yam trtĩyah sadvidhasya yã
Visayasyopalabdhih
sã kusálãdvayã
Thứ đệ tam năng
biến
Sai biệt hữu lục
chủng
Liễu cảnh vi tánh
tướng
Thiện bất thiện
cu phi
(Huyền Trang dịch
ra Hán văn)
Thức năng biến
thứ ba
Sai biệt gồm sáu
loại
Tánh, Tướng đều
biểu biệt
Ðủ Thiện, Ác,
Vô Ký
(Như-Tạng Việt dịch)
Thức năng biến
thứ nhất là Thức Thứ Tám, Thức năng biến thứ hai là Mạt Na Thức. Sau
cùng là Thức năng biến thứ ba gồm có sáu loại là: Nhãn Thức, Nhĩ Thức,
Tỉ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức và Ý Thức. Về Ý Thức đã khảo sát
ở những phần trước, đây chỉ nói về năm thức còn lại.
Bài tụng nói
Tánh và Tướng đều biểu biệt nghĩa là mỗi thức đều có lãnh vực hoạt
động riêng biệt, thức này không thể làm công việc của thức khác. Ví
dụ Nhãn Thức chỉ có thể phân biệt đối tượng của nó là những vật
thể hữu hình cùng với những điều kiện trợ duyên cho nó như ánh sáng,
khoảng cách... Nó không thể nghe và phân biệt được âm thanh là thuộc
lãnh vực của Nhĩ Thức... chỉ trừ thức thứ sáu có thề tham dự vào
các sự biểu biệt của năm thức còn lại dưới danh nghĩa là Tác Ý.
Từ những bài tụng
kế tiếp trong Duy Thức Tam Thập Tụng của Thế Thân và Bát Thức Qui Củ
của Huyền Trang, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đã tóm lược như sau:
Trong năm mươi mốt
món Tâm Sở (caitasika-dharma), năm thức này chỉ tương ứng với 34 món mà
thôi.
Ðó là 5 món Biến
Hành (sarvatraga): Xúc (cảm xúc, sparsa), Tác Ý (sự móng tâm, chú ý,
Manaskãra), Thọ (lãnh thọ, vedanã), Tưởng (tưởng tượng, samjinã), Tư
(suy tính, cetanã).
5 món Biệt Cảnh
(viniyata): Dục (mong muốn, hy vọng, chanda), Thắng Giải (nhận định chắc
chắn, adhimoksa), Niệm (nghĩa nhớ, smrti), Ðịnh (chuyên chú, samãdhi), Huệ
(quan sát, hiểu biết, prajnã).
11 món Thiện
(kusala): Tín (tin, sraddha), Tàm (tự thẹn, hri), Quí (hổ với người, apatrãpya),
Vô Tham (không tham lam, alobha), Vô Sân (không giận, advesa), Vô Si (không si
mê, amoha), Tinh Tấn (siêng năng, hăng hái không ngừng, virya), Khinh An (nhẹ
nhàng an tĩnh, prasrabdhi), Bất Phóng Dật (không buông lung, apramãda), Hành Xả
(vô tâm, upeksã), Bất Hại (không hại, ahimsã).
3 món căn bản
Phiền Não (klesa): Tham (rãga), Sân (pratigha), Si (mũdhi).
2 món trung Tùy
Phiền Não (upaklesa): Vô Tàm (không thẹn, ãhrĩkya), Vô Quí (không hổ,
anapatrãpya).
8 món đại tùy
phiền não: Trạo Cử (không yên, auddhatya), Hôn Trầm (hôn muội, styãna), Bất
Tín (không tin, ãsraddhya, Giải Ðãi (biếng nhác, kausĩdya), Phóng Dật
(buông lung, pramãda), Thất Niệm (quên, musitasmrtitã), Tán Loạn (lưu lãng,
viksepa), Bất Chánh Tri (biết sai, asamprajanya).
Nói về Thể
thì năm thức này chỉ có tự tánh phân biệt không có tùy niệm phân biệt
và kế đạt phân biệt.
Ðó là những
hành tướng, những biểu hiện hay cũng có thể gọi là bản tính, tính chất
vừa thiện vừa ác của năm Thức Cảm Giác khi hoạt động phân biệt ngoại
giới cũng gọi là đối tượng của chúng mà phát hiện ra.
Trong Ba Cảnh
thì năm thức này chỉ duyên tánh cảnh (còn độc ảnh cảnh và đới chất
cảnh thì chúng không có tác dụng đến), nghĩa là trong trường hợp cảm
giác chúng trực nhận đến tánh cảnh của sự vật).
Trong ba lượng
thì hình thức nhận thức của chúng là hiện lượng (còn tỷ lượng và
phi lượng không thuộc hình thái nhận thức của chúng). Vì là Năm Thức Cảm
Giác nên chúng chỉ tác dụng phân biệt đối tượng bằng trực giác Hiện
Lượng không qua trung gian lý luận so sánh loại suy nên khôngbị rơi vào
sai lầm trong nhận thức kiểu phi lượng.
Trong ba tánh thì
chúng có đủ là thiện, ác và vô ký không thiện không ác.
Trường hợp tánh
ác này là nguyên nhân chính khiến chúng tạo ra tội lỗi nghiệp lực.
Trong năm thọ thì
chúng chỉ có khổ, lạc và xả thọ.
b/ Ðiều kiện:
Trong Bát Thức
Qui Củ Tụng của Huyền Trang có bài tụng nói về những điều kiện cần
thiết để năm thức này có thể hoạt động được như sau:
Ngũ thức đồng y
tịnh sắc không
Cửu duyên, bát,
thất hảo tương lân
Hiệp tan, ly nhị,
quán trần thế
Ngu giả nan phân
thức dữ căn
Năm Thức cùng nương
Tịnh Sắc Căn
Chín, tám, bảy
duyên cùng phối hợp
Ba hiệp, hai rời,
quán trần thế
Người dại khó
phân Thức với Căn
(Như-Tạng Việt dịch)
Sở dĩ có được
nhận thức hay cảm giác phân biệt được đối tượng mà ta thường gọi
là Thức là nhờ CĂN (gồm có phù trần căn và tịnh sắc căn) xúc chạm
(xúc) với đối tượng của nó trong những điều kiện mà CĂN ấy có thể
hợp tác với thức để đưa đến phán đoán hay cảm giác về đối tượng
đó.
Như vậy cả
năm thức, thức nào cũng có CĂN mới có sự biểu biệt của Thức hay nói
cách khác nếu không có CĂN là không có sự nhận thức hay cảm giác vế
đối tượng tức là không có THỨC.
Nhãn Thức cần
chín duyên nghĩa là 9 điều kiện mới hoạt động được, đó là: Hư Không,
Ánh Sáng, Cơ Quan tức là CĂN (phù trần căn và tịnh sắc căn), Cảnh (cảnh
vật chung quanh ta là đối tượng của nhãn thức), Tác Ý, Thức Thứ Tám,
Thức Thứ Bảy, Thức Thứ Sáu, những Bản Hữu Chủng Tử của Nhãn Thức
nằm trong A Lại Da Thức. Nếu thiếu một điều kiện nào trong 9 yếu tố
kể trên Nhãn Thức cũng không thể hoạt động được.
Nhĩ Thức chỉ cần
có tám điều kiện đó là tất cả những điều vừa kể trên nhưng chỉ
trừ ÁNH SÁNG, vì tai không cần đến ánh sáng vẫn nghe và phân biệt được
những âm thanh, tiếng động.
Ba Thức còn lại
là: TỸ, THIỆT và THÂN chỉ cần 7 điều kiện giống như Nhãn Thức kể
trên nhưng trừ đi Hư Không và Ánh Sáng. Vì mũi không cần đến hư không
và ánh sáng vẫn có thể phân biệ được hương vị của đối tượng. Sự
nếm mùi của lưỡi và sự xúc chạm của thân cũng không cần đến hư không
và ánh sáng.
Kể cả ba TỸ,
THIỆT và THÂN phải tiếp xúc trực tiếp với đối tượng mới phân biệt
được. Ví dụ mùi hương của bông hoa phải lọt vào hai mũi chúng ta mới
cảm nhận được mùi hương ấy, lưỡi phải trực tiếp nếm đồ ăn chúng
ta mới phân biệt được mặn, lạt, ngon, dở... Tương tự thân ta phải
xúc chạm một vật mới biết vật ấy nóng hay lạnh v.v... Ba cơ quan này
phải trực tiếp xúc chạm với đối tượng mới sinh ra được cảm giác
phân biệt nghĩa là Thức mới phát sinh nên gọi là BA HIỆP.
Mắt và Tai phải
cần một khoảng cách tương ứng với vật muốn nhìn và tiếng động muốn
nghe thì hai cơ quan này mới có thể cảm giác phân biệt được đối tượng
nên gọi là HAI RỜI.
Như trên đã
nói CĂN (là các cơ quan gồm có phần cơ quan bên ngoài là Phù Trần Căn và
hệ thần kinh bên trong gọi là Tịnh Sắc Căn hay Thắng Nghĩa Căn) phải tiếp
xúc với TRẦN (tức là đối tượng của từng cơ quan) và phải đầy đủ
những điều kiện cần thiết thì những cơ quan ấy mới nhận thức phân
biệt được đối tượng của nó. Chỉ khi nào những cảm giác, phân biệt
hiểu biết về đối tượng phát sinh mới gọi là Thức mà thôi. Những
giai đoạn trước đó chưa có thức gì cả. Ðó là những điều hơi khó
hiểu khi phải phân biệt Thức với Căn.
(3) Hành
trình tạo nghiệp của Năm Thức Cảm Giác
a/ Các loại
nghiệp
Khi đề cập đến
Nghiệp các nhà Phật Học thường đứng trên hai phương diện để phân loại
Nghiệp. Ðó là về Thời Gian và Tánh Chất của Nghiệp
Về phương diện
Thời Gian Nghiệp được chia làm bốn loại: Theo Kinh Nhân Quả thì bốn loại
đó như sau:
1/ Thuận hiện
Nghiệp: Ðời nay tạo Nghiệp, hiện đời nay thọ quả báo.
2/ Thuận sinh
Nghiệp: Ðời nay tạo Nghiệp, đời sau mới thọ quả báo.
3/ Thuận hậu
Nghiệp: Ðời nay tạo Nghiệp, cách mấy đời sau mới thọ quả báo.
4/ Thuận bất định
Nghiệp: Nghiệp quả xảy đến không nhất định thời nào, có khi trong đời
này, có khi đời sau, có khi nhiều đời sau mới xảy đến.
Trên phương diện
Tánh Chất trong các Kinh, Luận thường phân thành bốn loại Nghiệp như
sau:
1/ Tích lũy Nghiệp:
là những Nghiệp đã tạo ra từ nhiều đời trước tích tập lại.
2/ Tập quán Nghiệp:
là những Nghiệp tạo ra trong đời hiện tại, luôn luôn tiếp diễn, nên
thành thói quen, thành tập quán, thành nếp sống riêng biệt.
3/ Cực trọng
Nghiệp: là những Nghiệp quan trọng có năng lực tác động mãnh liệt hơn
cả các Nghiệp khác và chi phối tất cả. Nó phát khởi nghiệp quả ngay
trong đời hiện tại, hay trong đời kế tiếp. Nó có thể là kết quả của
những hành vi tốt đẹp nhất như hành vi của bậc tu hành chân chánh. Nó
cũng có thể là kết quả của những hành vi xấu xa, vô đạo nhất như tội
ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm hại Phật và chia rẽ
Tăng đoàn.
4/ Cận tử Nghiệp:
là những Nghiệp lực gần lâm chung, cũng rất mãnh liệt và chi phối rất
nhiều trong sự đi đầu thai.
Khi nói về Nghiệp
nặng nhẹ không phải do nơi hình thức bên ngoài mà là do có chủ mưu hay
vô tình mà phân chia nặng nhẹ. Trong kinh Ưu Bà Tắc có phân làm bốn trường
hợp như sau:
1/ Hành động nặng
mà Ý nhẹ: như ném đá để dọa người mà lỡ tay làm người bị chết.
2/ Hành động nhẹ
mà Ý nặng: như ban đêm khi thấy một tượng đá tưởng là kẻ thù của
mình cầm dao đến đâm, kết quả là tượng đá bị sứt mẻ, nhưng Ý
thì nặng là muốn giết người.
3/ Hành động và
Ý đều nhẹ: ví dụ không thích một người nào đó nên dùng lời lẽ
châm biếm người ấy.
4/ Hành độngvà
Ý đều nặng: ví dụ vì thù người nào đó cố Ý chủ mưu lập kế hoạch
để giết người ấy và kết quả là đã phạm tội chủ mưu giết người.
Ði sâu vào chi
tiết hơn về việc phân loại tội nặng nhẹ, kinh Ưu Bà Tắc có chia ra
làm tám loại như sau:
1/ Phương tiện
nặng như dụng Ý và kết quả nhẹ: Ví dụ dùng dao định để dọa người
thôi nhưng chẳng may khiến họ bị thương.
2/ Dụng Ý nặng
nhưng phương tiện và kết quả đều nhẹ: Ví dụ vì thù muốn giết người
nhưng chỉ lấy đá ném nên kết quả chỉ làm người bị thương thôi.
3/ Kết quả nặng
nhưng dụng Ý và phương tiện đều nhẹ: Ví dụ như ném đá chơi nhưng chẳng
may trúng vỡ sọ người.
4/ Phương tiện
và dụng Ý đều nặng nhưng kết quả nhẹ: Ví dụ muốn giết người dùng
dao chém mạnh vào yết hầu nhưng may thay người ấy tránh được nên chỉ
bị thương nhẹ thôi.
5/ Phương tiện
và kết quả đều nặng nhưng dụng Ý nhẹ: Ví dụ vô Ý lái xe cán chết
người.
6/ Dụng Ý và kết
quả đều nặng nhưng phương tiện nhẹ: Ví dụ ác ý nói dối vu cáo người
đến nỗi họ phải bị tù tội.
7/ Dụng Ý, kết
quả và phương tiện đều nặng: Ví dụ muốn giết người và đã dùng
dao chém người đến chết.
8/ Dụng Ý, kết
quả và phương tiện đều nhẹ: Ví dụ muốn hù dọa bạn bè chơi nên
dùng bộ da cọp giả làm cọp để vồ người, kết quả là khiến người
ấy chỉ sợ trong chốc lát.
Ðọc những trường
hợp phân loại Nghiệp một cách chi li rất khoa học và hợp lý như trên
có thể nói Luật Hình Sự của các nước tiên tiến trên thế giới hiện
nay cũng chỉ đi đến trình độ phân loại tội hình sự như thế là tột
cùng rồi.
b/ Hành trình
tạo nghiệp
Ðể đi vào
hành trình tạo Nghiệp của năm Thức Cảm Giác tưởng không gì chính xác
bằng tổng hợp những tính chất của chúng từ đó truy nguyên ra việc tạo
Nghiệp của chúng.
