- Tôn giáo
và Môi sinh
Trong gần ba
thập niên trở lại đây, phương Tây mới bắt đầu chú ý đến tầm quan
trọng của thiên nhiên đối với sự sống của con người. Trước đó, họ
chỉ biết chinh phục và tàn phá thiên nhiên để chứng tỏ sức mạnh của
những điều gọi là tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Cho đến khi có
một số ít người bắt đầu quan tâm đến sự hiện hữu thiết yếu của
môi trường chung quanh trước sự sinh tồn của con người, mới có những
phong trào hoạt động, chính trị, hoặc thuần túy xã hội, nổi lên, lấy
màu xanh, màu của cây cối thiên nhiên, làm mục tiêu cho những hoạt động
bảo vệ môi trường sinh thái. Những hoạt động này dần dần gây ảnh hưởng
trên nhiều phương tiện, đến nỗi giới học giả cũng bắt đầu tích cực
tham gia. Việc đầu tiên là họ thúc đẩy tôn giáo, thể hiện cho sự tồn
tại về tâm linh và đức tin của con người ngay từ khi con người bắt đầu
hiện hữu trong vũ trụ này, phải có thái độ đối với sinh thái mà
trong đó, con người đóng vai trò quan trọng.
Năm 1996, Trung
tâm Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới của Ðại học Harvard (Harvard University
Center for the Study of World Religions) phối hợp cùng Ðại học Bucknell và
Trung tâm Tôn trọng Sự sống và Môi sinh của Hội Nhân đạo Hợp chủng
quốc (Center for Respect of Life and Environment of the Humans Society of the United
States) tổ chức một Hội nghị về đề tài "Các tôn giáo thế giới
và môi sinh", sau hơn 3 năm chuẩn bị, quy tụ hơn 700 nhà thuyết trình
và với tham dự viên gồm các học giả, các nhân vật lãnh đạo các tôn
giáo lớn và các chuyên gia về môi sinh khắp thế giới. Ngoài ra đại hội
còn được sự ủng hộ và bảo trợ của các hội đoàn đại diện các
tôn giáo lớn như The Aga Khan Trust for Culture, Association of Shinto Shrines,
Dharam Hinduja Indic Research Center at Columbia University, Harvard Center for Middle
Eastern Studies, Harvard Divinity School Center for the Study of Values in Public of North
America, Theological Education to Meet the Environment Challenge, v.v...
Các tôn giáo
lớn đều có chương trình tham dự và làm đề tài các cuộc họp chuyên
đề trải dài hơn hai năm như sau:
- Phật giáo:
Buddhism and Ecology, 3-5 tháng 5, 1996.
- Khổng giáo:
Confucianism and Ecology, 30 tháng 5 - 1 tháng 6, 1996.
- Thần đạo
Nhật Bản: Shinto and Ecology, 21-24 tháng 3, 1997.
- Ấn Ðộ
giáo: Hinduism and Ecology, 2-5 tháng 10, 1997.
- Truyền thống
Tôn giáo bản địa: Indigenous Traditions and Ecology, 13-16 tháng 11, 1997.
- Do Thái
giáo: Judaism and Ecology, 22-24 tháng 2, 1998.
- Ky-tô giáo:
Christianity and Ecology, 16-19 tháng 4, 1998.
- Hồi giáo:
Islam and Ecology, 7-10 tháng 5, 1998.
- Ðạo giáo:
Taoism and Ecology, 5-8 tháng 6, 1998.
- Kỳ Na giáo:
Jainism and Ecology, 10-12 tháng 7, 1998.
Ðại hội
khoáng đại, sau những cuộc họp chuyên đề nêu trên, được chuẩn bị vào
những ngày 17 - 20 tháng 7 năm 1998, đã hoạch định và tuyên bố một Hiến
chương Toàn cầu (Earth Charter) làm tiêu chuẩn cho công cuộc vận động bảo
vệ môi trường và sinh thái trên thế giới. Tiếp theo là cử đại diện
đến tổ chức Liên Hiệp Quốc thuyết trình vào những ngày 20 - 21 tháng
10 năm 1998 để được toàn thể các quốc gia trên thế giới hợp thức
hóa cho Hiến chương Toàn cầu này.
