- Buddhism Into The Year 2000. Internation
Conference Proceedings. Bangkok and Los Angeles. The Dhammakaya Foundation, 1994. 345p.
Reviewed by Martin Baumann, University of Hannover, Germany.
- Người đọc: Phật-Điển Hành-Tư
Năm 1990, Dhammakaya Foundation (Hiệp hội
Pháp thân) tổ chức một đại hội quốc tế tại Bangkok (Thái Lan), với sự
tham dự của hơn tám trăm Phật học gia và học giả về Phật học và Á
châu học khắp nơi trên thế giới. Dhammakaya Foundation là một tổ chức Phật
giáo bất vụ lợi, sáng lập từ năm 1970, do ảnh hưởng của Đại sư cấp
tiến "Buddhadassa" với chủ trương hiện đại và thực tiễn hóa
đạo Phật qua những nhận định rất cách mạng đối với truyền thống
Phật giáo Thái Lan cổ kính và quá truyền thống. Tư tưởng của Đại sư
tuy bị các trưởng lão trong Giáo hội (Hoàng gia) Thái Lan chỉ trích nhưng
rất có ảnh hưởng sâu rộng trong Tăng đoàn, nhất là các Tăng sĩ trẻ và
có học thức, nên phong trào chấn hưng này qua đầu thập niện 1980 đã
có tầm vóc sâu rộng khắp thế giới, cho nên khi Dhammakaya Foundation phát
động sáng kiến tổ chức một đại hội quốc tế để chuẩn bị hành
trang tư tưởngg cho Phật giáo bước vào thiên niên kỷ thứ III, thì được
sự ủng hộ và tham dự hùng hậu của một số rất đông học giả nổi
tiếng như giáo sư Yuyama Akira (Thang Sơn Minh, nguyên là giáo sư Sanskrit tại
Australian National University và bổn sư truyền giới tông Thiên Thai cho người
đọc này), Lane S. Cousins, Lambert Schmithausen, v.v… Cùng với hình ảnh các vị
Tăng đắp y vàng rực rỡ và các cư sĩ trong áo trắng tinh khiết ngồi
thành trăm ngàn hàng trong tư thế thiền tĩnh lặng. Dhammakaya Foundation đã
tạo nên một tư thế phối hợp cả hai pháp học và pháp hành thành một
phong trào chấn hưng Phật giáo đáng kể, qua sự hưởng ứng nồng nhiệt
khi tổ chức một đại hội quốc tế để đi tìm một hướng đi cho Phật
giáo trước ngưỡng cửa thế kỷ 21 này. Kết quả của kỳ đại hội tổ
chức vào năm 1990 là một tập thành các tiểu luận thuyết trình trong kỳ
đại hội, với tựa đề giản dị là Buddhism in the year 2000, mà hiện
tại, những ý kiến trong các bài thuyết trình này vẫn còn có giá trị
cho trọn thiên niên kỷ thứ III.
Mục đích của kỳ đại hội này
là, ngoài sự xiển dương một cuộc hòa hợp và thông hiểu giữa các truyền
thống, còn là để kiểm điểm hiện trạng của Phật giáo trên toàn thế
giới về tất cả mọi phương diện để tìm một hướng đi cho Phật giáo
trong tương lai. Do đó, tổng hợp các tiểu luận đã thuyết trình, gồm 21
bài, được xếp thành 3 phần: 1) Lịch sử khởi nguyên và phát triển của
đạo Phật; 2) Những vấn đề hiện đại; 3) Tương lai của Phật giáo.
Phần 1, về lịch sử khởi nguyên
và phát triển của Phật giáo, gồm 5 bài nghiên cứu từ ba trường phái tư
tưởng thời Nguyên thủy, với Lane S. Cousins bàn về quan niệm con người
trong tương quan với "ngã"; Alexis Sanderson giải thích triết thuyết
của phái Nhất thiết hữu về Nghiệp và những chỉ trích về thuyết này
của phái Kinh lượng bộ; trong khi đó, Lambert Schmithausen lại đặt vấn đề,
dựa trên các triết thuyết nguyên thủy, là các thảo mộc có sự sống
hay không, có nghĩa là cũng được xem như là chúng hữu tình hay không.
Shohei Ichimura đề nghị một phương cách "biện chứng mới" cho
Trung Luận (Madhyamaka) và Long Thọ (Nàgàrjuna) để đi tìm một giải pháp
cho việc thua cuộc logic vì đã không thể phân biệt rõ ràng giữa quan niệm
về "pháp" (trans-empirical dharma) và "ngã" (empirical pudgala).
Trong khi đó, Sanderson cho là những nghi lễ huyền bí của Kim Cang thừa
(Vajrayàna) đều là chịu ảnh hưởng của việc thờ thần Shiva của Ấn
Độ giáo.