Thức nào cũng có
cơ quan (tức là Căn) trên thân thể do do đó khi nói THÂN tức là nói tất
cả các CĂN của Năm Thức kể trên, hơn nữa CĂN là phần căn bản nhất
của Thức. Do đó trong khi tạo Nghiệp hễ nói đến Căn là đương nhiên
có cả Thức hiện khởi mới tạo nên Nghiệp.
Ngoài ra những
phần trên đã liệt kê các tính chất của năm thức này như Tham, Sân, Si
là ba món kịch độc đã là nguyên động lực dắt dẫn Thân, Khẩu, Ý
vào vòng tội lỗi tạo ra đủ cả các loại Nghiệp như vừa nêu trên.
Ngoài ra hai món
Vô Tàm, Vô Quí và 8 món đại tùy phiền não kể trên cũng là những động
lực mãnh liệt dắt dẫn năm thức ấy vào vòng oan nghiệt tạo ra những
Nghiệp không thể lường được nếu người ấy buông lung theo những dục
vọng thấp hèn cho ba món độc dắt dẫn vào ác đạo.
Thế nhưng chúng
ta vẫn có phương pháp đối trị hữu hiệu vì trong những bản tính xấu
vừa kể năm thức ấy vẫn có 11 món thiện trong đó có Vô Tha, Vô Sân,
Vô Si để đối trị hay triệt tiêu ba món Tham, Sân, Si vừa kể. Ðể đối
trị Tham, Sân, Si còn có Niệm, Ðịnh, Huệ để trừ khử chúng.
Lại nữa để
đối trị lại Vô Tàm, Vô Quí ta còn có Tàm, Quí nên chẳng hề chi.
Như thế theo
phương pháp đối trị vừa nêu hành giả lo gì không trừ khử được Nghiệp
xấu ác để tiến tu thành Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác sau này nếu chúng
ta tinh tấn không thối chuyển trên đường Chánh Niệm.
Nói đến đây chúng ta có đi xa ngoài Thức Thứ
Tám không? Xin thưa là hoàn toàn không vì Năm Thức này cũng từ Thức Căn
Bản tức là Thức Thứ Tám mà ra. Hơn nữa trong những điều kiện để
cho chúng có thể hoạt động được Thức nào cũng cần phải có Thức Thứ
Tám chỉ đạo (vì là "chủ soái trong nhà cậu đảm đang...". Nói
đến tạo Nghiệp, tàng trữ Nghiệp và dẫn Nghiệp qua các đời sau cũng tức
là nói đến công năng của Thức Thứ Tám...
IV
NHỮNG ĐIỀU KIỆN TRỢ DUYÊN CHO THỨC THỨ TÁM
Phật dạy: "các pháp hòa hợp
sinh, đó là nhân duyên" (Vinaya I, P.40 - Ngũ Phần Luật, quyển 16, Ðại
Chánh, 22, trang 210, trung).
Ðiều đó nói lên rằng các chủng tử
nơi Thức Thứ Tám muốn phát khởi ra hiện hành phải nhờ sự hòa hợp, sự
trợ duyên của nhiều điều kiện phối hợp lại.
Phật cũng dạy về tác dụng của Nhân
Duyên được gọi là duyên khởi như
sau:
"Cái nầy có nên cái kia có, cái
nầy sinh nên cái kia sinh; cái nầy không nên cái kia không, cái nầy diệt
nên cái kia diệt".
"Cái nầy có nên cái kia có"
nguyên lý nầy nói lên mối quan hệ hỗ tương đồng thời của các Pháp.
"Cái nầy sinh nên cái kia sinh" nguyên lý nầy chỉ mối quan hệ có
trước sau không đồng nhau. Ðó là tinh thần Nhân Duyên Quan nói lên sự tương
liên tương quan, hòa hợp mà tồn tại của các pháp. Ðồng thời cũng nói
lên những điều kiện hỗ tương trong sự tự biến
và cộng biến trong công năng của Thức Thứ Tám.
Khi đề cập đến Thức biến hiện, thành
lập ra vạn hữu vũ trụ không thể không đề cập đến bộ luận A Tỳ
Ðạt Ma, trong đó có đề cập đến Lục Nhân Luận
và Tứ Duyên Luận.
1/ Lục
Nhân Luận
Lục
Nhân Luận chia điều kiện thành lập vạn hữu ra làm 6 loại NHÂN như sau:
Năng Tác Nhân, Câu Hữu Nhân, Dị Thục Nhân, Tương Ứng Nhân, Biến Hành
Nhân, Ðồng Loại Nhân.
Trong sách "Thất Quyển Lăng Già"
(quyển 2, Ðại Chính, 16, trang 600, thượng) cũng có đề cập đến 6 nhân
nhưng khác với 6 nhân nêu trên. Ðó là: Ðương Hữu Nhân, Tương Tục Nhân,
Tướng Nhân, Năng Tác Nhân, Hiển Liễu Nhân và Quan Ðãi Nhân.
Có thể nói Lục Nhân Luận đã nêu
trên cùng đó là do Ca Da Diễn Ni Tử y cứ vào kinh Tăng Nhất A Hàm Lục
Pháp Bộ hệ thống hóa viết thành Luận Phát Trí thành lập ra thuyết nầy.
Về sau Hữu Bộ thường dùng lối giải thích nầy và triển khai có hệ thống
sâu xa hơn.
Thế nhưng không những chỉ có Lục
Nhân Luận kể trên không thôi, trong luận bộ Nam Phương lại chia Nhân
thành sáu loại khác với sự phân loại trên như sau: Tham, Sân, Si, Xả, Từ
Bi, và Trí.
Hữu Bộ rất coi trọng thuyết Lục
Nhân Luận trong luận Phát Trí của Ca Da Diễn Ni Tử.
Lục Nhân Luận đó là:
A/ Năng Tác
Nhân
Trong Câu Xá Luận quyển 6 có câu
"Trừ tự, dư năng tác" tức là trừ cái tự thể ra còn đối với
tất cả các pháp khác đều gọi là năng tác. Tất cả những điều kiện
tự trợ về mặt tích cực để thành lập nhân nầy đồng nghĩa với
Tăng Thượng Duyên trong thuyết 4 Duyên.
Trong sách Ðại Thừa A Tỳ Ðạt Ma Tạp
Tập Luận, quyển 3, có nêu lên 20 loại Năng Tác Nhân như sau:
(1) Sinh Năng Tác, (2) Trụ Năng Tác, (3)
Trì Năng Tác, (4) Chiếu Năng Tác, (5) Biến Hoại Năng Tác, (6) Phân Ly Năng
Tác, (7) Chuyển Biến Năng Tác, (8) Tín Giải Năng Tác, (9) Hiển Liễu Năng
Tác, (10) Ðẳng Chí Năng Tác, (11) Tùy Thuyết Năng Tác, (12) Quan Ðãi Năng Tác,
(13) Khiên Dẫn Năng Tác, (14) Sinh Khởi Năng Tác, (15) Nhiếp Thụ Năng Tác,
(16) Dẫn Phát Năng Tác, (17) Ðịnh Biệt Năng Tác, (18) Ðồng Sự Năng Tác,
(19) Tương Vi Năng Tác, (20) Bất Tương Vi Năng Tác. (Ðại Chính 31, trang
671, trung hạ).
Ðó là những công năng của Thức Thứ
Tám trong hai trường hợp tự biến và cộng biến. Vì thức nầy là động
lực chính dắt dẫn các thức khác hoạt động trong vai trò năng biến của
tám thức tâm vương.
B/
Câu Hữu Nhân
Trong
Câu Xá Luận quyển 6 có câu: "hỗ vi quả" tức là điều kiện hỗ
tương tự trợ để thành lập một sự kiện. Theo đó thì khi chủ quan và
khách quan phát sinh quan hệ thì chủ quan là nguyên nhân của khách quan, và
ngược lại khách quan cũng là nguyên nhân của chủ quan, cả hai hỗ tương
làm nhân cho nhau để thành lập ra hiện tượng.
Theo Kinh Lượng Bộ, về thời gian, nhân
quả nhất định phải có trước, có sau. Hữu Bộ chủ trương Nhân Quả
Ðồng Thời có đặc tính đồng nghĩa với Câu Hữu Nhân nầy.
Theo Hữu
Bộ thì Câu Hữu Nhân có hai trường hợp:
* Một là "Câu
hữu nhân đồng nhất quả": đó là trạng huống do nhiều
nguyên nhân khác nhau kết hợp lại sinh ra một kết quả. Nó còn có nghĩa
là "Hợp đồng nguyên nhân"
* Hai là "Câu
hữu nhân hỗ vi quả" tức là trạng huống chủ quan và khách
quan đối lập nhau còn có nghĩa là "Hỗ động nguyên nhân".
C/ Ðồng Loại Nhân
Theo Câu Xá Luận thì Ðồng Loại Nhân
có nghĩa là khi nhân và quả có cùng một tính chất. Không những một hiện
tượng chỉ trong sát na diệt mà đồng thời cũng cùng trạng thái đó
luôn kế tục tiếp diễn, lặp đi lặp lại. Ðó chính là sự tương tục
của "đồng loại nhân" và "đẳng lưu quả"
D/ Tương Ứng Nhân
Cũng
trong Câu Xá Luận quyển 6 có câu: "quyết định tâm, tâm sở đồng
ý", Quyết Ðịnh Tâm có nghĩa là Thức Thứ Tám năng biến.
Khi Thức Năng Biến phát ra một mệnh lệnh
hay một ý niệm sinh khởi liền theo đó có một chuỗi tác dụng tâm lý tương
ứng tức là những kết quả được đem lại do mệnh lệnh trên. Trường
hợp nầy được gọi là "Tương Ứng Nhân".
Vì tự thể của "Tương Ứng Nhân"
giống như "Câu Hữu Nhân". Nhưng Câu Hữu Nhân phổ biến về cả
hai phương diện vật chất và tâm lý,còn Tương Ứng Nhân chỉ là đặc thù
về phương diện tâm lý mà thôi.
Trong luận Bà Sa (Bà Sa, quyển 16, Ðại
Chính, 27, trang 80, hạ), và theo Hữu Bộ thì sở dĩ gọi là Tương Ứng Nhân
vì không những sự tồn tại cùng một lúc giữa nhân và quả mà còn tùy
thuộc vào "Ngũ Sự Bình Ðẳng" được giải thích như sau: Khi một
Nhân muốn đưa đến một quả Tương Ứng phải trải qua 5 điều kiện
(ngũ sự bình đẳng):
(1) Cùng một căn, (2) Duyên cùng một cảnh,
(3) Khảo sát tương tự, (4) Cùng một lúc, (5) Ðều là một thể.
Trường hợp Câu Hữu Nhân thì không có
sự hạn chế bởi 5 điều kiện trên.
E/ Biến Hành Nhân
Tức là 5 món biến thành tâm sở, những
món phiền não mạnh nhất làm nguyên nhân sinh ra tất cả mọi phiền não
khác. Ðó là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến (Ác Kiến có 5 loại: thân kiến,
biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ).
Trong Duy Thức học gọi 6 món nầy là căn
bản phiền não, vì từ những món nầy làm nhân sinh khởi các món phiền
não khác.
F/ Dị Thục Nhân
Ðây tức là những nghiệp Thiện, Ác
làm nhân đưa đến những kết quả tương ứng trong tương lai hiện thế
hoặc những đời kế tiếp.
Trong Duy Thức Học chữ Dị Thục gồm có
3 nghĩa:
(1) Dị
Thời nhi thục (khác thời mà chín): Do thế lực của nhân mà thời gian
đưa đến kết quả có nhanh có chậm do đó gọi là Dị Thục.
(2) Dị Loại nhi thục (khác loại mà
chín): Trường hợp nầy trong Câu Xá Luận quyển 6 có đề cập đến. Ví
dụ quả xoài khi còn non, có màu xanh đến khi chín thì quả xoài lớn có
màu đỏ...
(3) Biến Dị nhi thục (đổi khác mà
chín): Vì sự tương tục, chuyển biến và sai biệt của sự gieo nhân. Ví
dụ trái xoài khi còn non có vị vừa chát vừa chua nhưng khi đã chín nó đã
biến đổi thành vị ngọt...
Vì hành động tạo nghiệp làm nhân có
nhiều sai biệt nên kết quả có tướng trạng bất đồng với nhân nên gọi
là Dị Thục.
Tóm lại tất cả 6 nguyên nhân kể trên
đều là những tướn trạng sai biệ của Thức Thứ Tám khi nó hoạt động
để đưa đến những kết quả tùy thuộc vào những điều kiện trợ duyên
cần thiết.
2- Tứ Duyên luận
Theo Tứ Duyên Luận thì những điều kiện
thành lập vạn hữu gồm có 4 loại đó là: Nhân Duyên, Thứ Ðệ Duyên
(còn gọi là đẳng vô gián duyên), Sở Duyên Duyên (còn gọi là cảnh
giới duyên), và Tăng Thượng Duyên.
A- Sự liên hệ
giữa 4 duyên và 10 Duyên
Khác với Lục Nhân Luận nói trên không
những chỉ Tiểu Thừa Luận bộ mà ngay cả Ðại Thừa Luận bộ giáo cũng
áp dụng Tứ Duyên Luận này.
Tứ Duyên Luận được nói đến trong
kinh Phân-biệt-duyên-khởi-sơ-thắng-pháp-môn, quyển hạ thuộc kinh tạng
Ðại Thừa.
Trong Thức-thân-tức-luận quyển ba (Ðại
Chính, 26, trang 547, trung) của Ðề Bà Thiết Ma (theo truyền thuyết Ngài ra
đời vào khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt) đã có đề cập danh mục Tứ
Duyên. Trong Thi Thiết Túc Luận cũng có bàn đến Tứ Duyên và được Luận
Bà Sa dẫn dụng (Bà Sa quyển 21, Ðại Chính 27, trang 108, hạ). Theo các bộ
luận đã dẫn thì Tứ Duyên Luận, theo truyền thuyết, được hình thành
sau Phật nhập diệt độ trăm năm.
Ngoài ra trong Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm
Luận (quyển 25-26, Ðại Chính 28, trang 679-687) có nói về Thập
Duyên, vậy ta thử xem Thập Duyên và Tứ Duyên có liên hệ gì nhau không ?
Thập Duyên đó là: 1/ Nhân Duyên, 2/ Vô Dáng Duyên, 3/ Cảnh Giới Duyên (Sở
Duyên Duyên), 4/ Y Duyên, 5/ Nghiệp Duyên, 6/ Báo Duyên, 7/ Khởi Duyên, 8/ Dị
Duyên, 9( Tương Tục Duyên, 10/ Tăng Thượng Duyên.
