...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Vài nhận định về cuốn:
- Từ Áo Cà Sa Đến Thập Tự Giá
- Trần Chung Ngọc
-
Cuốn "Từ Áo Cà Sa Đến Thập Tự Giá"
của Huệ Nhật là một cuốn hồi ký khá đặc biệt, đặc biệt ở
chỗ trong đó chẳng có gì có thể gọi là đặc biệt cả. Vì nội
dung cuốn sách, ngoài những chi tiết về đời tư của tác giả mà
độc giả khó có thể kiểm chứng và thường không mấy quan tâm,
là Tố Cộng nhiều khi phóng đại đến độ buồn cười, và quảng
cáo cho một đức tin không cần biết, không cần hiểu: đức tin về
ơn "cứu rỗi" của Thiên Chúa.
Đọc tên cuốn sách và tiểu sử của tác giả ở
trang bìa sau: "xuất gia theo Phật Giáo rồi cởi áo cà sa về lấy
trước sau hai vợ, sau đó nghiên cứu Thánh Kinh và trở thành "môn
đồ (sic) của Chúa trong giáo phái Tin Lành", tôi hi vọng
tác giả sẽ trình bày và so sánh giáo lý Phật Giáo với giáo lý
Tin Lành, nếu trong Tin Lành có giáo lýù, và chứng minh rằng giáo
lý Tin Lành hay hơn giáo lý Phật Giáo cho nên tác giả đã đi đến
quyết định từ bỏ đạo của trí tuệ để theo đạo của đức tin.
Nhưng tôi cảm thấy hoàn toàn thất vọng vì không thể nào tìm thấy
trong cuốn sách trên những điều mà tôi mong muốn ngoài điều khẳng
định của tác giả: "Đức tin của anh được hình thành nhờ
đọc Kinh Thánh (trg.21)", hoặc "Thánh Kinh dạy thế này,
Thánh Kinh dạy thế nọ" v..v.. làm như những lời trong Thánh Kinh
tất nhiên phải là những lời mạc khải của Thiên Chúa, không thể
sai lầm, trong khi các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh, ở trong cũng
như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, đã chứng minh rằng trong Thánh
Kinh có nhiều sai lầm về thần học cũng như khoa học. Chẳng vậy mà
khoa học gia Ira Cardiff đã nhận định như sau: "Nếu một người
thông minh đọc toàn bộ cuốn Thánh Kinh với một óc phê phán thì
chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi." (If an intelligent man should
critically read it (the Bible) all, he would certainly reject it). Tại sao Ira Cardiff
lại có thể đưa ra một nhận định như vậy về cuốn Thánh Kinh mà
các tín đồ Tin Lành tuyệt đối tin rằng đó là những lời của
Thượng đế? Tôi đã trình bày một phần nhỏ lý do trong cuốn Công
Giáo Chính Sử, Chương V, Giao Điểm tái bản, 2000, qua những tài
liệu của học giả Lloyd Graham, tiến sĩ William Harwood, bác sĩ Nguyễn
Văn Thọ, Hội nghiên cứu nhân vật Giê-su (The Jesus Seminar) gồm từ
50 đến 300 học giả, chuyên gia, giáo sư đại học cùng một số các
bậc lãnh đạo trong các giáo hội Ki Tô, giáo sư đại học David Voas,
Linh mục Ernie Bringas, Đại Tá Robert G. Ingersoll, và Ruth Hurmence Green, một
tín đồ Ca-Tô, cho nên tôi không nhắc lại ở đây nữa.
Cấu trúc của cuốn "Từ Áo Cà Sa Đến Thập
Tự Giá" được xây dựng trên một bức thư mà tác giả
viết là của một người em ở Oklahoma City gửi cho tác giả, và nội
dung cuốn sách là phần trả lời của tác giả trên từng điểm một
trong bức thư đó. Tôi nghĩ rằng tác giả bức thư và tác giả
phần trả lời chỉ là một. Điều này có thể nhận thấy dễ dàng.
Vì nội dung của bức thư cũng như của phần trả lời chủ yếu không
ngoài việc tự đánh bóng và biện minh cho những biến chuyển tâm
linh của tác giả, để quảng cáo cho một "Hồng Ân Thiên
Chúa", và nhất là để Tố Cộng. Tôi không có ý định phê
bình cuốn sách của Huệ Nhật cho nên sau đây tôi chỉ đưa ra vài
nhận định tổng quát.
