de
Silva, Padmasiri. Environmental Philosophy and Ethics in Buddhism. Hampshire:
Macmillan Press, 1998. 195 pages.
Phật Điển Hành Tư điểm
sách
Ðây là một
đề tài thật bao quát, rộng lớn và cũng rất thời đại. Tác giả đã
làm một công trình tầm cỡ, bởi vì không chỉ nêu lên những vấn đề
liên quan đến đạo đức và giáo dục về môi trường sinh thái trong Phật
giáo, mà lại còn tóm lược ý nghĩa và tính chất của đạo đức Phật
giáo trong tương quan với đạo đức xã hội và kinh tế nữa.
Trong mỗi một
chương, tác giả đều nhắc đến những kích thước đạo đức của
phương Tây để làm cơ sở tìm hiểu Phật giáo. Tuy nhiên, tác giả đã
sai lầm khi chỉ nhắc đến Phật giáo một cách tổng quát, mà chẳng phân
biệt là hình thức nào của Phật giáo được bàn đến, là Phật giáo của
kinh tạng Pàli, của những phát triển Ðại thừa về sau, của Thiền tông
hay của Phật giáo hiện đại; bởi vì mỗi một hình thức đó của Phật
giáo đều có nội dung và giải quyết riêng trước vấn đề được nêu.
Tuy đây không phải là điều quan trọng, nhưng khả năng để làm một cuộc
phân tích chi tiết và có tính cách nghiên cứu của tác giả vì thế mà bị
hạn chế rất nhiều.
Ðịnh nghĩa
thế nào là đạo đức (ethics) và những thể cách sinh hoạt nào thuộc đạo
đức được nhắc đến nơi chương dẫn nhập giúp độc giả có một
khái niệm tổng quát về bộ môn này. Phật giáo được đề xướng như là
một tổng hợp của những chủ trương khác nhau về lý thuyết đạo đức
như hậu quả luận (consequentialism), cứu cánh luận (teleology), đạo lý luận
(deontology), và đạo đức tác dụng (virtue ethics). Tác giả nói: "Ðạo
đức Phật giáo là một bộ môn đạo đức có khuynh hướng chính thể luận
(holistic ethics) nhiều hơn, bởi vì ta có thể đặt tất cả những chủ
trương khác nhau về đạo đức vào chung một khuôn khổ mà không có lý
thuyết nào chống đối với lý thuyết nào." (tr. 24-25).
Chương 2 viết
về triết lý môi sinh và chương 5 về đạo đức môi sinh, mà tác giả
phân biệt rất rõ ràng cả hai. Triết lý môi sinh của Phật giáo phát sinh
do từ liên hệ đến Tứ diệu đế, đến học thuyết vô ngã, vô thường
và duyên sinh (nhân duyên, dependent origination). Con người kinh nghiệm về Khổ
(sufferings, dukkha) là vì không có sự hòa hợp giữa cá thể (ngã), xã hội
và thiên nhiên; từ góc cạnh đó, tác giả giải thích về môi sinh. Tuy rằng
ý nghĩa của Khổ (dukkha) bao gồm rất rộng rãi hơn là chỉ riêng về khủng
hoảng sinh thái (ecological crisis), nhưng mà cơn khủng hoảng sinh thái mà
chúng ta đang trực diện cũng chính là tình trạng "dukkha" mà con người
đang tự thân kinh nghiệm, bởi vì nó là kết quả của trạng thái quy ngã
(egocentric state) (tr. 35), có nghĩa là tất cả những gì con người và cho
con người mà thôi.
Trong chương
5, tác giả nhấn mạnh về việc trong giáo lý của Ðức Phật đã tiềm
ẩn một tri nhận về vấn đề môi sinh, tuy rằng Ngài không nhắc đến
"môi sinh" như là một đối tượng đạo đức mà con người cần
phải quan tâm đến. Tiềm ẩn, là vì đạo Phật quan niệm con người là
trung tâm của mọi hiện hữu (anthropocentrism), là sinh thể hữu tình
(sentientism), biết tôn trọng sự sống của mọi loài (giới bất sát); đó
chính là quan điểm đạo đức môi sinh của đạo Phật. Bởi vì dựa trên
căn bản con người là chủ tể tuyệt đối trước nghiệp báo của chính
mình - không có thần linh nào có thể quyết định vận mạng của con người
- mà con người sinh tồn là sinh tồn trong hoàn cảnh xã hội và thiên
nhiên, cho nên cách tiếp cận với môi sinh đối với đạo Phật như trên
cũng là điều dĩ nhiên.