Khi xét về luận lý của sự phát triển
tử tưởng Ấn Ðộ và nguyên lý về sự biến thiên của tư tưởng, thông
thường đi từ hình thức nhận thức đơn thuần tức là Tứ Duyên có trước
rồi mới phát triển thành Thập Duyên. Bộ luận Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm
có liên hệ sâu xa nhất với luận tạng Pali của Phật Giáo Nam Truyền. Bộ
luận này có gắn liền với các bộ luận Tỳ Bà Băng Già và Bổ Ðặc
Già La Thi Thiết Luận của Nam Phương. Như thế bộ luận Xá Lợi Phất A Tỳ
Ðàm kể trên đã được xây dựng trên nền tảng của các tài liệu cộng
thông giữa Nam Phương và Bắc Phương Phật Giáo mà thành.
Theo cách lý luận thông thường của Luận
Lý thì ta có thể hiểu là cái đơn giản có trước rồi mới phát triển
đến cái phức tạp hơn. Nếu chỉ nói một cách chung chung như vậy ta có
thể kết luận rằng thuyết 4 Duyên đơn giản có trước rồi mới phát
triển đến thuyết 10 Duyên rồi đến thuyết 24 Duyên. Nhưng theo sự lý luận
và những dẫn chứng sau đây ta lại thấy ngược lại là thuyết 24 Duyên
có trước rồi từ thuyết 24 Duyên phức tạp đó thuyết 10 Duyên mới được
thành lập để đơn giản hóa và thiết thực hơn. Và cũng theo thực tế
đó từ thuyết 10 Duyên phức tạp, thuyết 4 Duyên giản lược thực tế
hơn được thành lập. Ðó là những bước tiến thực tiễn về sự phát
sinh thuyết 4 Duyên có thể chứng minh được ở những đoạn sau.
Thuyết 10 Duyên không phải thoát thai từ
thuyết 4 Duyên mà ngược lại nó là sự ra đời để phản đối lại thuyết
10 Duyên và được chỉnh lý để cho gọn nhẹ hơn và sát thực tế hơn là
sự dài dòng không cần thiết của thuyết 10 Duyên. Ðiều đó được chứng
minh qua các bộ luận của Nam Phương Phật Giáo. Theo luận A-Tỳ-Ðạt-Ma-Pháp-Yếu
của A-Nậu-Lâu-Ðà, sau khi đã liệt cử 24 Duyên lại đem thu nhiếp thành
4 loại là: Sở Duyên Duyên, Ðẳng Vô Gián Duyên, Tăng Thượng Duyên, và
Nhân Duyên.
B- Sự liên hệ giữa
10 duyên và 24 Duyên
Trong Ðại Phẩm Loại Luận cũng lại có
đề cập đến Nhân Duyên Luận.
Trong Luận Sự có liệt kê Nhân Duyên gồm
có 9 loại như sau: 1/ Nhân Duyên, 2/ Tăng Thượng Duyên, 3/ Câu Sanh Duyên, 4/
Căn Duyên, 5/ Thực Duyên, 6/ Ðạo Duyên, 7/ Cảnh Giới Duyên, 8/ Vô Gián
Duyên, 9/ Tương Tục Duyên.
Số mục Nhân Duyên trong Ðại Phẩm Loại
Luận là 24 và các Bộ Phái Nam Phương thường áp dụng con số nầy.
Ðó là: 1/ Nhân Duyên, 2/ Cảnh Giới
Duyên (Sở Duyên Duyên), 3/ Tăng Thượng Duyên, 4/ Vô Gián Duyên, 5/ Ðẳng
Vô Gián Duyên, 6/ Câu Sinh Duyên, 7/ Hỗ Vi Duyên, 8/ Y Duyên, 9/ Cận Duyên,
10/ Tiền Sinh Duyên, 11/ Hậu Sinh Duyên, 12/ Tương Dục Duyên, 13/ Nghiệp
Duyên, 14/ Báo Duyên (Dị Thục Duyên), 15/ Thực Duyên, 16/ Căn Duyên, 17 Thiền
Duyên, 18/ Ðạo Duyên, 19/ Tương Ứng Duyên, 20/ Bất Tương Ứng Duyên, 21/ Hữu
Duyên, 22/ Phi Hữu Duyên, 23 Ly Duyên, 24/ Phi Ly Duyên (tham khảo trong sách
Compendium of Philosophy pp. 191-5, Visuddhumagga vol. II, p. 532).
Về hai bộ luận trên có lẽ Luận
Sự được ra đời sau Ðại Phẩm Loại Luận nghĩa là Cửu Duyên nói trên
được thành lập sau Nhị Thập Tứ Duyên trên đây mà thôi, vì được ra
đời sau nên đó chỉ là sự thâu gọn lại từ 24 Duyên có trước. Nếu
toàn bộ Luận Sự đã được chỉnh lý vào thời A-Dục Vương thì có thể
nói thuyết 24 Duyên đã được thành lập vào thế kỷ thứ tư trước Tây
lịch.
Thử tìm hiểu xem thuyết 24 Duyên có
liên hệ gì đến thuyết 10 Duyên trong Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm ?
Thuyết 24 Duyên bao hàm toàn bộ thuyết
10 Duyên.
Trong 10 Duyên, thứ 7 là Khởi Duyên và
thứ 8 là Dị Duyên mới đọc qua dường như không có liên hệ gì đến 24
Duyên, nhưng nếu nhận xét về tính chất của chúng thì Khởi Duyên tương
đương với Cận Duyên còn Dị Duyên tương đương với Hỗ Vi Duyên của
Nam Phương. Như thế giữa thuyết 10 Duyên của Bắc Phương và thuyết 24
Duyên của Nam Phương đã có liên hệ hỗ tương.
Vấn đề là thuyết nào có trước thuyết
nào có sau? Trong sách Nghiên cứu A-Tỳ-Ðạt-Ma-Luận trang 127-132 của Kimura
Taiken có phân tích thuyết 10 Duyên trong luận Xá-Lợi-Phất-A-Tỳ-Ðàm đã
thoát thai từ thuyết 24 Duyên trong Ðại-phẩm-loại-luận. Vì thuyết 24
Duyên quá rộng rãi, có nhiều điểm mơ hồ trùng lặp không thiết thực
do đó thuyết 10 Duyên ra đời là để đãi lọc và đưa ra thuyết 10 Duyên
cho cô đọng và thiết thực hơn của luận Xá-Lợi-Phất-A-Tỳ-Ðàm. Ðó
là một thực tế hiển nhiên mà trong giới học giả Phật Giáo ai cũng phải
công nhận.
C- Sự liên hệ giữa
24 duyên và 4 duyên
Ðây xin nhắc lại phần A đã đề cập
đến sự liên hệ giữa 24 Duyên và 4 Duyên. A Nậu Lâu Ðà trong sách A-Tỳ
Ðạt-Ma Pháp Yếu Luận sau khi liệt kê 24 Duyên lại qui kết thành ra 4
Duyên.
Sự phát triển của thuyết 4 Duyên đi từ
thuyết 24 Duyên rồi đến thuyết 10 Duyên và sau cùng là thuyết 4 Duyên
được thành lập.
Ðó là: Nhân Duyên, Thứ Ðệ Duyên (Ðẳng
Vô Gián Duyên), Sở Duyên Duyên (Cảnh Giới Duyên) và Tăng Thượng Duyên.
Sau khi thuyết 4 Duyên được thành lập
và được phổ thông hóa, các phái chủ trương thuyết 10 Duyên và 24 Duyên
vẫn giữ vững lập trường không thay đổi.
Các phái Nam Phương vẫn cố chấp và tiếp
tục lưu truyền thuyết 24 Duyên trong Ðại Phẩm Loại Luận.
Phái nào theo thuyết 10 Duyên trong luận
Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm vẫn tiếp tục duy trì không thay đổi.
Phái chủ trương thuyết 4 Duyên dẫn dụng
Kinh Phân Biệt Duyên Khởi Sở Thắng Pháp Môn và kết luận là Phật đã
nói 4 Duyên. Cũng từ trong Kinh vừa nói phái nầy dẫn dụng "Bát Môn
Duyên Khởi" để cho phù hợp với chân ý phân loại của Ðức Phật.
Ðó là:
1/ Cảnh Giới Duyên Khởi (nói cho đủ là:
Thụ Dụng Thế Tục Cảnh Giới Duyên Khởi).
2/ Nhậm Trì Duyên Khởi.
3/ Thực Nhân Duyên Khởi.
4/Tương Tục Duyên Khởi (còn gọi là:
Nhất Thiết Sinh Thân Tương Tục Duyên Khởi).
5/ Y Trì Duyên Khởi (Nhất Thiết Sinh
Thân Y Trì Duyên Khởi).
6/ Sai Biệt Duyên Khởi (còn gọi là: Nhất
Thiết Sinh Thân Sai Biệt Duyên Khởi).
7/Thanh Tịnh Duyên Khởi.
8/Tự Tại Duyên Khởi
(Tham khảo "Phân Biệt Duyên Khởi Sơ
Thắng Pháp Môn Kinh", Ðại Chánh, 16, quyển hạ, trang 841, Huyền Trang dịch).
Nhận xét về nội dung của Bát Môn
Duyên Khởi có quan hệ mật thiết với 24 Duyên và 10 Duyên kể trên, nó
được liệt vào Phương Ðẳng Bộ có tính chất của Tiểu Thừa Luận Bộ.
Về sau Du Già Ðịa Luận tuy là áp dụng
4 Duyên thế nhưng luận sư lại cảm thấy chỉ dùng 4 Duyên để giải thích
mọi hiện tượng trong vũ trụ dường như không thoải mái cho lắm cho nên
mặc dầu dùng thuyết Tứ Duyên, Ngũ Quả (Dị Thục Quả, Tăng Thượng Quả,
Ðẳng Lưu Quả, Sĩ Dụng Quả, Ly Hệ Quả) nhưng mặt khác lại lập ra
thuyết 10 Nhân.
Thuyết 10 Nhân đó là: 1/ Tùy Thuyết
Nhân, 2/Quan Ðãi Nhân, 3/ Khiên Dẫn Nhân, 4/ Sinh Khởi Nhân, 5/ Nhiếp Thụ
Nhân, 6/ Dẫn Phát Nhân, 7/ Ðịnh Dị nhân, 8/ Ðồng Sự Nhân, 9/ Tương Vi
Nhân, 10/ Bất Tương Vi Nhân (tham khảo: "Du Già Sư Ðịa Luận, quyển
5, Ðại Chánh, 30, trang 301). Thuyết 10 Nhân Luận nầy tuy khác hẳn với
thuyết 10 Duyên luận về phương pháp thành lập nhưng vẫn lấy con số 10,
và xét về nội dung của hai thuyết ta thấy có ít nhiều liên hệ với
nhau.
Khi đứng trên lập trường Duy Thức Học
mà nhận xét thì tất cả các thuyết kể trên đều là những điều kiện
Trùng Trùng Duyên Khởi có lúc là Nhân có lúc là Duyên tất cả đều là
những điều kiện cần thiết để Thức Thứ Tám có thể biểu biệt hoạt
động được trước đối tượng của nó.
D. Luận về tứ
duyên
Bốn Duyên đó là:
- Nhân Duyên,
- Thứ Ðệ Duyên (còn gọi Ðẳng Vô
Gián Duyên hay Vô Gián Duyên)
- Sở Duyên Duyên (còn gọi là Cảnh Giới
Duyên), và
- Tăng Thượng Duyên.
1. Nhân Duyên
Tất cả các pháp đều
do chủng tử làm nhân mới sinh ra quả. Dù là chủng tử sinh ra hiện hành
hay hiện hành huân trở lại thành chủng tử cũng đều do chủng tử làm
nhân mới sinh ra quả nên gọi là Nhân Duyên.
Trong các Duyên thì Nhân
Duyên có một ý nghĩa trọng đại nhưng vì có những ý kiến bất đồng của
các luận gia nên nó không có một ý nghĩa nhất định. Theo Y Tỳ Ðạt Ma
Pháp Yếu luận thì nhân là tham, sân, si, xả, từ bi và trí, tức là những
hoạt động tâm lý chủ yếu. Từ những hoạt động tâm lý chủ yếu mà
khởi lên một hiện tượng.
Nhưng
theo Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm luận (quyển 25, Ðại Chính 29, trang 679) thì lại
lấy đó làm hoạt động tâm lý mà chiêu cảm quả báo không ngừng, và tiến
đến xa hơn nữa là thu nhiếp cả tứ đại vật chất vào trong đó. Họ
cho rằng "nhân nghĩa là sinh, như mẹ đối với con". Duy Thức luận
phái lại giải thích rằng "nhân nghĩa là chủng tử của Thức A Lại
Ya, những chủng tử triển khai quan hệ vạn hữu".
Như vậy
có thể nói NHÂN DUYÊN gồm cả tư liệu cộng thêm động lực vào nữa
mà thành. Ví dụ khi xây cất một công trình thì vật liệu đương nhiên
là NHÂN DUYÊN nhưng nhân công cũng là NHÂN DUYÊN nữa.
Theo thuyết
nầy thì tất cả những sự vật được thành lập trong vũ trụ, không trực
tiếp thì gián tiếp, đều bao gồm ý nghĩa nhân duyên trong đó. Ðó là sự
giải thích của Bà Sa và Câu Xá. Hai bộ luận trên dựa vào Lục Nhân Luận
của Hữu Bộ mà giải thích Nhân Duyên.
Theo Câu
Xá luận thì NHÂN DUYÊN (trừ Năng Tác Nhân ra) bao gồm cả năm nhân kia là
Câu Hữu Nhân, Ðồng Loại Nhân, Tương Ứng Nhân, Biến Hành Nhân, và Dị
Thục Nhân.
Tại sao
ở đây Câu Xá lại trừ Năng Tác Nhân ra. Vì Năng Tác Nhân lấy nguyên
nhân "tiêu cực vô chướng ngại" làm chủ thể nên chỉ dùng năm
nhân kia mà giải thích cho Nguyên Nhân. Nguyên nhân ở đây được hiểu là
tác nhân tạo thành của tất cả mọi hiện tượng từ tâm lý đến vật
lý trong vũ trụ.
Nguyên
nhân là những yếu tố quan trọng chủ yếu, những điều kiện, những động
lực thúc đẩy để những sự vật hay các pháp sanh thành, tồn tại và biến
đổi. Nguyên nhân còn bao gồm cả nghĩa của Nhân Duyên nữa.
Như vậy
Nhân Duyên là một từ rất tổng quát chỉ những nguyên nhân, điều kiện
chủ yếu, những yếu tố quyết định không thể thiếu hoặc quá trình
thành lập hiện tượng tâm lý hay vật lý nào đó quanh ta hoặc trong vũ trụ.