Nếu chúng ta có thể tin được những điều tác giả
viết trong cuốn "Từ Áo Cà Sa Đến Thập Tự Giá" thì
tác giả quả là người rất đáng thương. Tôi có cảm tưởng cuộc
đời của tác giả chứa đầy bất mãn, sinh bất phùng thời vì
không ai biết đến tài ba của tác giả tuy tác giả không hề cho
biết có những tài gì, lại luôn luôn gặp phải nghịch cảnh khiến
cho tác giả bị khủng khoảng tinh thần để cuối cùng đi tìm sự an
ủi trong một niềm tin vào "ơn cứu rỗi" của Giê-su mà Linh
mục Ernie Bringas gọi là một cái bánh vẽ trên trời (A Pie-In-The-Sky).
Thật vậy, cuộc đời tác giả kể trong cuốn sách có
thể tóm tắt như sau: sinh năm 1945, vào Chùa tu năm 14 tuổi (1959), lên
chức đại đức năm 23 tuổi (1968), nhưng thấy một số tu sĩ trong
Phật Giáo không tu như mình tưởng nên bỏ tu (nghĩa là người ta có
tu thì mình mới tu), về lấy vợ, nhưng bị "một người bạn
đang làm đại đức đến nhà ngủ ké với vợ" (trang 74),
hận đời, sau 1975 bị chính quyền bắt giam mười mấy tháng, lấy
người vợ thứ hai (không thấy nói đã ly dị vợ trước chưa) là
một "trùm công an chìm cho CS", người vợ này lại "lang
chạ với những tay đàn ông khác" (trang 80), hận đời, đọc
Thánh Kinh và tin Chúa, đi kiếm sự hiện diện của Chúa trong nhiều
"hội thánh" khác nhau, kể cả hội thánh Ca-Tô, cuối cùng
chọn Chúa Tin Lành. Đó là vắn tắt câu chuyện "Từ Áo Cà
Sa Đến Thập Tự Giá" của Huệ Nhật. Những chi tiết xung quanh
câu chuyện này có thể làm cho độc giả nhức đầu vì phải vận
dụng trí óc để hiểu tác giả muốn nói gì, và phì cười vì có
những lý luận đến Tây cũng phải cười, khoan kể đến những mâu
thuẫn đầy dẫy trong cuốn sách. Lẽ dĩ nhiên, trong khuôn khổ một
bài báo, tôi không thể trích dẫn tất cả những đoạn mà tôi
muốn trích dẫn, cho nên, sau đây tôi chỉ trích ra một số câu điển
hình rải rác trong cuốn sách kèm theo lời nhận xét ngắn của tôi.
Xin để cho quý độc giả tự mình suy nghĩ và đánh giá sau khi đọc
xong những đoạn này. Phần chữ nghiêng là của Huệ Nhật, con
số để trong dấu ngoặc là số trang trong cuốn sách của Huệ Nhật.
- "Ông Trời là Thiên Chúa. Thờ Chúa tức là thờ Trời"
(22): Hôm nay Trời (Chúa) xấu quá. Kiều: Xưa nay nhân (người) định
thắng Thiên (Chúa) cũng nhiều. Ông Trời (Chúa) thật là bất công,
người tốt như Huệ Nhật mà cuộc đời lại đầy những bất hạnh
v..v.. Vậy thờ Trời (Chúa) để làm gì?
- Theo Kinh Thánh, giáo hội là Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Cứu
Thế (23):
Ca-Tô giáo tự nhận như vậy, Tin Lành không. Tín đồ
Ca-Tô là nô lệ của giáo hội, giáo hoàng. Tín đồ Tin Lành là nô
lệ của Thánh Kinh.
- Chúa yêu tất cả con người, và tình yêu Ngài đến với từng
người một, dù con người gian ác tới đâu Ngài cũng yêu và
muốn dắt dìu con người ra khỏi sự ác. Cái thâm sâu của Đạo
Chúa đối với anh là tình yêu của Thượng đế trong Chúa Jesus
Christ..