Phần 2 đề cập đến hiện trạng
Phật giáo trên toàn thế giới, nhưng lại vấp phải nhiều khuyết điểm
lớn. Tám bài thuyết trình về hiện tình Phật giáo tại Nam Á châu, Nhật
Bản, Pháp, Anh, Hòa Lan, và Nam Mỹ, Mã Lai và Singapore, nhưng lạ lùng thay,
lại không có một thuyết trình nào về nền Phật giáo tại Hoa Kỳ và Đức
quốc, là hai nơi mà các thành quả về Phật học, có giá trị nghiên cứu,
hay làm luận án tiến sĩ tại các đại học lớn, đã vững vàng thiết lập
đạo Phật thành một môn học ngang hàng với tất cả các môn học khoa học
khác trên bậc đại học. Các bài thuyết trình cũng chỉ lược bày về lịch
sử phát triển của đạo Phật tại các địa phương nêu trên, ngoài hai
bài xuất sắc của Cousins viết về Phật giáo Nguyên thủy tại Anh quốc,
(do Thiền sư Ajahn Sumedho, gốc người Mỹ theo tu dòng Ajahn Chah, có công hoằng
hóa), và bài của R. H. C Jannsen về Phật giáo tại Hòa Lan. Bài của A. de
Hoyos về sự hiện diện của Phật giáo tại Nam Mỹ - La tinh có thể nói
là một phát hiện mới lạ, nhưng thật ra nếu ta biết rằng vùng đất này
là nơi định cư của rất đông người Nhật hàng trăm năm nay thì chẳng
có gì lấy làm ngạc nhiên lắm, tuy đây cũng là một dịp lớn để các học
giả không còn bỏ quên sinh hoạt Phật giáo tại nơi đây nữa. Thêm vào
đó, tập thuyết trình này cũng không có các bài nói về hiện trạng Phật
giáo tại Trung Quốc, Tây Tạng, Ấn Độ, và Tích Lan. Có phải chăng vì những
vùng này đã phát triển quá lâu cho nên phát sinh ra nhiều dữ kiện và sự
kiện mâu thuẫn nhau, nhất là về phương diện chính trị, cho nên đã
không được thu nhập vào trong tập này ? Nếu thế, thì quả là một khuyết
điểm lớn lao đối với những công trình hoằng pháp gần đây của các vị
sư nổi danh thuộc các quốc gia này, như Đạt lai Lạt ma, hay H. Gunaratana
(Tích Lan), v.v…
Phần III, về tương lai của Phật
giáo trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, các trang 171-260, gồm 7 bài. Đề tài
bao quát, từ sự đóng góp của Phật giáo vào công cuộc đối thoại liên
tôn trong bài của A. Guruge, những liên hệ hiển nhiên của Phật giáo qua
chứng cớ khoa học và kỹ thuật của J. Martin, cho đến sự quan trọng của
nền giáo dục Phật giáo đối với đạo Hiếu qua bài của H. Sure. Trong
khi L. Schmithausen trình bày thật thâm sâu nhưng cũng thật dễ hiểu về ảnh
hưởng rộng lớn của Phật giáo trước vấn đề quan thiết nhất của thời
đại là môi sinh, thì bài của giáo sư A. Yuyama lại càng quan trọng hơn và
đáng được nhắc đến. Tuy Phật giáo đã được học giới Âu-Mỹ đặc
biệt nghiên cứu gần trăm năm nay - các kinh điển, ngữ lục, v.v…, hầu
như đều đã được dịch, và dịch rất đúng, ra các ngôn ngữ Tây phương
- nhưng hình như vẫn chưa có một chú ý quan thiết nào về một bộ môn
ngôn ngữ học cho sự nghiên cứu chuyên về Phật học cả. Do đó, Yuyama
đã tỉ mỉ nêu lên các ngữ từ Phật học khi được dịch sang Tây phương
ngữ. Từ đó, giáo sư thiết lập một hệ thống, trong khuôn khổ diễn tiến
của ngôn ngữ học Phật giáo, từng bước một để học tập bộ môn
này; như thế cũng có nghĩa là, để trở thành một học giả Phật giáo,
hay một Phật học gia, đương sự cần phải có một căn bản kiến thức
quảng bác về ngôn ngữ, trước tiên là Phạn ngữ và Pàli, tiếp đến là
Hán, Nhật, Tây Tạng ngữ, rồi Pháp, Anh, Đức ngữ, và một số các ngôn
ngữ khác như Prakrit, và nhất là chữ Nôm, v.v…, để có thể nghiêm túc
phiên dịch hay tập thành (edit) một bản kinh văn đúng trách nhiệm.