Trường
hợp nầy có thể giải thích được là Nhân Duyên bao gồm những món như
sau:
(1) Tùy
Thuyết Nhơn (các pháp đều có tên gọi của nó tùy theo đặc tính và cơ
năng của từng loại. Cũng tùy theo đặc tính và công năng đó mà nó có
thể gây ra những hậu quả riêng biệt).
(2) Quán
Ðãi Nhơn (thể theo sự quan sát, nghiên cứu một hiện tượng, một vật
chất, tìm ra công năng và sử dụng công năng đó vào một việc gì).
(3) Kiên
Dẫn Nhơn (tất cả các pháp đều tiềm tàng động lực có thể tạo ra dẫn
lực làm phát sanh ra những phản ứng dây chuyền tức là Kiên Dẫn Nhơn, cái
trước làm nhân sanh ra cái sau).
(4) Nhiếp
Thọ Nhơn (những yếu tố bên ngoài hoặc bên trong hợp lại khiến cho chủng
tử tiềm tàng của các pháp khởi ra hiện hành).
(5) Sanh
Khởi Nhơn (từ những chủng tử tiềm tàng trong Thức Thứ Tám nhờ những
nhân duyên trợ lực phát khởi ra hiện tượng, mầm sanh khởi đó đã có
sẵn trong hạt giống).
(6) Dẫn
Phát Nhơn (đây cũng là nguyên nhân ngoại tại hoặc tiềm tàng trong chủng
tử khiến cho các pháp phát sinh cái mới hoặc tăng trưởng.
(7) Ðịnh
Biệt Nhơn (từ một chủng tử nhất định hoặc là cái nhân nhất định
sinh ra một quả nhất định; ví dụ hạt bắp chỉ sinh ra cấy bắp chứ
không thề sinh ra cây đậu được).
(8) Ðồng
Sự Nhơn (chỉ rõ công năng của các nhơn Quán Ðãi, Khiên Nhẫn, Nhiếp Thọ,
Sanh Khởi, Dẫn Phát và Ðịnh Biệt, sáu nhân nầy có những công năng hỗ
tương làm phát khởi ra hiện tượng mới, nghĩa là làm nhân phát sanh ra
các hiện tượng tâm lý và vật lý mới tiếp diễn nhau không ngừng).
(9) Tương
Vi Nhơn (đây là những nghịch duyên của các pháp; ví dụ lúa non gặp nắng
hân bên bị tàn lụn đi).
(10) Bất
Tương Vi Nhơn (đây là những thuận duyên của các hiện tượng...).
2. THỨ
ÐỆ DUYÊN (còn gọi là Vô Gián Duyên hay Ðẳng Vô Gián Duyên)
"Ðây
là nói Tám Thức cùng với các Tâm Sở mỗi niệm sanh diệt luôn không có
gián đoạn. Hình trạng sanh diệt của nó là khi niệm trước vừa diệt,
thì nó tránh đường để dắt dẫn niệm sau sanh ra. Vì sanh diệt tiếp tục
như vậy, trước sau bình đẳng, không có vật gì chen vào làm gián đoạn
nên gọi là "Ðẳng Vô Gián Duyên" (Duy Thức Phương Tiện Ðàm của
Ðường Ðại Viên, HT Thiện Hoa - Việt dịch).
Chữ
"thứ đệ" có nghĩa là trước sau, còn "duyên" là nhân
duyên. Cái trước làm nhân cho cái sau sanh khởi nên gọi là "thứ đệ
duyên".
Ví dụ
như khi thắp ngọn đèn cầy gần tàn lụn vì muốn giữ cho nguồn sáng tiếp
tục nên ta phải lấy đèn dầu châm vào cho nguồn sáng được tiếp tục,
trước là đèn cầy sau là đèn dầu hai loại đèn khác nhau nhưng ngọn lửa
không gián đoạn, nguồn sáng không gián đoạn, đèn trước là nhân của
đèn sau.
Trong
thuyết 24 Duyên thỉ Vô Gián Duyên đứng hàng thứ tư. Trong Xá Lợi Phất
A Tỳ Ðàm luận thì Ðẳng Vô Gián Duyên đứng hàng thứ năm. Trong thuyết
Tứ Duyên thì Ðẳng Vô Gián Duyên đứng hàng thứ hai. Trong thuyết 10
Duyên thì Vô Gián Duyên lại đứng hàng thứ hai. Như vậy Vô Gián Duyên đồng
nghĩa với Ðẳng Vô Gián Duyên. Chủ yếu ở đây là chỉ sự quan hệ trước
sau trong sự liên hệ tồn tại của các pháp. Ðây là chỉ cho sự chuyển
biến không ngừng của chủng tử trong Thức Thứ Tám. Mặc dầu chuyển biến
không ngừng nhưng không bao giờ gián đoạn. Khi niệm trước qua đi thì niệm
sau liền sanh khởi không gián đoạn. Niệm trước làm nhân cho niệm sau
không gián đoạn nên gọi là Ðẳng Vô Gián Duyên.
Niệm của
Tâm hay Tâm Sở tuy là trước sau có khác nhau nhưng bản thể của Tâm đều
phát xuất từ Căn Bản Thức là Thức Thứ Tám đều cùng một thể nên gọi
là Ðẳng (bằng nhau) không khác nhau.
Trong Xá
Lợi Phất A Tỳ Ðàm luận gọi đó là sự thay thế chỗ trống hay điền
vào chỗ trống giữa tiền niệm và hậu niệm.
Còn
"Vô Gián" nghĩa là không gián đoạn. Mặc dầu chủng tử trong Thức
Thứ Tám chuyển biến luôn thành những dòng tâm thức nhưng không bao giờ
gián đoạn ví như những giọt nước chuyển động liên tục thành một
thác nước không gián đoạn mà ở xa ta có thể trông thấy như một dãi lụa
trắng.
Như thế
Vô Gián Duyên hay Ðẳng Vô Gián Duyên chủ yếu là chỉ rõ quan hệ trước
sau tương tục tồn tại của các pháp. Theo tâm lý học Phật Giáo thì tâm
của chúng ta luôn luôn chuyển biến không lúc nào dừng nghỉ, không một
lúc nào tâm ở trạng thái ngơi nghỉ hay dừng lại. Nguyên nhân dẫn khởi
giữa hai niệm trước dứt và sau khởi đó là Duyên Khởi hay là Vô Gián
Duyên.
Vì giữa
niệm trước diệt và niệm sau sanh khởi không có một yếu tố nào khác
xen vào nên gọi là Ðẳng Vô Gián Duyên, đây là sự giải thích của luận
Câu Xá (quyển 7). Theo sự giải thích của Câu Xá luận và Bà Sa luận thì
sự tương tục của các pháp là ở điểm tiến hành không gián đoạn, cái
trước là Vô Gián Duyên của cái sau nhưng số lượng tiền hậu không nhất
thiết là bằng nhau.
Ðẳng
Vô Gián Duyên ở đây chỉ rõ bản thể sự chuyển động của chủng tử
làm nhân, làm duyên lẫn nhau mà tồn tục mà sinh ra các pháp về tâm lý
và vật chất trong vũ trụ.
3. SỞ
DUYÊN DUYÊN (còn gọi là Cảnh Giới Duyên)
Mỗi thức
đều có Kiến phần là phần chủ thể và Tướng phần là khách thể. Khi
chủ thể làm công việc nhận xét về đối tượng của nó thì theo Duy Thức
Học gọi chủ thể là Kiến Phần Năng Duyên và khách thể là Tướng
Phần Sở Duyên. Vì có hai chữ Duyên nên hai phần nầy hợp lại thành
Sở Duyên Duyên.
Căn (tức
là các cơ quan của con người) chỉ phát sinh THỨC sau khi nó đối diện,
nhận xét về đối tượng của nó. Nếu không có đối tượng thì Thức
không phát sinh được. Khi nói nhận xét thì phải nói là nhận xét về
cái gì...
Nói một
cách thông thường thì TÂM sinh khởi ắt phải nhờ vào cảnh, không có CẢNH
thì TÂM không sinh... Trong luận Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm (quyển 25, Ðại
Chánh 28, trang 680) lại giải thích như là cái đích và mũi tên được bắn
đi, mũi tên chỉ nhắm vào đích mà bắn.
Trường
hợp nầy được hiểu khi mắt xem hoa mới phân biệt được màu sắc và
chủng loại của hoa, nếu trong phòng hoàn toàn tối thì có mắt cũng chẳng
thấy được vật gì. Như vậy ta thấy có chủ thể và khách thể không chưa
đủ mà cần phải có những điều kiện trợ duyên nữa thức mới phát
sinh được.
Trong Duy
Thức Học còn phân biệt thành hai phần là "Thân Sở Duyên Duyên"
và "Sở Sở Duyên Duyên":
(a) Thân
Sở Duyên Duyên: Khi Kiến phần của một Thức Duyên qua Tướng phần của
chính nó thì gọi là "Thân Sở Duyên Duyên", đó là sự sinh hoạt
bên trong nội thức chưa đá động gì đến đối tượng bên ngoài.
(b) Sở
Sở Duyên Duyên: Trong Duy Thức Học chủ trương rằng mọi hiện tượng
quanh ta đều do thức biểu hiện, trong đó các cảnh vật, hoa lá... Những
cảnh vật ta thấy được đó đều là Tướng Phần của Thức Thứ Tám. Mắt
của ta nhìn ngắm cảnh vật đó và đưa ra nhận xét. Như thế là nhãn thức
đã gián tiếp duyên tướng phần của Thức Thứ Tám. Trường hợp nầy
Tướng phần của Thức Thứ Tám là "Sở Duyên Duyên" hay là Cảnh
Giới Duyên" của nhãn thức.
4. Tăng
thượng duyên
Tăng
Thượng Duyên là những điều kiện nội tại và ngoại tại hay chủ quan
và khách quan khiến cho một hiện tượng nào đó tăng trưởng phát triển
nhanh chóng hoặc tàn lụn nhanh chóng. Có hai loại đó là Thuận Tăng Thượng
Duyên và Nghịch Tăng Thượng Duyên. Thuận thì tăng trưởng phát triển
nhanh chóng nhưng nếu nghịch thì cá tác dụng ngược lại.
Theo luận
A Tỳ Ðạt Ma Pháp Yếu và Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm thì Tăng Thượng Duyên
nói cho cùng không ngoài ý nghĩa chỉ cái tác dụng tinh thần mạnh mẽ. Có
nghĩa là lòng ham muốn, tinh tiến, cho đến tư duy... những chí hướng mãnh
liệt muốn đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Trường hợp nầy Tăng Thượng
Duyên là động cơ chính yếu làm trung tâm chi phối mọi hành vi của con người.
Luận Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm muốn nói Tăng Thượng Duyên như là một ý
chí chủ chốt tự tại có quyền năng chi phối phát xuất từ Căn Bản Thức
(Thức Thứ Tám) làm động lực chính dắt dẫn các hành động khác để
đưa đến một kết quả mong muốn nhưng còn phải tùy vào những trợ
duyên khách quan nữa mới hội đủ điều kiện đưa đến một mục tiêu
mong muốn.
Theo luận
Câu Xá, Bà Sa giải thích thì Tăng Thượng Duyên trong thuyết bốn duyên với
Năng Tác Nhân trong thuyết Lục Nhân luận không khác nhau. Ðó là tất cả
các pháp trừ tự thể, các nguyên nhân hay điều kiện dù là tích cực hay
tiêu cực chỉ cần trợ duyên cho một hiện tượng nào đó được thành lập
thì đều thuộc về Duyên nầy. Nó là những động cơ trung tâm cộng với
những điều kiện nội tại và bên ngoài để đưa đến kết quả thành lập
hoặc thăng tiến của một hiện tượng. Trong trường hợp gặp Nghịch
Tăng Thượng Duyên thì thay vì một hiện tượng mới được thành lập hay
tăng trưởng ngược lại một hiện tượng sẵn có bị suy tàn sụp đổ.
Cũng
theo luận Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm sau khi nghiên cứu thuyết minh từng
Duyên một và tổng hợp lại thành sự hỗ tương và nói rõ tính chất dị
đồng của các Duyên, chủ trương rằng vì tất cả mọi hiện tượng là
do nhân duyên sinh. Những điều kiện khiến cho các hiện tượng được thành
lập đó là DUYÊN. Do đó kết quả chung cùng sẽ là trùng trùng hay vô tận
duyên khởi.
Thế
nhưng nói như vậy không hẳn là đã rõ vấn đề. Vì theo A Tỳ Ðạt Ma luận
đã hạn định rõ số mục các Duyên, theo đó giải rõ các Duyên đặc tính
để thuyết minh về sự thành lập hiện tượng.
Ví dụ
như trong thuyết 24 Duyên sự quan hệ giữa "tiền niệm tâm, tâm sở"
và "hậu niệm tâm, tâm sở" là y cứ vào Vô Gián Duyên, Ðẳng Vô
Gián Duyên, Phi Hữu Duyên, Ly Duyên, Tương Tục Duyên, và Tương Ứng Duyên.
Ðứng trên thuyết Bốn Duyên mà nói thì tác dụng của Tâm và Tâm Sở tuy
là y cứ vào toàn thể bốn duyên nhưng trong "Vô Tâm Ðịnh" thuộc
"Vô Tưởng Ðịnh" thì thiếu mất một Sở Duyên Duyên mà y vào ba
duyên còn lại, khi bàn đến tác dụng của vật chất thì chỉ bàn đến sự
liên quan của hai duyên là Nhân Duyên và Tăng Thượng Duyên mà thôi (Câu
Xá luận quyển thứ 7).
Thế
nhưng theo nhận định hay quan niệm thông thường thì Tăng Thượng Duyên
là tất cả những điều kiện kể cả thuận và nghịch xảy ra có liên
quan đến sự thành lập, tăng trưởng, hay suy tàn của một hiện tượng.
3/ Luận về năm
quả
Trong mục những điều kiện trợ duyên
cho thức thứ tám này đã đề cập đến Lục Nhân Luận và Tứ Duyên Luận.
Ðó là những nguyên nhân và những điều kiện cần và đủ để Thức có
thể biến hiện ra những hiện tượng mà trong Duy Thức Học thường gọi
là các PHÁP.
Thế nhưng những nguyên nhân và những
điều kiện như thế làm phát sinh ra những kết quả, hệ quả hay còn gọi
là Nghiệp Quả, Quả Báo... có liên hệ đến công năng dẫn nghiệp của
Thức Thứ Tám như thế nào?
Thông thường thì trong sự giải thích về
Nhân Duyên Luận các hệ quả được giải thích chung chứ không luận về
quả một cách riêng biệt.