(22): Huệ Nhật chưa đọc Thánh Kinh, Chúa phán: Luke 19:27: "Hãy
mang những kẻ thù của ta ra đây, những người không muốn Ta ngự
trị trên chúng, và giết chúng ngay trước mắt ta."; Matthew
23:33: "Ngươi là loài rắn, ngươi là thế hệ của những rắn
độc, làm sao các ngươi thoát khỏi hỏa ngục". Tình yêu của
Chúa??
- Đức Chúa Trời dựng nên địa ngục cho người ham thích sự ác.
(281): Ủa! tôi cứ tưởng là "dù con người gian ác tới
đâu Ngài cũng yêu" (Xin đọc câu số 3 ở trên).
- Tại sao miền Nam Việt Nam có hai ông tổng thống chống cộng theo đạo
Thiên Chúa do dân bầu lên, trong khi 80% dân chúng không theo đạo
Chúa?
(27): Mỹ dựng lên chứ dân nào bầu? Những cuộc bầu cử
trong thời Diệm và Thiệu chỉ là những trò hề đối với dư luận
quốc tế.
- Mục đích sau cùng của người theo Chúa là được cứu rỗi linh
hồn vĩnh viễn sau khi lìa đời.
(28): Phật Giáo cũng như khoa học
ngày nay đã dứt khoát bác bỏ quan niệm về linh hồn của Ki Tô
Giáo.
- Giáo hội nhận lỗi thành thật là một cách làm sáng danh Chúa
(33):
Vậy thì càng làm nhiều lỗi, càng nhận lỗi nhiều lần, càng làm
sáng danh Chúa? John Paul II làm sáng danh Chúa nhiều nhất.
- Em là một Phật tử, em tin rằng nơi ở cuối cùng ở đời sau của
linh hồn em là nơi Hoa Khai Kiến Phật Ngộ Vô Sanh, hoặc cao siêu hơn
nữa là Nơi Không Có Nơi Nào (Chơn Không Diệu Hữu);
còn anh
là một con chiên, anh tin rằng nơi ở cuối cùng của linh hồn anh là
Thiên Đàng (34): Phật tử không có tin nhảm nhí như vậy, vì
PG không công nhận thuyết linh hồn của Ki Tô Giáo, cho đó là vô
nghĩa, không có căn bản thuyết phục. Chân Không Diệu Hữu không
phải là Nơi Không Có Nơi Nào. Thiên Đàng nào, ở đâu? John Paul II
tuyên bố: Không làm gì có Thiên Đàng ở trên các tầng mây.
- Chúa Jesus không thêm cho thế giới một tôn giáo, nhưng Ngài đem Ơn
Cứu Độ (Rỗi) của Đấng dựng nên trời và đất, điều mà chưa
có tôn giáo nào đem đến cho nhân loại.
(35): Hiện nay, trên 4 tỷ
người trên thế giới coi Ơn Cứu Rỗi của Đấng dựng nên trời
đất là cái bánh vẽ trên trời vì một lẽ rất giản dị là chẳng
có Đấng nào dựng nên trời đất, chẳng làm gì có chuyện
"nguyên tội" cho nên chẳng cần gì đến Ơn Cứu Rỗi. Cái mà
đa số nhân loại không cần thì các tôn giáo khác đem đến để
làm gì?
- Thượng đế vẫn yêu dân tộc Việt Nam nên ngài thực hiện chương
trình cứu rỗi của Ngài cho dân tộc chúng ta qua những con người
dám thí mạng đi theo Ngài như con trẻ ấy
(tín đồ Tin Lành tân
tòng. TCN) Khi Thượng đế đã làm phép lạ để cứu dân tộc
Việt Nam ra khỏi xiềng xích cộng sản thì không ai ngăn cản ý định
của Ngài được. (68): Ngài đã thực hiện chương trình cứu rỗi
trên cho dân Việt Nam từ hơn 400 năm nay rồi, nhưng hơn 90% dân Việt
Nam vẫn chẳng cần để ý đến chương trình cứu rỗi của Ngài. Rút
cuộc, Ngài đã theo gót những đoàn quân viễn chinh Pháp, rồi Mỹ,
trở về nước. Một câu hỏi được đặt ra là, nếu Ngài vẫn yêu
dân tộc Việt Nam và Ngài là bậc Toàn Năng thì sao Ngài lại để
cho CS thắng? Phải chăng để cho CS thắng mới chính là tình yêu của
Ngài đối với dân tộc Việt Nam. Ai biết ý định của Ngài ra sao, xin
lên tiếng. Không có một chế độ nào tồn tại mãi mãi: quan nhất
thời, dân vạn đại. "Tiên đoán" CS sẽ sụp đổ là một
lời "tiên tri" thể nào cũng thành sự thực. Nhưng bảo đó
là do phép lạ của Thượng đế thì là viết bậy. 26 năm qua,
Thượng đế ở đâu, sao không làm phép lạ?