"Bản chất
của sự khủng hoảng môi trường" là bài thuyết trình dẫn nhập do
hai nhà tổ chức hội nghị, Mary Evelyn Tucker và John Grim, đọc trước cuộc
họp đại hội khoáng đại, cho thấy tầm quan trọng của ý thức về môi
trường sinh thái và thiên nhiên trước sự sống còn của con người trong
tương lai. Và để cho các kết quả của những kỳ họp này được phổ
biến, Ðại học Harvard đã cho ấn hành các bài thuyết trình trong một loạt
chuyên đề gọi là "The Religions of the World and Ecology publications
series" với mục đích tạo giềng nối cho một khía cạnh học thuật mới
về bộ môn tôn giáo học, một khía cạnh có ảnh hưởng sâu đậm trên nền
đạo đức môi sinh hiện đại cùng những đề án thích nghi cho chính sách
cộng đồng về vấn đề này.
Quyển đầu
tiên trong loạt chuyên đề này là "Buddhism and Ecology: The
Interconnection of Dharma and Deeds", do Maru Evelyn Tucker and Duncan Ryuken
Williams biên tập, chủ đề về sự tương hệ giữa lý thuyết của giáo
pháp và kết quả thực tế của hành động theo quan niệm của đạo Phật.
Kế đến là quyển "Confucianism and Ecology: The Interrelation and Heaven,
Earth, and Humans", do Mary Evelyn Tucker and John Berthrong biên tập, chú trọng
đến liên hệ tam tài: thiên, địa, nhân của Khổng giáo. Quyển "Christianity
and Ecology: Seeking the Well-Being of Earth and Humans", do Dieter T. Hessel và
Rosemary Radford Ruether biên tập, đi tìm sự bình an cho con người và quả đất
theo Ky-tô giáo. Quyển thứ tư, "Hinduism and Ecology: Intersections of the Earth and Dharma",
do Christopher Key Chapple and Mary Evelyn Tucker biên tập, xuất bản vào mùa Hạ
năm 2000, trình bày con đường giao điểm giữa trái đất và triết thuyết
sự hiện hữu của nó, theo quan niệm Ấn Ðộ giáo. Lần lượt các bài
thuyết trình của những tôn giáo khác cũng sẽ được tập thành và xuất
bản.
Trong cuộc hội
nghị đầu tiên, với chuyên đề "Buddhism and Ecology", cũng đáng
được bàn đến. Chỉ trong 3 ngày, từ 2 đến 5 tháng 5 năm 1996, mà bao
nhiêu bài thuyết trình được đọc với những đề tài như Nguyên Thủy
Phật giáo và Môi sinh, Phật giáo Nhập thế, Phật giáo và Súc sinh, Thiền
và Sinh thái, Những vấn đề về Phật giáo Môi sinh, Phật giáo Mỹ và
Môi sinh, v.v... Tham dự hội nghị này có những học giả tiếng tăm trong
Phật giáo như Mary Evelyn Tucker thuộc Bucknell University, Trưởng ban điều hành
hội nghị; giáo sư lão thành Masatoshi Nagatomi, Khoa trưởng Divinity Shool của
Harvard University, Cố vấn; Lewis Lancaster, Khoa trưởng Phật khoa, University of
California-Berkeley; Christopher Queen, Harvard University v.v... Ta thử điểm qua một
vài đề tài trong hội nghị này:
Leslie Sponsel
và Poranee Natadecha, University of Hawaii-Manoa thuyết trình về "Cộng đồng
Tăng già như là một Xã hội Xanh tại Thái Lan; vai trò tiềm năng trong Ðạo
đức môi sinh, Giáo dục và Hành động". Xanh (green), màu của cây lá,
như đã nhắc ở trên, là một thuật ngữ dùng chỉ cho tất cả những gì
thuộc môi trường và sinh thái mà các phong trào bảo vệ đang vận động;
Xã hội Xanh là một xã hội lý tưởng mà họ muốn đạt tới, nơi đó
con người sống hòa hợp với thiên nhiên và không phá hủy môi trường tự
nhiên ngoại tại. Trong khi đó, Donald Swearer, thuộc Swarthmore College, trình
bày về "Khái niệm về Môi sinh Phật giáo trong các kinh điển để ứng
dụng cho đường thời Thái Lan: tư tưởng của các Phật gia tiến bộ
Buddhadasa và Dhammapitaka". Joe Franke thì nói về đề án Lâm tự, để tổ
chức ủng hộ các Sơn tăng Xanh trong những ngôi chùa vùng rừng núi của
Ðông Nam châu Á.