Ðến thời kỳ Luận Bà Sa, Quả Luận mới
được xếp loại riêng để nghiên cứu cùng với nhân luận. Như thế tư
tưởng đó được triển khai nghiên cứu trong phạm vi Hữu Bộ.
Thử tìm hiểu có bao nhiêu quả. Theo Bà
Sa Luận (quyển 121, Ðại Chánh, 27, trang 629; Câu Xá quyển 6) thì có 5 Quả
đó là: A/ Dị Thục Quả, B/ Ðẳng Lưu Quả, C/ Sĩ Dụng Quả, D/ Tăng Thượng
Quả, E/ Ly Hệ Quả.
A. Dị Thục Quả
Dị Thục Quả là do Dị Thục Nhân đưa
lại. Hay nói một cách khác Nguyên Nhân là Dị Thục Nhân đưa đến kết
quả là sinh ra Dị Thục Quả.
Chữ Dị có nghĩa là Khác, là không
cùng, là biến đổi theo ba trường hợp: khác thời gian (dị thời), khác
chủng loại (dị loại), và sự thay đổi tính chất hay còn gọi là khác
tính chất (biến dị).
Thục có nghĩa là đã chín, trường hợp
ở đây có nghĩa là từ nhân đã đủ điều kiện để cho ra quả.
Trường hợp này thường chỉ cho quả báo
ứng của Nghiệp Thiện hay Ác. Khi đề cập đến Nhân thì có Thiện hoặc
Ác nhưng khi kết quả xảy ra như Dị Thục Quả này lại là Vô Ký nghĩa là
không thiện không ác. Ðây chính là đặc trưng của Dị Thục Quả này.
Có những loại quả thuộc về Thiện
hay Ác là do Biến Hành Nhân và Ðồng Loại Nhân sinh ra. Ðó là những loại
quả khác không giống như Dị Thục Quả này.
Tùy theo đời trước gieo nhân lành hay
ác sau khi mất đi và đến khi đầy đủ nhân duyên để thọ nhân đời
sau do công năng của Thức Thứ Tám dẫn nghiệp ấy đi thọ thai. Thân quả
báo này gọi là Dị Thục Quả.
B- Ðẳng Lưu Quả
Tại sao gọi
là Ðẳng Lưu ? Ðây là bình đẳng lưu xuất.
Ðời trước
tạo nghiệp thiện thì đời này hưởng Quả lành...
Ðời trước
tạo nghiệp ác thì đời này phải chịu Quả ác. Ðó là sự bình đẳng
lưu xuất hay còn gọi là nhân nào quả ấy.
Trường hợp
này chỉ là cái quả cùng tính chất với nhân. Quả này do Ðồng Loại
Nhân sinh ra.
Ðồng thời
quả này cũng do Biến Hành Nhân sinh ra. Biến hành này có liên hệ đến các
món phiền não làm nhân nên khi sinh ra quả cũng là phiền não.
C- Sĩ
Dụng Quả
Câu Xá Luận
quyển sáu định nghĩa như sau: "Nếu quả là do thế lực của nhân
sinh ra thì gọi là Sĩ Dụng Quả". Nếu Nhân là động lực chính yếu
thì kết quả tất cả đó là Sĩ Dụng Quả. Nhưng trường hợp này Sĩ Dụng
Quả là kết quả do Câu Hữu Nhân và Tương Ứng Nhân mà có.
D- Tăng
Thượng Quả
Tăng Thượng
Quả là do Tăng Thượng Duyên đem lại. Theo Hữu Bộ thì Tăng Thượng Duyên
tức là Năng Tác Nhân, phạm vi của nó rất rộng. Theo định nghĩa thì
"trừ tự thể ra, còn tất cả các Pháp đều là Năng Tác Nhân (hay là
Tăng Thượng Duyên). Một Pháp được sinh ra đều tùy thuộc vô số những
điều kiện trợ duyên. Do đó Một Pháp được sinh ra có thể coi như là kết
quả của vô số những điều kiện khác mà thành lập.
Nếu như
thế thì 4 quả kia cũng có thể diễn dịch hay quy kết thành Tăng Thượng
Quả. Nhưng trường hợp ở đây Tăng Thượng Quả đặc biệt không bao gồm
4 quả kia mà nó có một ý nghĩa đặc biệt. Ðó là Vô Ngại Quả, Gián Tiếp
Quả để đối lại với Tiêu Cực Nhân và Gián Tiếp Nhân.
E- Ly Hệ
Quả
Theo Câu
Xá Luận quyển sáu thì quả này có thể gọi là Sĩ Dụng Quả hay Sĩ Dụng
Quả Bất Sinh.
Vì quả
này do dụng công tu trì đạt được quả giải thoát là Niết Bàn, khác với
các quả hữu vi khác, vì nó thuộc về vô vi Pháp nên gọi là Ly Hệ Quả.
Có thể
nói trường hợp này hành giả đã tẩy sạch các món phiền não khỏi Thức
Thứ Tám, đã chứng đắc quả vị Niết Bàn tịnh tịnh, giải thoát khỏi
sinh tử luân hồi.
Ðó là năm
quả thuộc về giáo nghĩa của Hựu Bộ.
Có thể
tóm tắt sự liên hệ giữa Lục Nhân và 5 quả như sau :
1) Dị Thục
Quả: do Dị Thục Nhân mà có.
2) Ðăng
Lưu Quả: do Ðồng Loại Nhân và Biến Hành Nhân mà có.
3) Sĩ Dụng
Quả: do Câu Hữu Nhân và Tương Ứng Nhân mà có.
4) Tăng
Thượng Quả: do Năng Tác Nhân mà có.
5) Ly Hệ
Quả: do dụng công tu tập mà đạt được, thuộc vô vi Pháp nên không tùy
thuộc 6 Nhân kể trên.
4/ Bốn
Quả của Hữu Bộ
Theo Câu
Xá Luận quyển 6 thì ngoài 5 quả kể trên Hữu Bộ còn lập thêm 4 quả nữa.
Vì Hữu Bộ cho rằng chỉ 5 Quả trên chưa đủ diễn tả sự liên hệ giữa
Nhân Duyên và sự dụng công của Tâm Thức để đưa đến kết quả.
A- An Lập
Quả
Theo Thập
Duyên Luận thì Quả này là quả y cứ. Có thể nói đây là một loại quả
do tu tập mà chứng đắc.
Mỗi luận
gia có lối giải thích khác nhau nhưng theo chỗ chúng tôi hiểu thì Quả
này có liên hệ đến An Lập Hạnh trong bốn quả vị Bồ Tát. Ðó là An Lập
Hạnh (Supratichthitatchâritra) (Bồ Tát), Thượng Hạnh (Vicichtatchâritra) (Bồ
Tát), và Tịnh Hạnh (Vicuđhatchâritra) (Bồ Tát).
B- Gia Hạnh Quả
Ðây là
những hoạt động của ý chí hay cũng là những dụng công tu tập mà đạt
được. Như hành giả lúc khởi đầu tu Bất Tịnh Quán làm nhân cuối
cùng chứng được trí vô sinh.
Gia Hạnh
đây đồng nghĩa với Tinh Tấn. Nghĩa là hành trì những pháp môn tu tập
phát tâm dũng mãnh tăng tiến mãi không thối chuyển đến khi đạt được
quả vị giác ngộ.
C- Hòa
Hợp Quả
Chỉ cái
quan hệ nội tại giữa các cơ quan và Thức. Tức là Cơ Quan trong cơ thể
(Căn) hoạt động tiếp xúc với đối tượng của nó làm Nhân sinh ra tác
dụng phân biệt là Thức đó là Quả.
Hòa hợp
nghĩa là sự tiếp xúc đó điều kiện giữa các Căn và đối tượng của
nó. Ví dụ mắt phải thấy hoa và nhờ có ánh sáng mới thấy hoa được và
sau khi thấy hoa rồi mới có nhận thức phân biệt về loại hoa này khác với
loại hoa kia... Ðó là Hòa Hợp Quả.
D-Tu Tập
Quả
Cũng theo
Câu Xá Luận quyển sáu nói rằng do Tĩnh Lự mà có Biến Hóa Tâm. Như vậy
Biến Hóa Tâm là Quả của Tĩnh Lự.
Cũng như
một Thiền sư dụng công tu tập nhiều năm kết quả là Ngài đã chứng quả
A La Hán...
Thực ra bất
cứ một Quả nào trong 4 quả này cũng có thể được thu nhập vào một
trong 5 quả kể trên. Ví dụ Hòa Hợp Quả có thể nói là đối với Câu Hữu
Nhân như vậy có thể thu vào Sĩ Dụng Quả. Vì thế nên trong Câu Xá Luận
giải thích rằng 4 Quả này không có tư cách độc lập đặc biệt, bởi vì
cả 4 Quả đều có thể thu nhiếp vào Sĩ Dụng Quả hay Tăng Thượng Quả.
Trong trường
hợp này Hữu Bộ đã căn cứ vào 6 Nhân mà lập ra 5 Quả (hay 9 Quả). Thế
nhưng ở đây thử bàn mối quan hệ thời gian giữa Nhân và Quả như thế
nào ?
Có hai trường
hợp xảy ra đó là:
a) Nhân
truớc Quả sau
b) Nhân Quả
đồng thời
Tương ứng
với hai trường hợp này Hữu Bộ thành lập ra hai loại Quả là Thủ Quả
và Dữ Quả.
Thủ Quả
chính là chỉ cái chất liệu của Quả do Nhân đưa lại. Nói một cách
khác Thủ Quả chính là chỉ cái đương thể của Quả Thể đã thành. Thủ
Quả trong trường hợp này tương đương với Chất Liệu Nhân.
Dữ Quả
là chỉ cái tác dụng thực hiện Quả đó, tương đương với Ðộng Lực
Nhân.
Trong Câu
Xá Luận quyển 6 có định nghĩa như sau: "Có thể vì đó gieo nhân nên
gọi là Thủ Quả, cho đó năng lực nên gọi là Dữ Quả".
(Ghi chú:
Câu Xá Luận nói cho đủ là A Tỳ Ðạt Ma Câu Xá Luận
(Abhidharma-kosa-sastra) do Ngài Thế Thân (Vasubandhu) sáng tác, đây là bộ luận
căn bản chủ yếu của Câu Xá Tông. Ngài Thế Thân là Giáo Tổ của Tông
này).
Hữu Bộ
(Sarvastivâdin) nói cho đủ là Nhất Thiết Hữu Bộ, Giáo Tổ là Ngài La Hầu
La).
5/
Tâm Bất Tương U’ng Hành Pháp
Theo nguồn gốc tư tưởng của pháp TÂM
BẤT TƯƠNG ƯNG HàNH thì Pháp nầy không thuộc về Vật cũng không thuộc về
Tâm nên gọi là "tâm bất tương ưng hành". Nhiều luận gia Phật
Giáo cho rằng đây là một khái niệm đứng giữa Tâm và Vật. Nhiều luận
gia còn liệt nó vào Vô Vi Pháp. Nhiều luận gia quy nạp vào nhân duyên.
Riêng theo nhận xét của
chúng tôi thì "tâm bất tương ưng hành" nằm trong trăm pháp, mà
theo quan niệm của Duy Thức Học thì ngoài tâm không có Pháp nào tồn tại
trong ý nghĩa "tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức". Do đó trong mục
nầy chúng tôi nghiên cứu và giải thích "tâm bất tương ưng hành"
theo quan niệm Duy Thức Học, nghĩa là Pháp nầy cũng là những hành tướng
biểu hiện của THỨC THỨ TÁM. Vì khi đề cập đến một Pháp thì
luôn luôn phải có 2 phần là thức năng phân biệt và Pháp sở phân biệt.
Thế nên dù có những giả thuyết cho rằng "Tâm bất tương ưng hành
Pháp" không phải Tâm không phải Vật đi chăng nữa nhưng nó không thể
nằm ngoài Thức. Vì nếu nó nằm ngoài Thức thì chủ thể nhận thức để
quyết đoán nó có hiện hữu là gì ? Chủ thể nhận thức đó chính là Thức
năng phân biệt, là công năng của Thức Thứ Tám.
A/
THEO LUÂN BÔ NAM PHƯƠNG
Trong Phẩm
Loại Túc Luận của Nam Phương, khi phân loại vạn hữu vũ trụ theo nhân
duyên luận, ngoài việc phân biệt Tâm và Vật còn thêm phần nữa gọi là
"Thi Thiết" để giải thích về "tâm bất tương ưng hành"
pháp. Trong A Tỳ Ðạt Ma đã đi từ phương diện Ý Thức mà bắt đầu luận
chứng. Theo đó "Thi Thiết" có nghĩa là Quan niệm, hay là Khái Niệm,
chính là khái niệm có liên quan đến hình thức tồn tại của một Pháp.
Trong A Tỳ Ðạt Ma Pháp Yếu Luận của A Nậu Lâu Ðà thì "Thi Thiết"
được chia làm hai loại đó là Danh Thi Thiết và Nghĩa Thi Thiết.
Nghĩa Thi Thiết là đối tượng của
"khái niệm". Danh Thi Thiết là chỉ cái đương thể của khái niệm
đó .
Theo A-Ô-Ân-Thị thì nghĩa "Thi Thiết"
nói trên gồm có 12 loại như sau:
(1) "Chân như thi thiết": liên
quan đến quan niệm tồn tại, tức là đối với sự tồn tại của Ðệ
Nhất Nghĩa.
(2) Chấp Thi Thiết: là quan niệm dẫn xuất
từ sự tồn tại của Ðệ Nhất Nghĩa, đại khái là quan niệm đi vào nhận
thức của con người mà tồn tại.
(3) Tập Hợp Thi Thiết: là quan niệm
thích ứng với sự tập hợp của sự vật .
(4) Loại Thi Thiết: quan niệm về Chủng
hay Loại.
(5) Hình Thi Thiết: quan niệm đối với
hình thái của vật.
(6) Phương Thi Thiết: quan niệm về địa
vị hay phương hướng của vật.
(7) Thời Thi Thiết: quan niệm về thời
gian.
(8) Không Thi Thiết: quan niệm về không
gian.
(9) Tướng Thi Thiết: quan niệm đối với
các hiện tượng.
(10) Phi Hữu Thi Thiết: quan niệm đối với
sự không tồn tại của vật.
(11) Tương tục Thi Thiết: quan niệm đối
với sự tương tục của vật.
(12) Thế tục Thi Thiết: quan niệm đối
với sự biểu thị thông tục.
(Compendium of Ph. Pp. 5-6)
Ðó là những tư tưởng của các
luận sư Nam Phương triển khai về Thi Thiết, thế nhưng những tư tưởng nầy
đã phát triển theo thuận tự như thế nào? Cái nào trước, cái nào sau,
cho đến nay chưa thể kiểm chứng được.