- Hết tù, anh đọc Kinh Thánh, tin Chúa; nên bị thằng em ruột đã
từng cởi áo cà sa ra làm công an tôn giáo kềm kẹp sát bệ
sườn. Lại bị người anh ruột được Cộng Sản đào tạo thành vô
thần nhà nòi, dựa vào thế lực của Cộng Sản để sang đoạt ngôi
nhà mà vợ chồng anh đang ở. Sang đoạt nhà của anh không được,
ông anh ruột ấy trả thù bằng cách tổ chức một cuộc gây lộn
để chưởi bới đạo Chúa rồi sang thằng con trai của anh ấy phang
lên đầu anh những cú đấm thượng thừa.. Đây là một bằng
chứng trực tiếp về tội ác Cộng Sản xảy ra trong gia đình anh.
(74):
Thật đúng là một nhà vô phúc, nhưng chống Cộng kiểu này thì
đến Tết Congo CS mới sụp đổ. Đành phải nằm há miệng chờ sung
phép lạ của Thượng đế mà thôi. Ở Mỹ có những gia đình xảy
ra chuyện con giết bố mẹ, bố mẹ giết con v..v.. Phải chăng đó là
bằng chứng về tội ác của "Tự Do Dân Chủ" xảy ra trong gia
đình họ?
- Cũng như việc anh lập lại gia đình một lần nữa, nhưng lại gặp
một bà vợ làm trùm công an chìm cho Cộng Sản. Chính bà vợ này
ký giấy trục xuất anh ra khỏi thành phố Saigon, vì anh không chấp
nhận cùng bà ta làm việc cho CS.
(75): Công an chìm có quyền ký
giấy trục xuất một người dân ra khỏi Saigon?
- Cộng Sản đã phá tan tình chồng nghĩa vợ của gia đình anh, chúng
xúi bà vợ "tài ba" của anh ăn cắp đứa con trốn ra nước
ngoài làm công tác kiều vận trong giới Tin Lành.
(75): Bà vợ
quý này là cán bộ của CS, nếu có đi ra nước ngoài làm công
tác kiều vận thì là do CS gửi đi chứ không phải là đi trốn.
- Sau thời gian bị Cộng Sản bỏ tù, anh trở về đạp xích lô giữa
Saigon buồn bã.
(275): Thật là tội nghiệp cho Huệ Nhật.
- (Trong thư của người em tên Thúc): Hơn nữa ngày trước anh bị mất
nhà ở Nhà Bè và xe cộ, rồi anh lại được nhà ở Chợ Lớn
L N Học. Rồi không thích Chợ Lớn về Vạn Kiếp, có gì không
thỏa mãn mà than vãn, mất xe tựu lại ba chiếc trên 250cc, Vespa, Honda
đều có cả, chiếc đi, chiếc xơ cua. (85):
Tôi cũng muốn về Việt
Nam đạp xích lô cho rồi, nhưng đây chỉ là những lời tự khoe.
- Vì yêu con, anh đã yểm trợ cho cả hai mẹ con ngót 4500 đô la từ
Việt Nam gởi ngược qua Thái Lan và Mỹ trong khi mình rất nghèo và
phải gánh một đống nợ do mẹ nó quỵt bạn bè và cả ngân hàng
quận I, Saigon.