Ðiển hình
là giới thứ nhất, không sát sanh, lấy bi (mettà) và từ (karuna) làm gốc,
ấy chính là thể hiện thân hữu của đạo Phật đối với môi sinh
(ecofriendly). Ngay chính Ðức Phật cũng bác bỏ việc dùng sinh vật để tế
thần. Học thuyết về nhân duyên (pratìtyasamutpàda) được xem như là có
ảnh hưởng lớn trên đạo đức môi sinh, bởi vì nói đến nhân duyên là
nói đến những chuỗi tương liên nhân quả (causal connections), đưa đến
khái niệm về hỗ tương liên thông (interconnectedness) với nhau giữa con người
với thiên nhiên. Thực tập thiền định cũng chính là để triển khai một
ý thức đạo đức đối với môi sinh.
Chương 3, tác
giả nhắc lại lần nữa mục đích của tác phẩm của mình: 1. Phân tích
thái độ phương Tây là "con người phải chinh phục vũ trụ" khi
so sánh với nguyên lý căn bản trong đạo Phật về vô ngã; 2. Thiết lập
thái độ của Phật giáo đối với thế giới phi nhân (non-human) dựa trên
chính những lời dạy của Ðức Phật; 3. Tìm kiếm chứng cứ cho tính duy
trì liên tục (sustainability) của một nền đạo đức Phật giáo. Tác giả
phân tích và phê bình tỉ mỉ về nền đạo đức này, so sánh nó với
quan niệm của Kant và đạo nghĩa luận (deontology), cùng với thuyết vị lợi
(utilitarianism) và mục đích luận (teleology).
Khủng hoảng
luân lý, tự lừa dối mình (self-deception), và suy đồi đạo đức là chủ
đề của chương kế tiếp, mà tác giả kết luận rằng, chúng có thể
được loại trừ nếu chúng ta thấu rõ định luật về nghiệp và nguyên
lý nhân duyên, từ đó con người sẽ có cảm tình hơn đối với môi sinh,
tức những hoàn cảnh thiên nhiên quanh ta. Ðể đạt được mục đích
này, tác giả đề nghị một nền giáo dục mới, khiến triết lý về môi
sinh có thể thu hút mọi thành phần trong xã hội, mọi nghề nghiệp, mọi
văn hóa và mọi tôn giáo. Ở đây, tác giả đề xướng Ðức Phật là
nhà giáo dục tuyệt kỹ, vì Ngài đã biết tùy căn cơ của người nghe mà
giảng dạy rất khế cơ và khế lý, dùng đủ thứ phương tiện như thí dụ,
thi kệ, bổn sự v.v..., như trong phẩm 2 của kinh Pháp Hoa, để thính chúng có thể thấu triệt
những gì Ðức Phật muốn chỉ dạy. Như trong những truyện Tiền thân của
Phật đầy dẫy những ý nghĩa về sự cứu độ các sinh vật, tức đưa
trả môi sinh về lại với thiên nhiên.
Chương 6 viết
về kinh tế Phật giáo, mà tác giả đề nghị rằng kinh tế xanh (green
economics) là giải pháp cho nền kinh tế tiêu thụ (consumerism) hiện đại.
Ý nghĩa này rất hiển nhiên qua các bản kinh mà Ðức Phật dạy cho các cư
sĩ về tài sản, các Tăng sĩ sống đời đạm bạc, và vai trò của các
vua chúa cùng những nhà lãnh đạo. Nếu chúng ta đều thực hành theo lời
dạy của Ðức Phật, thì đề nghị này có thể thành thực tế. Ngay
chính nơi đời sống của Ðức Phật và những giáo lý của Ngài là hiện
thân thực tiễn và ý nghĩa nhất.
Tóm lại, môi
sinh luận (environmentalism) theo khuynh hướng Phật giáo, theo tác giả, là một
phương cách sống (way of life) mà toàn thể con người, không nhất thiết
là Phật tử, cần thể hiện mới hy vọng bảo tồn quả đất mà chúng ta
đang sống này (tr. 180).
Nhìn chung,
tác giả đã cố gắng bàn đến quá nhiều vấn đề trong một tập sách tương
đối quá ngắn, chỉ có 184 trang. Phật giáo, môi sinh luận, đạo đức luận,
và giáo dục, đều là những vấn đề rất phức tạp, cho nên nêu chúng
lên trong cùng một tác phẩm khiến cho tác giả không thể nào phân tích tường
tận và chi tiết từng vấn đề được. Tuy nhiên, giáo sư de Silva đã nêu
lên được nhiều câu hỏi xác đáng về vai trò của sự giáo dục trong tương
quan với vấn đề đạo đức môi sinh gợi ý và lập cước cho những nghiên
cứu để tìm giải đáp trong tương lai.
(Viết theo Pragati Sahni, Department of Historical and Cultural
Studies, Goldsmiths, College, University of London, hsp01ps@gold.ac.uk)
http://www.buddhismtoday.com/viet/diemsach/environmental-philosophy.htm