B/ Theo luận bộ
bắc phương
Luận Bộ Bắc Phương lấy Hữu Bộ
làm trung tâm. Bắc Phương rất chú trọng trong việc nghiên cứu về
"tâm bất tương ưng hành pháp" nầy. Tiêu biểu trong các bộ luận
như Pháp Uẩn Túc Luận, Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm, Phát Trí Luận,
Phẩm loại Túc Luận v.v... đã trình bày rất rõ ràng.
Theo luận bộ nầy thì Tâm Bất Tương
Ưng Hành Pháp là các Pháp không đồng với những tác dụng Tâm Lý của
con người và tính chất của những tác dụng đó cũng khác với những
tác dụng Vật Chất. Do đó họ cho rằng nó ở giữa Tâm và Vật.
Tuy về thuyết Thực Hữu, Kinh Bộ đã
phản đối chủ thuyết "tâm bất tương ưng hành pháp". Nhưng các
hệ phái về Duy Tâm Luận lại thái dụng thuyết nầy như trong Thành Duy Thức
Luận và Duy Thức Luận.
Khái niệm được thu dụng sớm nhất có
lẽ là đi từ Sinh, Trụ, Lão. Kế đến là Mệnh, Ðắc và được tiếp tục
thêm vào đến chỗ rất phức tạp.
Trong mục "cộng xứ sở nhiếp pháp"
của luận "Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm" cùng một lúc với Tâm Sở
và Vô Vi đã đề cập đến Sinh, Lão, Tử, Mệnh, Kết, Vô Tưởng Ðịnh,
Ðắc Quả, Diệt Tận Ðịnh v.v.. (Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm Luận, quyển 1,
Ðại Chánh, 28, trang 526, hạ; nghiên cứu A Tỳ Ðạt Ma Luận, trang 129 ).
Trong Pháp Uẩn Túc Luận cùng lúc đề cập
đến các loại Tâm Sở và ba Vô Vi, đã kể đến Ðắc, Vô Tưởng Ðịnh,
Diệt Tận Ðịnh, Vô Tưởng Sự, Mệnh Căn, Chúng Ðồng Phận, Y Ðắc, Sự
Ðắc, Xứ Ðắc, Sinh, Lão, Trụ, Vô Thường, Danh Thân, Cú Thân và Văn Thân
(Pháp Uẩn Túc Luận, quyển 10, Ðại Chánh, 26, trang 500).
Trong Phẩm Loại Túc Luận cũng lược kê
các món như : Ðắc, Vô Tưởng Ðịnh, Diệt Tận Ðịnh, Vô Tưởng Sự, Mệnh
Căn, Chúng Ðồng Phận, Y Ðắc, Xứ Ðắc, Sự Ðắc, Sinh, Lão, Trụ,
Vô Thường Tính, Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân , đó là những Pháp
không tương ứng với Tâm nên được gọi là "Tâm bất tương ưng hành
pháp" (Phẩm loại Túc Luận quyển 1, Ðại Chánh, 26, trang
692).
Ha Lê Bạt Ma trong Thành Thật Luận quyển
7, Bất Tương Ưng hành phẩm 190 (Ðại Chánh 32, trang 289) đã chỉnh lý lại
các pháp nói trên và quy định thành 15. Tức là: Ðắc, Phi Ðắc, Vô Tưởng
Ðịnh, Diệt Tận Ðịnh, Vô Tưởng Sự (hoặc là Vô Tưởng Quả), Mệnh
Căn, Chúng Ðồng Phận, Dị Sinh Tính, Sinh, Trụ, Dị, Diệt, Danh Thân, Cú
Thân và Văn Thân.
Trong Câu Xá Luận thì không kể đến Dị
Sinh Tính nên chỉ còn 14 "Tâm bất tương ưng hành Pháp" các học
giả Nhật Bản và Trung Hoa đều theo con số nầy.
Trong Phẩm loại Túc Luận lại mở ra như
sau: "... nếu có những loại Pháp như thế, không tương ưng với Tâm,
thì tóm lại đều gọi là "Tâm bất tương ưng hành" do đó
"Tâm bất tương ưng hành pháp" quyết định không chỉ hạn định
ở con số 14 hay 15.
Theo quan điểm nầy, phái Ðại Thừa Duy
Thức luận tiêu biểu là trong Ðại Thừa A Tỳ Ðạt Ma luận của Vô Trước
(quyển 1, Ðại Chánh, 31, trang 665) Tâm bất Tương Ưng hành Pháp đã tăng
lên đến 24 như sau:
Ðắc
,Phi Ðắc, Vô Tưởng Ðịnh, Diệt Tận Ðịnh, Vô Tưởng Dị Thục, Mệnh
Căn , Chúng Ðồng Phận, Sinh, Lão, Trụ, Vô Thường, Danh Thân, Cú
Thân, Văn Thân, Dị Sinh Tính, Lưu Chuyển, Ðịnh Dị, Tương Ưng, Thế Tốc,
Thứ Ðệ, Thời, Phương, Số, Hòa Hợp (xem cách giải thích các pháp nầy
trong sách Ðại Thừa A Tỳ Ðạt Ma Tạp Tập Luận quyển 2 của An Huệ ,
Ðại Chánh, 31, trang 700).
Theo Hữu Bộ chủ trương các pháp nầy
cũng tồn tại như Tâm và Vật. Chẳng hạn khi một hiện tượng nào
đó phát sinh, trong đó đương nhiên là đã có nhân duyên nhưng phải kể
thêm Tâm bất tương hành là để hoàn thành cái nguyên nhân của sự vật
đó.
Thế nhưng các phái như Kinh Bộ, Thành
Thật Luận, Duy Thức Luận cho đó là giả lập ("Ðại thừa A Tỳ Ðạt
Ma tạp tập luận" quyển 1, Ðại Chánh, 31, trang 665, hạ); trong
Thành Thật Luận quyển 5, Pháp Tụ Phẩm 18, lại định nghĩa cho nó
là "Vô Tác Nghiệp" (Ðại Chánh 32, trang 252, trung, hạ).
Dù được tán thành hay bị phản đối
nhưng sự nghiên cứu về "Tâm bất tương ưng hành pháp" của
Hữu Bộ đã giúp chúng ta có thể khảo sát về vạn hữu trở nên tinh mật
hơn.
C/ Ý
nghĩa của các pháp tâm bất tương ưng hành
Ở đây chúng ta không thể giải thích một
cách tường tận từng pháp một vì nó rất phức tạp và cực kỳ khó khăn
và tốn nhiều thì giờ. Chúng tôi chỉ xin lược qua một cách đại cương
để quí độc giả tiện việc theo dõi bài viết.
(1) Ðắc : Ðắc là "được" là
chỉ trạng thái đã đạt đến một cảnh giới nào đó. Lúc đầu ví dụ
được "Vô tưởng định" hay là Diệt Tận Ðịnh v.v... Do nơi tâm
mà được một tập quán nhất định, không mất. Do đó Ðắc được thành
lập thành một Pháp trong "Tâm bất tương ưng hành Pháp". Hơn nữa
khi phải phân tách một hiện tượng nào đó, ta phải tách rời các yếu tố
và các yếu tố đó sẽ trở thành những yếu tố độc lập, nhưng khi phải
kết hợp để tạo ra một hiện tượng mới tức là ta có khái niệm về
Ðắc tức là được một cái gì đó rồi.
Theo luận Ðại Tỳ Bà Sa: Thánh
Nhân và Phàm Phu khi còn trụ ở tâm vô ký thì không khác nhau đó là trên
phương diện tạm thời mà nói về bề ngoài. Thế nhưng trong Tâm Thánh
Nhân thì đã thành tựu Trí Vô Lậu "không mất" còn tâm phàm phu
thì còn phiền não. Do đó nếu bỏ tâm vô ký đi thì tâm Phàm phu sẽ hoạt
động khiến cho Phàm Phu và Thánh Nhân khác nhau. Như thế pháp Ðắc ở
Thánh Nhân là trí vô lậu "không mất" khác với Phàm Phu là phiền
não chưa dứt sạch. Ðắc theo các luận gia còn chia thành 3 loại đó là :
"Pháp tiền đắc", "pháp câu đắc" và "pháp hậu
đắc". Tác dụng của Ðắc chỉ áp dụng cho những trạng thái
tâm lý mà thôi không áp dụng trong những trường hợp "được"
vàng, được "tiền" v.v... về phương diện vật chất. (tham khảo
luận Bà Sa quyển 158, Ðại Chánh, 27, trang 801; và Luận Câu Xá quyển
4).
(2) Thứ hai là "Phi Ðắc", khi
nói đến Ðắc không thể không đề cập đến Phi Ðắc là trạng thái
tâm lý ngược lại với đắc, nó cũng là một Pháp được nhắc nhở đến.
(3) Vô tưởng định, (4) diệt tận định,
(5) vô tưởng quả: là những trạng thái hoạt động tuyệt diệt của tâm.
Ðó là những trạng thái không thuộc về Tâm hay Vật nên chúng được liệt
vào "Tâm bất tương Ưng hành Pháp". Ðại Chúng Bộ và Hóa Ðịa Bộ
lại liệt chúng vào Vô Vi Pháp.
(6) Mệnh Căn: nghĩa là thọ mệnh,
nguyên lý sống còn. Hóa Ðịa Bộ gọi là "cùng sinh tử uẩn".
Ðộc Tử Bộ gọi là "Phi tức phi ly uẩn ngã". Hữu Bộ gọi đó
là trạng thái hoàn toàn do Tâm, Thân tương tục mà thành một nguyên lý trừu
tượng. Nó không mang một ý nghĩa của linh hồn (Nam Phương cho nó là một
Pháp thuộc về vật chất).
(7) Chúng Ðồng Phận: Ðó là những
khái niệm nguyên lý về đồng loại: Có 2 là Vô Sai Biệt và Hữu Sai Biệt.
Vô Sai Biệt: Chẳng hạn như bất luận
là đàn ông hay đàn bà hay trẻ con nếu đứng trên phương diện người mà
nói thì là nó có tính đồng nhất về chủng loại là loài người .
Hữu Sai Biệt: giữa đồng loại với
nhau nhưng lại có đàn ông khác với đàn bà... Phái Thắng Luận lại chia
đồng phận thành cao-đẳng-đồng và liệt-đẳng-đồng.
(8) Dị Sinh Tính: giải thích về địa vị
trừu tượng của phàm phu do Hữu Bộ thành lập nhưng Câu Xá Luận lại
không thừa nhận.
(9) Sinh, (10) Trụ, (11) Dị,
(12) Diệt: là bốn tướng thuộc về pháp hữu vi. Nó được các
phái luận gia tranh luận một cách rất sôi nổi. Phát Trí Luận và Phẩm
loại Túc Luận xem 4 tướng Sinh, Trụ, Dị, Diệt là nguyên lý của vạn hữu.
Luận Bà Sa quyển 39 (Ðại Chánh 27, trang 200) ngoài Tứ Tướng kể trên họ
còn cố tìm đến nguyên lý của Sinh, Trụ, Dị, Diệt là gì.
Ngoài Sinh, Trụ, Dị, Diệt ra họ còn muốn biến Sinh, Trụ, Dị, Diệt
thành nguyên lý của chính Sinh, Trụ, Dị, Diệt. Ðể vượt qua những khó
khăn đó họ đã đề xướng ra thuyết "Tiểu Tứ Tướng" hay
"Tùy Tướng", vấn đề càng trở nên phức tạp nhưng không làm
sáng tỏ thêm được phần nào .
(13) Danh, (14) Cú, (15) Văn (theo Luận Bà
Sa quyển 14, Ðại Chánh 27, trang 70) các nhà thí dụ cho rằng Danh
Thân, Cú Thân và Văn Thân không thật có. Các nhà Thanh Luận thì bảo rằng
Danh, Cú, Văn lấy tiếng (thanh) làm tự tính, Tông nầy cũng xếp chúng vào
"Tâm bất tương ưng hành Pháp".
Danh có nghĩa là Danh Từ (danh thuyên tự
tính).
Cú là câu văn, câu nói, dùng nó để diễn
tả ý tưởng của con người hay là diễn tả một Pháp nào đó... (cú
thuyên sai biệt). Văn là mẫu tự như: a, i, u, e ... Nhờ mẫu tự mà pháp
ra thành tiếng nói để truyền đạt ý tưởng, nhờ danh từ mà chỉ ra
được sự vật, các Pháp... Nhờ câu mà diễn tả ra nghĩa lý, ý tưởng...
Cách giải thích mhững nguyên lý nầy giống như cách giải thích của Văn
Ðiển Phái .
Ðó là những lý luận mà Hữu Bộ
thường áp dụng.
Bắt nguồn từ những lý luận của
Bà Sa Luận những phần sau đây chủ yếu là do Duy Thức Luận Phái thành lập.
(16) Lưu Chuyển: nói lên tính liên tục
bất đoạn của luật nhân quả.
(17) Ðịnh dị: giải thích về luật
nhân quả của những điều sai biệt.
(18) Tương Ưng: giải thích về mối quan
hệ bất tương ly của luật nhân quả .
(19) Thế Tốc: giải thích về sự lưu
chuyển nhanh chóng của luật nhân quả.
(20) Thứ Ðệ: giải thích về sự lưu
chuyển rất nhanh chóng nhưng diễn ra theo thứ tự.
(21) Thời: giải thích về nhân quả lưu
chuyển trong ba đời.
(22) Phương: giải thích về sự lưu chuyển
của luật nhân quả không bị giới hạn trong không gian nào cả.
(23) Số: nói về số mục như: một,
hai, ba, bốn ...
(24) Hòa Hợp:
giải thích về nhân quả do nhiều duyên hòa hợp mà thành (tham khảo A Tỳ
Ðạt Ma tạp tập luận quyển 2, Ðại Chánh, 31, trang 700 , 701).
D/ Dưới cái
nhìn của nhân duyên quan về sự tương quan giữa tâm bất tương ưng hành
và vô vi pháp
Nhân Duyên Quan được thành lập để
thuyết minh sự tương quan của vạn hữu trong quy luật "Ðộng" của
vạn hữu. Nhưng Vô Vi được thành lập theo tiêu chuẩn bất động bất biến,
hoàn toàn trái ngược lại với Nhân Duyên Quan.
Như thế "Tâm bất tương ưng hành
Pháp" đứng trên cương vị nào? Nó đứng ở vị trí trung gian giữa
Vô Vi và Nhân Duyên. Mặc dầu như trên đã nói khi giải thích từng Pháp
nó vẫn tuân theo qui luật nhân quả nhưng xét về bản chất thì không động
bằng Nhân Duyên.
Vì "Tâm bất tương ưng hành" đứng
giữa nên tùy theo mỗi luận sư giải thích có lúc được quy kết vào
Nhân Duyên có lúc được qui kết vào Vô Vi pháp.