(233): 4500 đô la tương đương với 63 triệu đồng
tiền Việt Nam, tính theo hối xuất 1 đô la ăn 14000 đồng Việt Nam (bây
giờ vào khoảng 15000 đồng). Huệ Nhật có nghề nghiệp (đạp xích
lô), có nhà ở Chợ Lớn nhưng chê, về Vạn Kiếp ở, có 3 xe gắn
máy đủ loại, và có 4500 đô la gửi cho con ở Mỹ. Xã hội CS
đúng là một thiên đường hạ giới. Sao Huệ Nhật lại phải trốn
đi Đức trong khi Passport đã bị tịch thu (231).
- Vì Kinh Thánh dạy rằng Thượng đế dựng nên con người bằng hình
ảnh giống như Ngài.
(137): Nhìn hình ảnh Ngài qua những em bé chỉ
còn trơ bộ xương ở Rwanda, Ethiopia v..v.. tôi thấy Ngài quả là quá
xấu trai và xấu luôn cả tâm địa.
- Việc anh thoát khỏi Việt Nam là một phép lạ rất lớn đối với
cuộc đời anh. (149):
Đúng là một phép lạ khi Passport đã bị tịch
thu. Thiên Chúa đã cấp cho một Passport khác.
- Nếu anh đã không chí thành tu niệm trong Phật Giáo thì chắc chắn
anh cũng không thể chí thành trong sự tìm kiếm Ân Hồng Cứu Chuộc
của Chúa đâu. (161):
Chí thành tu niệm rồi bỏ áo cà sa, chí
thành tìm kiếm Ân Hồng Cứu Chuộc của Chúa rồi cũng đến bỏ
Chúa mà thôi.
- Theo anh hiểu, Đạo Phật Việt Nam không phản ảnh tất cả những gì
của Đức Thích Ca dạy. (161):
Vậy là Huệ Nhật đã biết và hiểu
tất cả những gì Đức Thích Ca dạy? Không hiểu Huệ Nhật đã đọc
bài Kinh Đức Phật thuyết cho dân Kalama chưa?
- Khi có dịp đọc Thánh Kinh, anh giật mình nghe Chúa Jesus nói Hỡi Cha
là Chúa của trời đất, tôi khen ngợi Cha, vì Cha đã che dấu những
điều này đối với kẻ khôn ngoan, người sáng dạ; mà tỏ ra cho
những con trẻ hay (Mathêu 11:25). Người khôn ngoan thông thái rất khó
mà có được tấm lòng tin kính như con trẻ
. (177): Con trẻ,
về thể chất cũng như tinh thần , đều chưa phát triển và trưởng
thành, chưa có đủ khả năng suy nghĩ để phân biệt thật hay giả,
đúng hay sai, cho nên ai nói gì cũng tin và hay làm theo, bắt chước.
Hiển nhiên là Chúa rất thành công với những người đầu óc như
của con trẻ, còn đối với những người thông thái sáng dạ hay ít
ra là có đôi chút đầu óc suy nghĩ thì Ngài lại hoàn toàn thất
bại. Chúa cũng còn thành công với những người đầu óc bấn
loạn, khủng khoảng tinh thần, cần bám vào một cặp nạng thần quyền
để lê lết trong cuộc đời.
- Cộng Sản thấy anh tin Chúa, bèn rình mò, dọa nạt, bắt bớ, hỏi
cung.
(192): Việt Nam có khoảng 4-5 triệu người tin Chúa. CS cần ít
ra là 10 triệu nhân viên để hoàn thành công tác rình mò, dọa
nạt, bắt bớ, hỏi cung này?
- Kinh Thánh dạy rằng chỉ có một Đức Chúa Trời là Đấng xét
đoán, là Đấng tha tội, là Đấng cứu rỗi, là Đấng ban phước,
là Đấng tái sinh linh hồn con người.
(197): Kinh Thánh dạy cho ai? Ai
tin? Có ai biết Chúa Trời là ai đâu? Xin đọc bài Giê-su Là Ai
trong số Giao Điểm này.
- Theo anh, Thượng đế là Đấng nhân lành tuyệt đối.
Satan là
biểu tượng cho cái ác tuyệt đối. (198): Ai tạo ra Satan? Thượng
đế. Nhân tạo ra quả. Quả là Satan. Nhân là Thượng đế.
- Có bài thơ Diệt Ngã như sau.
(199): Ngã ở đâu mà diệt?