Rita Gross, Ðại
học Wisconsin-Eau Claire, nổi danh về những đấu tranh dành quyền bình đẳng
cho phụ nữ, lần này lại nói về "tiềm lực Phật giáo trước những
vấn đề dân số, tiêu thụ và sinh thái". Ngược lại, Christopher Key
Chapple, Loyola Marymount University, chú ý đến chỗ đứng của "súc vật
trong truyền thống Sa môn sơ thời"; còn Joanna Handlin Smith, biên tập
viên của Harvard Journal of Asiatic Studies, thì trình bày về truyền thống
phóng sanh trong thời nhà Minh và Thanh của Trung Hoa, dựa trên ảnh hưởng của
Vân Thê Châu Hoằng. Truyền thống này cũng được Duncan Ryùken Williams, Ðại
học Harvard, chú ý đến khi nói về ý nghĩa nghi thức lễ phóng sanh
(Hôjô-e) trong thời trung cổ của Phật giáo Nhật Bản.
Qua đến phần
Thiền và Môi sinh, Ruben Habito, thuộc Ðại học Southern Methodist University,
viết về "Núi, Sông và Ðại địa: Thiền trước vấn đề Sinh thái";
cùng một quan điểm, John Daido Loori, Zen Mountain Monastery, nói đến "Những
bài học đạo đức mà Núi và Sông đã cấp bách cung ứng cho trái đất này".
Graham Parkes, Ðại học Hawaii, Manoa, tiến xa hơn nữa, bàn đến "Sự giáo
hóa của Pháp thân Phật qua hiện hữu của núi đá, cây rừng: Ðạo
Nguyên và bí ẩn Sinh thái".
Phần Tây Tạng
Phật giáo cũng được Jeffrey Hopkins, Ðại học Virginia, nhắc đến qua
"Sự quan ngại của Phật giáo về Môi trường", trong đó có vấn
đề phải chăng đó chính là thực tế cần bảo vệ hay chỉ là những tưởng
tượng của những nhà trí thức thời thượng. Còn M. David Eckel, Ðại học
Boston, thì nói đến thuyết "Con người, trung tâm vũ trụ
(Anthropocentrism), để so sánh với lý Tánh Không và quan niệm về Thiên
nhiên trong Phật giáo".
Steven
Rockefeller, Middlebury College, thuyết trình về những đóng góp của Phật
giáo vào Hiến chương Toàn cầu. Stephanie Kaza, Ðại học Vermont, bàn đến
"Sự hội ứng của Phật giáo Mỹ đối với đất đai". Riêng Jeff
Yamaguchi, dạy ở Prescott College, thì trình bày một trường hợp điển hình
về ý thức Xanh qua sinh hoạt của Zen Mountain Center, nơi ông thực tập thiền.
Sơ lược một
số bài thuyết trình trong quyển "Buddhism and Ecology" cho thấy
thế giới đã chuyển mình để chấp nhận rằng thiên nhiên, con người và
tôn giáo, nhất là Phật giáo, không thể biệt lập nhau mà có thể sinh tồn
được.
http://www.buddhismtoday.com/viet/diemsach/moisinh.htm