Theo Ðông Sơn Bộ chủ trương rằng Ðắc
thuộc về Vô Vi pháp. Ðại Chúng Bộ và Hóa Ðịa Bộ lại cho rằng Tứ
Vô Sắc là Vô Vi, về điểm nầy rất có thể là Vô Tưởng Ðịnh, Diệt
Tận Ðịnh, Vô Tưởng Sự v. v... đã được xếp vào loại Vô Vi pháp.
A-Tỳ-Ðạt-Ma-pháp-yếu luận của Nam Phương
lại xếp toàn bộ "Tâm bất tương ưng hành pháp" vào bộ Nhân
Duyên Luận.
Tóm lại nếu quan niệm rộng rãi thì
trong "Tâm bất tương ưng hành pháp" nầy có bao gồm cả Nhân
Duyên và Vô Vi pháp. Hay ngược lại nếu Nhân Duyên được mở rộng thì sẽ
thu nhiếp cả "Tâm bất tương ưng hành" và Vô Vi vào trong đó mà
không ngăn ngại gì. Như thế ta có thể quan niệm tổng hợp được rằng
"Tâm bất tương ưng hành", Vô Vi và Nhân Duyên rất có liên hệ
mật thiết với nhau về mặt tâm lý.
V/ SỰ PHÂN LOẠI CÁC PHÁP, ĐỐI
TƯỢNG BIỂU BIỆT CỦA THỨC THỨ TÁM
1/ Ý nghĩa chữ
"PHÁP"
Trong Phật Giáo, các yếu
tố thành lập vạn hữu vũ trụ được gọi là PHÁP. Do đó mà từ ngữ
"nhất thiết pháp" thường được dùng trong ý nghĩa này. Thế nhưng
ý nghĩa của chữ "Pháp" là gì? Thông thường các vị luận sư của
A Tỳ Ðạt Ma đều giải thích là "tự-tính-nhậm-trì", có nghĩa là
mỗi "Pháp" có một đặc chất nhất định, không thay đổi. Những
nhà nghiên cứu chú thích Duy-thức-thuật -ký-nhất- bản, quyển I (Ðại
chính 43, trang 8, hạ) lại thêm một điều nhận-thức-luận nữa bằng từ
ngữ "quỉ-sinh-vật giải" để định nghĩa chữ "Pháp".
Hai từ ngữ trên hợp lại có nghĩa là: "những gì có một đặc chất
nhất định để phát khởi một nhận thức thích ứng với cái đó thì gọi
là "PHÁP". Nói một cách khác, cái gì có đặc chất nhất định và
được nhận thức thì gọi là "PHÁP".
Nói một cách cụ thể hơn
là: "khi đem phân tích và giải phẫu cái tổ chức và hoạt động của
vạn hữu ta nhận thấy nó có một đặc chất nhất định, do đó vạn hữu
được nhận thức". Tuy nhiên đó chỉ là mới đề cập đến vấn đề
một cách tổng quát mà thôi. Tiến lên một bước tinh tế hơn làm thế
nào để cụ-thể-hóa cái tướng đặc thù của các PHÁP được nhận thức
là có một đặc chất nhất định? Ðó là vấn đề rất khó khăn. Bởi vì
trong mỗi một hiện tượng, dù là thuộc về vật chất hay tâm lý, tất cả
các yếu tố cấu thành đều có tương quan với nhau nên không thể nào
phân biệt biên giới của chúng một cách rõ ràng hơn.
Ví dụ như những màu sắc
xanh, vàng, đỏ... đặc chất của mỗi màu tuy khác nhau nhưng trên thực tế
biên giới của chúng rất khó phân biệt được. Hoặc như những hiện tượng
tâm lý như cảm tình, mừng, giận, thương, vui v.v... mỗi mỗi đều có đặc
chất riêng, thế nhưng biên giới rõ ràng của chúng thật khó mà phân biệt
rõ ràng tường tận.
Chính vì những lý do phức
tạp nêu trên nên khi phân loại các PHÁP có rất nhiều điểm bất đồng
giữa các phái bộ Phật Giáo.
2/ Khái niệm
về sự phân loại
Theo lập trường của Thực-tại-luận,
tuy đơn giản nhưng nó đã đưa ra được nguyên lý thỏa đáng về sự
phân loại các PHÁP đó là theo luận Bà Sa, quyển 59 (Ðại Chính, 27, trang
306) và Câu Xá, quyển I, dưới đây chúng ta thử theo đó mà lược khảo vấn
đề phân loại các pháp thử xem sao?
Theo Bà Sa, Câu Xá thì phương
pháp phân loại hàm chứa trong câu: "nhiếp tự tính, ly thật tính";
theo ý nghĩa câu này là xếp chung những yếu tố cùng một tính chất vào
một loại, những yếu tố không cùng tính chất vào một loại khác.
Trường hợp những hiện
tượng hoạt động của tâm tuy có nhiều loại, nhưng đều phát xuất từ
Căn Bản Thức là Thức Thứ Tám, nên thống hợp tất cả những yếu tố
hoạt động đó lại mà gọi là "tâm sở". Tất cả những
hiện tượng vật chất tuy có nhiều nhưng vì đặc chất của chúng là biến
hoại và chất ngại nên có thể gom chung thành "sắc pháp".
Như thế có nghĩa là một mặt thì nhiếp tự loại, nhưng mặt khác là
không hòa nhập với tha loại: Tóm lại đó là quy tắc căn bản của sự
phân loại này.
Cũng theo Bà-Sa luận thì
từ Hữu Bộ trở về sau không hẳn chỉ hạn định trong cách phân loại
"Ngũ Vị" (sắc-pháp, tâm-pháp, tâm-sở, tâm-bất-tương-ương-hành-pháp
và vô-vi-pháp), từ thời đại Phật Giáo nguyên thủy, phương pháp phân loại
vạn hữu như Ngũ-Uẩn, Thập-nhị-xứ, Thập-bát-giới, tất cả đều theo
phương thức này. Có thể nói cách phân loại "tam khoa" này
có tham vọng muốn đặt một nền tảng khoa học trong sự phân loại các
PHÁP.
Ðối với vấn đề THực,
GIẢ, theo Thuyết Già Bộ thì sự phân loại theo "Tam Khoa" (Uẩn, Xứ,
Giới) bất luận loại nào, đó chẳng qua là căn cứ vào sự tiện lợi
mà thôi, vì thế họ cho rằng hết thảy là giả. Theo Kinh-lượng-bộ thì,
sự phân loại Ngũ Uẩn và Thập-nhị-xứ là phương tiện (giả), chỉ có
phân loại theo Thập-bát-giới mới là chân thực. Thế Thân, luận chủ
Câu Xá chủ trương rằng: Thập-nhị-xứ là Thập-bát-giới là chân thực,còn
phân loại theo Ngũ Uẩn lại là giả. Ðối với Hữu Bộ thì sự phân loại
theo Tam Khoa đều là thực cả.
Ðứng trên phương diện
nghiên cứu học vấn thì tất cả những phương pháp phân loại đều có
giá trị nhất định của nó.
3. Nhận xét
về phương pháp phân loại
Trong ý nghĩa phân loại
các pháp theo phương thức Tương Nhiếp nói trên các luận gia của các bộ
phái đã đi từ chỗ cực đơn giản đến chỗ cực phức tạp theo những
phương pháp như sau:
Ngay từ lúc ban đầu, Phật
Giáo chia vạn hữu thành hai loại đó là: hữu-vi-pháp và vô-vi-pháp.
Phật Giáo nguyên thủy đã dùng cách phân loại này, đặc biệt đứng trên
lập trường giá trị đã đề xướng ra hai pháp trên. Về sau A-tỳ-đạt-ma-pháp-yếu-luận
cũng dùng cách phân loại này làm tiêu chuẩn. Theo Câu Xá luận, khi giải
thích về vạn hữu lúc đầu chia thành hai yếu tố Hữu Lậu và Vô Lậu.
Nhưng sau lại chia thành ra Hữu Vi và Vô Vi (Câu Xá luận quyển I). Phương
pháp này đã phát xuất từ những khái niệm kể trên.
Luận chủ Câu Xá, Thế
Thân, sau đó lại chia tất cả các yếu tố cấu tạo vạn hữu thành Nhất-Uẩn,
Nhất-Xứ, Nhất-Giới, là ba khoa (Câu-xá-luận quyển I). Trong Sắc Uẩn bao
gồm tất cả vật chất, trong Ý Xứ gồm thâu tất cả các yếu tố về
tinh thần, và trong pháp-giới bao gồm tất cả các pháp bất-tương-ưng, các
pháp vô vi và những yếu tố tương đương với tinh thần. Tóm lại theo
cách phân loại này vạn hữu được chia thành 3 loại đó là: Vật, Tâm
và Vô Vi.
Trong A-tỳ-đạt-ma-pháp-yếu-luận
(8, 13) cũng đề cập đến cách phân loại này, theo đó, vạn hữu được
chia thành: Danh (tâm), Sắc (vật) và Thi Thiết (không thuộc về Tâm và Vật),
ba loại.
Thời đại Phật Giáo
nguyên thủy đến A-tỳ-đạt-ma Phật Giáo có thuyết Ngũ Uẩn là phổ cập
nhất. Thuyết này chia vạn hữu thành Sắc (vật chất), Thọ (cảm giác, cảm
tình), Tư (biểu tượng), Hành (ý chí) và Thức (ngộ tính, thống giác) tất
cả năm loại. Trong đó chỉ có một loại thuộc về vật chất đó là Sắc,
bốn loại còn lại thuộc về tinh thần.
Còn thuyết "Lục Ðại
Duyên Khởi" tuy không phổ cập như thuyết Ngũ Uẩn nhưng được sánh
giá trị ngang hàng với thuyết Ngũ Uẩn. Thuyết này chia vạn hữu ra làm 6
loại đó là: Ðịa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Trái ngược với thuyết
Ngũ Uẩn, thuyết này chỉ có một yếu tố tinh thần đó là Thức, 5 yếu
tố còn lại đều thuộc về vật chất. Phương pháp phân loại này đã
được nói đến trong A-Hàm Bộ, Ðại-giới-kinh (Ðại Chính, I, trang 723).
Thuyết Ngũ Uẩn tuy được
phổ cập nhưng thiếu phần Vô Vi pháp nên các luận phái đã cho thêm Vô
Vi pháp vào để bổ khuyết cho thuyết này được hoàn bị hơn.
Người được coi như có
công đầu trong việc thêm Vô Vi pháp vào thuyết Ngũ Uẩn phải kể là Ngộ
Nhập, Tôn sư của Thế Thân. Trong Nhập-a-tỳ-đạt-ma-luận, Ngộ Nhập đã
thêm vào Ngũ Uẩn ba pháp Vô Vi là Trạch Diệt vô vi, Phi Trạch Diệt vô vi
và Hư Không vô vi. Ngộ Nhập muốn chia vạn hữu thành tám cú nghĩa (Thiện
thệ chi tông hữu Bát cú nghĩa): 1) Sắc, 2) Thụ, 3) Tưởng, 4) Hành, 5) Thức,
6) Hư Không vô vi, 7) Trạch Diệt vô vi, 8) Phi Trạch Diệt vô vi (Nhập-a-tỳ-đạt-ma-luận
quyển thượng, Ðại Chính 28, trang 980).
Từ nguyên thủy Phật
Giáo đến A-Tỳ-Ðạt-Ma Phật Giáo tuy có nhiều cách phân loại như thế
nhưng chỉ có 3 cách phân loại các Pháp thường được gọi là "Tam
Khoa Phân Loại" tức là Ngũ Uẩn, Thập Nhị Xứ và Thập Bát Giới
được coi là phương thức phân loại tiêu chuẩn mà tất cả các phái bộ
Phật Giáo đều công nhận.
4. Những
phân loại tiêu biểu
A/ Mười
hai xứ
Theo Câu Xá luận quyển
I của Thế Thân thì tất cả các yếu tố cấu tạo thành vạn hữu vũ trụ
được chia thành 12 loại gọi là Thập Nhị Xứ. Ðó là:
Lục Căn Xứ
Lục
Cảnh Xứ
Nhãn căn xứ
Sắc
xứ
Nhĩ căn xứ
Thanh
xứ
Tỷ căn xứ
Hương
xứ
Thiệt căn xứ
Vị
xứ
Thân căn xứ
Xúc
xứ
Ý căn xứ
Pháp
xứ
Sự phân loại này dựa
vào lục cảm và đối tượng của chúng. Theo như bảng liệt kê trên ngũ
căn và đối tượng của chúng đã rõ ràng, nhưng riêng về Ý Căn và đối
tượng của nó là Pháp Xứ hơi phức tạp nên cần giải thích cho rõ hơn.
Ý trong Duy Thức Học là Thức Thứ Sáu đối tượng phân biệt của nó là
các pháp. Sở dĩ ở đây gọi là căn vì nó được xem như là một cơ quan
nhận thức phân biệt đối tượng của nó là pháp. Nói chữ Pháp thì tất
cả các yếu tố cấu tạo vạn hữu đều gọi là Pháp tuy nhiên ở đây
dùng từ Pháp Xứ chỉ để chỉ các pháp Vô Vi, "Tâm bất tương ưng hành
pháp" và những hiện tượng tinh thần khách quan đối tượng của Ý Căn
mà thôi. (Tập A-Hàm quyển 13, Ðại Chính 2, trang 91).
Nói về thể thì tất cả
Thập Nhị Xứ này đều là Pháp cả nhưng tại sao lại lập riêng Pháp Xứ
là đối tượng của Ý Căn chi vậy? Ðể giải thích điểm này xin trích dẫn
Luận Bà Sa quyển 73 (Ðại Chính 27, trang 380) có 11 lý do như sau:
1/ Hữu thí dụ, 2/ Bất
cộng danh vô cố, 3/ Sinh tướng, 4/ Tứ hữu vi tướng, 5/ Danh, cú, văn, thân
duy ư thử xứ nhiếp cố, 6/ Thông sinh chư pháp cố, 7/ Không giải thoát
môn, 8/ Trạch diệt niết bàn, 9/ Như thực giải tuệ, diệc duy nhiếp ư thử
xứ cố, 10/ Nhiếp đa pháp cố, 11/ Ðối ý xứ cố.
Theo luận Câu Xá thì có
ba lý do đó là: 1/ Vị sai biệt tối thắng, 2/ Nhiếp đa, 3/ Tăng thượng
pháp, cố nhất danh Pháp Xứ.
Luận sư của các bộ
phái cho rằng đây là lối phân loại yếu tố cấu tạo vạn hữu hay nhất
và hợp lý nhất.