- Anh thấy được nỗi đau của Thiên Chúa trên thập tự giá khi
Ngài bị loài người đóng đinh để Ngài chết thay cho tội ác của
họ.
(239): Nếu Ngài "bị" loài người đóng đinh thì đó
không phải là ý nguyện của Ngài mà là ý nguyện của loài
người. Vì thế Ngài mới đau đớn và than khóc, trước khi chết: Chúa
tôi ơi! Chúa tôi ơi! Sao Người lìa bỏ tôi? (Matthew 27 & Mark
15).
- Người ta tưởng rằng Ơn Cứu Rỗi của Thượng đế cũng chỉ là
một thứ tôn giáo do con người nghĩ ra.
(259): Chẳng phải là
tưởng mà biết chắc như vậy. Con người không nghĩ ra thì ai nghĩ ra?
Tất cả chỉ do con người bày đặt ra mà thôi. Linh mục Ernie Bringas
đã gọi Ơn Cứu Rỗi là một cái bánh vẽ trên trời. Ai vẽ và
vẽ ra để làm gì? Con người vẽ ra để mê hoặc đầu óc con trẻ.
- Họ đã nhầm giết hại cả triệu người trong luật cải cách 56.
(14): Theo Noam Chomsky thì dựa theo tài liệu phịa của Hoàng Văn Chí,
Bernard Fall và Frances Fitzgerald đưa ra con số 50000. Gareth Porter (giáo sư
đại học Cornell) nghiên cứu vấn đề cải cách ruộng đất, vạch
trần tài liệu giả của Hoàng Văn Chí và đưa ra con số khoảng 3000.
Edwin Moise cũng khảo cứu và đưa ra con số 5000. Trương Như Tảng viết:
"nhiều ngàn". Bùi Tín viết: "mười mấy ngàn". Từ
hàng ngàn lên đến hàng triệu, đúng là một bước nhảy vọt.
- (Trong lời Bạt của Lê Quang Sinh):
Chúng tôi đồng ý với
tác giả, chỉ có niềm tin và tình yêu Thượng đế mới thắng
được Tội Ác. (300): Nhưng Lịch Sử lại chứng minh rằng, chỉ có
niềm tin và tình yêu Thượng đế mới gây ra tội ác. Vụ Giáo
hoàng Ca-Tô xưng thú 7 núi tội lỗi, và giáo hội Tin Lành xin lỗi
dân da đỏ là những bằng chứng. Phật giáo không tin Thiên Chúa
nên không làm đổ một giọt máu trong quá trình truyền đạo.
Trên đây tôi đã trích dẫn tượng trưng những
đoạn "đặc sắc" nhất trong cuốn "Từ Áo Cà Sa Đến
Thập Tự Giá" của Huệ Nhật. Tôi tin rằng, tới đây, quý
độc giả đã có thể nhìn rõ tâm cảnh và thực chất kiến thức
của tác giả ra sao.
Cảnh ngộ của tác giả thật đáng thương và tôi
cũng mừng cho Huệ Nhật, trong sự bấn loạn tâm thần, đã kiếm
được "Hồng Ân Thiên Chúa" để độ nhật. Theo Huệ Nhật,
dựa trên chuyện "Gióp" trong Thánh Kinh thì những bất hạnh
mà Huệ Nhật gặp phải trên trường đời chỉ là những thử thách
về lòng tin Thiên Chúa của Huệ Nhật. Nếu cứ giữ vững lòng tin
thì thế nào Thiên Chúa cũng đền bù cho Huệ Nhật hai người vợ
đẹp và các con ngoan khác, kể cả nhà cửa, xe gắn máy v..v.. nhưng
bao giờ đền bù thì đó còn là một ẩn số.
Để kết luận, theo tôi, Huệ Nhật bỏ áo cà sa, Phật
Giáo cũng chẳng thiệt thòi mất mát gì. Trái lại đó có thể là
điều hay, vì thà bỏ áo cà sa còn hơn khoác áo này mà làm bậy.
Còn Tin Lành có gặt hái được gì từ một tân tòng như Huệ
Nhật, quả thật tôi không biết.
http://www.buddhismtoday.com/viet/diemsach/017-tranchungngoc-aocasa.htm
|
|