Một bài khác của A. Guruge viết về
Phật giáo tại Âu châu trong thế kỷ 21, kêu gọi một sống chung hòa hợp
giữa Phật tử Á châu định cư và Phật tử Âu châu mới theo đạo mà xưa
nay vẫn sống biệt lập nhay. Tuy lời kêu gọi của Guruge đúng thời đúng
nơi, nhưng ông lại sai lầm khi đề nghị là Âu châu rất cần và đang tìm
kiếm một nhân vật có hấp lực lãnh đạo (charisma), uy dũng và có tài
hùng biện để có thể điều khiển và quy tụ mọi truyền thống Phật
giáo tại Âu châu về một mối. Đây quả là một đề nghị không chỉ
sai lầm mà còn là ảo tưởng, bởi vì ngay từ thời Đức Phật, đã
không có vấn đề lãnh tụ hay lãnh đạo, mà chỉ có hành giả chuyên trì
giới luật để tự giải thoát mà thôi. Phật tử có thể quy tập về một
đại sư, một thiền sư, một lạt ma, xem họ như vị cao tăng xứng đáng
được cúng dường và theo học chánh pháp, nhưng cũng không vì thế mà
tôn sùng cá nhân của vị đó. Cũng chỉ vì Tây phương quá tôn sùng thần
tượng cá nhân, cho nên trong mấy thập niên qua, đã có biết bao nhiêu
phong trào cuồng tín (religious cults) xuất hiện, lợi dụng sức quyến rũ của
người đầu đảng để lường gạt đức tin của những người đang tìm
kiém những giáo lý mới lạ bên ngoài giáo lý truyền thống Tây phương của
họ. Kết quả là đã có bao nhiêu tên tuổi nổi danh như cồn một thời rồi
cũng lặng lẽ lui vào quên lãng, người "lãnh đạo" tự mang theo
bao nhiêu nghiệp lực đã tạo tác trong nhất thời danh hão của họ.
Bài của H. Bechert về "Tân tiến
hóa Phật giáo" ("Buddhist Modernism"), một từ do chính Bechert đề
nghị đầu thập niên của Phật giáo trong 3 thập niên qua, và những khuynh
hướng mới cho tương lai Phật giáo; theo đó, ông nhắc đến những sinh hoạt
bảo vệ môi sinh và thiên nhiên, những mời gọi trở về với lối sống
đầu đà và giản dị thoát ngoài khuôn khổ của những thanh quy tu viện
gò bó, một lý tưởng tu hành của những vị sư khổ hạnh trong rừng
(forest monks) và những tranh thủ để thiết lập lại Tỳ kheo ni bộ cho
truyền thống Nguyên thủy và Tây Tạng.
Nội dung bài này của Bechert, cũng
như của Cousins, Sanderson, Schmithausen và Yuyama, tuy đã mười năm trước,
nhưng vẫn còn có thể gây hứng thú và áp dụng để đưa Phật giáo đi vào
thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ thứ III, mà một năm đã qua rồi, những
vấn đề nêu lên cũng vẫn còn chưa được giải quyết thỏa đáng. Trong
lúc đó, bao nhiêu vấn đề khác cũng đang chờ đợi Phật giáo chuyển
mình, như dấn thân nhập thể (xã hội hóa Phật giáo), đạo đức và
trách nhiệm cá nhân, hay thông tin điện tử, v.v…
Sách in đẹp và trình bày thẩm mỹ,
gồm nhiều hình ảnh đáng ghi nhớ trong kỳ đại hội, một chương giới
thiệu tiểu sử các thuyết trình viên, và một sách dẫn về các tiêu đề
và nhân danh, cho thấy Dhammakaya Foundation quả đã trưởng thành và đủ khả
năng để tổ chức một đại hội quốc tế thành công như thế.
Tại Mỹ, gần đây cũng có những
vận động để truyền giới Tỳ kheo ni cho truyền thống Nam tông. Các vị
chức sắc của Phật giáo Nguyên thủy Việt nam, Tích Lan và Thái Lan tán
thành và vận động cho khuynh hướng này. Lý do: a/ Nếu Tăng có thể truyền
giới cho Tăng, tại sao không thể trực tiếp truyền giới cho Ni (lần đầu
tiên, sau một thời Ni bộ bị đứt đoạn đã ngàn năm). b/ Trong Luật, có
giới cấm không cho Tăng và Ni trao đổi y cho nhau, có nghĩa vào thời Đức
Phật, Tăng và Ni cùng đắp một thứ y (vàng hay hoại sắc), không phân biệt
như ngày nay, tại Thái Lan, Ni chúng (8 giới) đắp y trắng, hay tại Việt
Na, y hồng lợt. Riêng các đại sư Miến Điện phản đối vận động này,
cho rằng các phụ nữ Âu-Mỹ tu theo Nguyên thủy hay Tây Tạng mà vận động
để được truyền giới Tỳ kheo ni chẳng qua là có ý muốn tranh chấp
giáo quyền mà thôi, không hiểu rõ ý nghĩa cao thượng của giới luật Phật
giáo. Riêng Đức Đạt lai Lạt ma cũng muốn thiết lập lại Tỳ kheo ni bộ
cho truyền thống Tây Tạng. (Viết theo giáo sư Martin Baumann, University of
Hannover, Đức quốc).
(Trích Nguyệt San GIÁC NGỘ số 58)
http://www.buddhismtoday.com/viet/diemsach/015-phatdienhanhtu-Buddhism.htm