B/ Mười tám
giới
Ðây là sự khoáng đại
Thập Nhị Xứ mà thành lập ra 18 giới này. Tức là 6 Căn cộng với 6 Cảnh
và 6 Thức thành ra 18 giới:
Nhãn căn giới
Sắc giới
Nhãn thức giới
Nhĩ căn giới
Thanh giới
Nhĩ thức giới
Tỷ căn giới
Hương giới
Tỷ thức giới
Thiệt căn giới
Vị giới
Thiệt
thức giới
Thân căn giới
Xúc giới
Thân thức giới
Ý căn giới
Pháp giới
Ý thức giới
Từ "Pháp Giới"
được giải thích là: "chư pháp vị ý dĩ chính đáng, thị danh
"Pháp Giới" (Tham khảo luận Bà Sa quyển 71, Ðại Chính 27, trang
370).
Giữa Ý Căn Giới và Ý
Thức Giới có biên giới rất khó phân biệt nhưng theo sự giải thích của
các luận sư thì "Ý Căn Giới" là từ dùng để chỉ Tâm ở phương
diện bị động; "Ý Thức Giới" là từ dùng để chỉ sự phán
đoán, suy luận... chỉ hành tướng của Tâm và phương diện chủ động.
Như trên đã trình bày
có 3 cách phân loại về các yếu tố cấu tạo vũ trụ đó là Ngũ Uẩn,
Mười Hai Xứ và Mười Tám Giới còn gọi là Tam Khoa Phân Loại. Ðó là
cách phân loại cơ bản của tất cả các bộ phái Phật Giáo (tham khảo
Bà Sa luận quyển 71, Ðại Chính 27, trang 366).
C/ Hai Mươi
Hai Căn
Ngoài những phân loại kể
trên còn có "Nhị thập nhị căn luận" cũng được các bộ phái
luận cứu tường tận. Theo các luận thư như Tỳ Ba Lăng Già, luận bộ Bắc
Phương, A Tỳ Ðàm luận quyển 5 (Ðại Chính 28, trang 560), Bà Sa quyển 143
(Ðại Chính 27, trang 729), Câu Xá luận quyển 3 - 7... đều có đề cập đến.
Nhị thập nhị căn (hai
mươi hai căn), theo thứ tự trong Câu Xá luận là:
Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ
căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, nữ căn, nam căn, mệnh căn, lạc căn, khổ
căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn, tín căn, cần căn, niệm căn, định căn, tuệ
căn, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn và cụ tri căn.
Theo luận Câu Xá và Bà
Sa thì sáu căn đầu chỉ rõ chỗ y chỉ của tâm. Hai căn "nam",
"nữ" là chỉ rõ sự khác biệt phái tính giữa các loài hữu
tình, "mệnh căn" chỉ rõ căn bản của sinh mệnh. Từ căn này
tính ngược lên là những yếu tố cấu tạo các loài hữu tình, chỉ rõ
những tướng trạng tạp da của những sinh hoạt tình cảm. Những "Căn"
còn lại là chỉ rõ những đạo trình tu dưỡng phải trải qua.
Trước tiên là Ngũ Thụ
Căn liên hệ đến bản thân của loài hữu tình. Sau đó luận chủ nói đến
quá trình tu tịnh để thanh tịnh các căn nên thuyết minh về các căn như
Tín, Cần, Niệm, Ðịnh, Tuệ. Sau cùng luận chủ thuyết minh về 3 căn vô
lậu để thành lập Hai Mươi Hai Căn.
Trong Câu Xá quyển 3 có
bài tụng như sau:
"Tâm sở y, thử biệt,
thử trụ, thử tạp nhiễm, thử tư lương, thử tịnh: do thử lượng lập
căn".
Cũng theo Câu Xá quyển
3, sở dĩ luận chủ thuyết minh ra Hai Mươi Hai Căn là để kiến lập ra
nguyên lý "Lưu Chuyển Hoàn Diệt" trong vạn hữu vũ trụ.
Theo Lân Ký trong Tụng Sớ
thì nói đây là luận thuyết của Pháp Tạng Bộ (Phật Giáo Ðại Hệ Bản
Ðệ Nhất, trang 224). Do đó thuyết này cũng có nhiều luận thuyết khác
nhau. Tuy nhiên nó vẫn có giá trị nhất định về phương pháp phân loại
các Pháp.
D. Ngũ Vị
Khảo sát đến đây ta
thấy sự phân loại các Pháp đã đi đến chỗ phức tạp, tuy nhiên các luận
gia của các bộ phái vẫn chưa thỏa mãn nên họ muốn đi xa hơn để tìm
ra những phân loại hoàn hảo hơn. Trong số đó phải kể là Thế Hữu thuộc
Hữu Bộ đã đề thuyết ra thuyết Ngũ Vị.
Thế Hữu đã ra đời và
khoảng 500 năm sau Phật nhập diệt, đã chia ra những yếu tố cấu tạo vạn
hữu thành ra 5 loại đó là: Sắc, Tâm, Tâm Sở, Tâm Bất Tương Ưng Hành
và Vô Vi.
Sau đây xin trích đoạn
giải thích về Ngũ Vị nói trên trong chương Biện Ngũ Sự trong Phẩm loại
Túc Luận:
"Có năm pháp: 1/ Sắc,
2/ Tâm, 3/ Tâm sở, 4/ Tâm bất tương ưng hành, 5/ Vô vi pháp.
Sắc là gì? là tất
cả những vật có hình sắc và do bốn đạo tạo thành. Bốn đại là: đất,
nước, lửa, gió. Những sắc được hợp tạo là Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ
căn, Thiệt căn, Thân căn, Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và "Vô biểu sắc".
Tâm là gì? Là
tâm, ý, thức. Tâm, ý, thức là gì? Là lục-thức-thân, tứ là nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
Tâm sở pháp là gì?
Là những pháp tương ứng với tâm. Pháp đó là gì? Là: thụ, tưởng, tư,
xúc, tác ý, dục, thắng giải, niệm, định, tuệ, tín, cần, tầm, từ,
phóng dật, thiện căn, bất thiện căn, vô ký căn, nhất thiết kết phược,
thùy miên, tùy phiền não, triền, chư sở hữu trí, chư sở hữu kiến,
chư sở hữu hiện quan... Ngoài ra, tất cả các pháp khác tương ứng với
tâm như thế thì đều gọi là Tâm sở Pháp.
Tâm bất tương ưng hành
là gì? Là những pháp không tương ứng với tâm. Những pháp đó là
gì? Là đắc, vô tưởng định, diệt định, vô tưởng sự, mệnh căn, chúng
đồng phận, y đắc, sự đắc, xứ đắc, sinh, lão, trụ, vô thường tính,
danh thân, cú thân, văn thân. Ngoài ra, tất cả các pháp không tương ứng với
tâm đều gọi là tâm bất tương ứng.
Vô vi là gì? Là ba
vô vi: hư không, phi trạch diệt, trạch diệt".
(Phẩm loại túc luận
quyển I, Ðại Chính 26, trang 692).
Ðó là đoạn văn tuy rất
đơn giản nhưng rất đầy đủ và được xem đó là cách phân loại các
Pháp mẫu mực chẳng những cho Hữu Bộ mà cả đến phái Duy Thức của Ðại
Thừa cũng đã lấy đó làm mẫu mực trong sự phân loại các Pháp về sau.
Trong những bộ luận của
Nam Phương lúc đầu không tìm thấy cách phân loại trên nhưng trong những
bộ luận thuộc thời kỳ sau người ta đã tìm thấy sự phân loại như trên.
Ðó là cách phân loại trong Y-tỳ-đạt-ma-pháp-yếu luận của A Nâu Lâu
Ðà vào khoảng thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 12.
Trong quyển I nói
"Pháp có 4 loại" đó là: 1/ Tâm thức, 2/ Tâm sở, 3/ Thô sắc, tế
sắc, 4/ Niết Bàn (vô vi). Như thế so với thuyết Ngũ Vị của Thế Hữu
thiếu mất "Tâm bất tương ưng hành". Nhưng ở một nơi khác luận
này nói đến "Thi thiết", "khái niệm, "quan niệm. Nếu
đem "tâm bất tương ưng hành" và "nhân duyên pháp" của Hữu
Bộ mà thu tóm vào "Thi thiết", "khái niệm" và "quan niệm"
cùa A-tỳ-đạt-ma-pháp-yếu luận ta có thể nhận xét được rằng sự phân
loại này hoàn toàn giống với sự phân loại Ngũ Vị của Thế Hữu.
Vấn đề ở đây không
phải xét rằng A Nâu Lâu Ðà có ảnh hưởng Thế Hữu hay không mà phải kể
rằng Thế Hữu là người có công đầu trong phương pháp phân loại Ngũ Vị
như đã nói trên. Tuy rằng Ngũ Vị đã được định rõ nhưng chưa có con
số nhất định của các pháp trong Ngũ Vị đó. Ngay cả trong Phẩm Loại
Túc Luận và Ðại Tỳ Bà Sa cũng chưa dứt khoát quyết định thu nhiếp những
Pháp nào vào trong Ngũ Vị. Ðịnh số chủ yếu của Tâm Sở vẫn chưa được
quyết định là bao nhiêu món.
Về sau Duy Thức Học
Phái đã căn cứ vào luận Bà Sa mà liệt kê 100 pháp vào Ngũ Vị.
Ngộ Nhập trong Nhập A Tỳ
Ðạt Ma luận tuy bề ngoài không tỏ ra ảnh hưởng phương pháp phân loại
Ngũ Vị nhưng bên trong đã cho thấy có ảnh hưởng trong lúc liệt kê các
Pháp thành 77 Pháp, tuy thế vẫn chưa có con số nhất định.
Sau đó Câu Xá lại
thành lập ra 75 Pháp liệt kê vào trong Ngũ Vị.
E. Bảy
Mươi Lăm Pháp
Trong Câu
Xá luận có phân ra 75 Pháp như sau:
(1) Vô
Vi Pháp có 3: Hư không vô
vi, Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi.
(2) Hữu
Vi Pháp có 25: chia làm hai loại:
Sắc Pháp có 11 và Tâm bất tương ưng hành có 14 loại.
a) Sắc Pháp có 11 loại: Ngũ căn (nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân); Ngũ cảnh (sắc, thinh, hương, vị, xúc) và nhiều
biểu sắc.
b) Tâm bất tương ưng hành có 14 loại: đắc,
phi đắc, đồng phận, vô tưởng quả, vô tưởng định, diệt tận định,
mệnh căn, sinh, trụ, dị, diệt, danh thân, cú thân, văn thân.
(3) Tâm
Pháp có 1: Tâm vương (Nhãn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức,
a lại da thức).
(4) Tâm
sở hữu Pháp có 46: chia làm 6 loại:
(a) Biến đại địa pháp có 10: Thụ,
tưởng, tư, xúc, dục, tuệ, niệm, tác ý, thắng giải, tam ma địa.
(b) Ðại thiên địa pháp có 10: Tín, cần,
xả, tàm, quý, vô tham, vô sân, bất hại, khinh an, bất phóng dật.
(c) Ðại phiền não địa pháp có 6: Vô minh,
phóng dật, giải đãi, bất tín, hôn trầm, trạo cử.
(d) Ðại bất thiện địa pháp có 2: Vô tàm,
vô quý.
(e) Tiểu phiền não địa pháp có 10: Phẫn,
phú, xan, tật, não, hại, hận, siểm, cuồng, kiêu.
(f) Bất định địa có 8: Ác tác, thùy
miên, tầm, từ, tham, sân, mạn, si.
Nói một
cách nghiêm túc thì trong Câu Xá luận vẫn chưa xác định con số của Bất
định Pháp, trong Tâm sở Hữu Pháp. Ðến Câu Xá Luận Ký của Phổ Quang mới
xác định con số của Bất định Pháp là 8. Ðó là: Ác tác, thùy miên,
tâm, từ, tham, sân, mạn, si. Do đó mà 75 Pháp của Hữu Bộ Tôn được thành
lập.
Sau cùng
là Ngũ Vị với 100 Pháp.
F. Một
Trăm Pháp
Từ những
phương pháp phân loại các Pháp nói trên v2 sự thành lập số mục của
các Pháp, sau đây là 100 Pháp. Ðây là cách phân loại được xem là tận
cùng rốt ráo nhất, làm mẫu mực chẳng những cho Duy Thức Tôn mà các
Tôn phái khác cũng xem đây là cách phân loại hay và tường tận nhất, tiêu
biểu nhất từ đó đến nay.
Trong luận
Ðại Thừa Trăm Pháp của Thế Thân phân chia 100 Pháp thành 5 loại như sau:
(1) Tâm
Pháp có 8: Nhãn thức, Nhĩ
thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt Na thức, A Lại Da
Thức.
(2) Tâm
Sở Hữu Pháp có 51: Phân làm 6 loại:
(a) Biến Hành có 5: Xúc, tác ý, thọ,
tưởng, tư.
(b) Biệt Cảnh có 5: Dục, thắng giải,
niệm, định, huệ.
(c) Thiện có 11: Tín, tàm, quí,
vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại.
(d) Căn Bản Phiền Não có 6: Tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến (ác kiến có 5: thân kiến, biên kiến, tà kiến,
kiến thủ, giới cấm thủ).
(e) Tùy Phiền Não có 20: Chia làm 3 loại:
- Tiểu tùy có 10: Phẫn, hận,
phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu.
- Trung tùy có 2: Vô tàm, vô
quí.
- Ðại Tùy có 8: Trạo cử, hôn
trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh
tri.
(f) Bất định có 4: Hói, miên, tầm,
tư.
(3) Sắc
Pháp có 11 món:
Năm căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn,
thân căn.
Sáu trần: Sắc trần, thinh trần, hương trần, vị
trần, xúc trần, pháp trần.
(4) Tâm
Bất Tương Ưng Hành Pháp có 24: đắc, mạng
căn, chúng đồng phận, di sinh tánh, vô tưởng định, diệt tận định, vô
tướng báo, danh thân, cú thân, văn thân, sanh, trụ, lão, vô thường, lưu
chuyển, định dị, tương ưng, thế tốc, thứ đệ, thời, phương, số, hòa
hợp tánh, bất hòa hợp tánh.
(5)Vô
Vi Pháp có 6: Hư không Vô
Vi, Trạch Diệt Vô Vi, Phi Trạch Diệt Vô Vi, Bất Ðộng Diệt Vô Vi, Tưởng
Thọ Diệt Vô Vi, Chơn Như Vô Vi.
Những phương
pháp phân loại các yếu tố cấu tạo vạn hữu còn gọi các Pháp nêu
trên là những phương pháp phân loại tiêu biểu nhất từ nguyên thủy Phật
Giáo đến ngày nay. Trong Duy Thức Học chủ trương rằng tất cả Pháp đều
do thức biến hiện cả, do đó dù phân loại đến đâu đi chăng nữa thì
các pháp cũng không nằm ngoài sự biểu hiện của Căn Bản Thức .
(còn
tiêp)
Trình bày: Nhị Tường