Trang tiếng Anh | Đạo Phật Ngày Nay |
...... ... | . | . | . | . | . |
1. Giáo dục Phật giáo là gì?
3. Những yêu cầu cơ bản của giáo dục Phật giáo Để đạt được những mục tiêu giáo dục trên, hệ thống giáo dục Phật giáo cần thực hiện những yêu cầu căn bản sau: (a) Mô phạm và thân giáo Người thầy giáo Phật học không chỉ lấy tri thức Phật học truyền trao cho Tăng Ni sinh mà còn phải lấy năng lực, phẩm chất đạo đức và phạm hạnh của mình truyền trao cho Tăng Ni sinh, mà thuật ngữ Phật học gọi là thân giáo. Thân giáo có thể được xem như bài học giáo dục thâm thúy nhất và thiết thực nhất. Sự phạm hạnh và thanh tịnh của người thầy có sức tác động mạnh vào tâm thức Tăng Ni sinh, khiến họ phát khởi chánh tín, làm trổi dậy hạt bồ-đề, làm động lực cho sự tu tập... Tất cả hành vi thân giáo của người thầy như cách đi, đứng, nằm, ngồi, cho đến mặc áo, ăn cơm, rửa mặt v.v... là những giáo huấn sinh động, không thể tìm thấy qua ngôn ngữ văn tự trong trường lớp.Và do đó, có thể nói sự mô phạm hay thân giáo của người thầy Phật học được đánh giá rất cao và đóng vai trò quan trọng trong sự tu học của Tăng Ni sinh. (b) Khế lý và khế cơ Khế lý và khế cơ là hai yêu cầu cơ bản của nền giáo dục Phật học. Khế lý là sự trao truyền xác hợp với chân lý Phật-đà và xiển dương chánh pháp đúng với bản chất của chánh pháp, không vì lý do gì lại nói trái với chánh pháp. Thể hiện khế lý là nhằm đào tạo cho Tăng Ni sinh đức tính chánh ngữ, bi-trí-dũng, hay đức vô sở úy vì sự hoằng truyền chánh pháp. Khế cơ là sự truyền dạy xác hợp với căn cơ, đối tượng, nhằm xác lập chánh kiến, chánh tư duy cho Tăng Ni sinh. Khế cơ đóng vai trò quan trọng, vì nó xác định rõ yếu tố khế lý kia là để phục vụ cho ai. Giáo dục Phật giáo là nền giáo dục phục vụ nhân bản. Có khế lý mà thiếu khế cơ thì mục đích phục vụ đó không thể thành tựu được. Để đạt được yêu cầu khế lý và khế cơ, người thầy giáo Phật học phải thấu triệt những vấn đề Phật học, nắm rành tâm lý học tăng và nhất là phải chủ động trong việc triển khai, giảng dạy thật linh động. Không phải biết cái gì thì dạy cái đó, mà chỉ dạy những gì cần thiết cho căn cơ đối tượng. Sự thích hợp với căn cơ đối tượng như vậy mới thật sự là giáo dục sư phạm Phật học. (c) Sư phạm Sư phạm là quá trình khoa học của giáo dục, được thể hiện và đánh giá qua sự vận dụng quy luật trong quá trình dạy học và còn là yếu tố không thể thiếu trong việc thành tựu khế lý và khế cơ. Đối tượng của thầy giáo là con người và do đó đối tượng của người thầy Phật học là Tăng Ni sinh. Muốn giáo dục con người thì người thầy phải biết thuyết phục, nêu gương, đồng thời tổ chức các hoạt động thực tiễn để cho các học viên có dịp rèn luyện. Tính khoa học trong giáo dục sư phạm Phật học được thể hiện cách chính xác, hợp lý khi nó xác hợp với các quy luật phát triển của lưới tuổi và đặc điểm của đối tượng. Sư phạm trong giảng dạy Phật học thật chất là một nghệ thuật truyền trao chánh pháp và huấn luyện trí tuệ, đạo đức một cách hữu hiệu. Đây là nghệ thuật đòi hỏi nhiều ở sự nỗ lực tự trau dồi của người thầy nhiều hơn bất cứ nghề nào khác. Tính sư phạm hay nghệ thuật giảng dạy trước hết thể hiện ở khả năng diễn đạt, trình bày kiến thức và các tư tưởng một cách nhẹ nhàng, thoải mái, giản dị, gần gủi mà đạt được tác dụng giáo dục sâu sắc. Cái đó Phật giáo gọi là ngữ biện tài và nghiã biện tài. Ngữ biện tài là nghệ thuật sư phạm Phật học còn được thể hiện ở khả năng sử dụng lời nói, điêu luyện giọng nói, chỉnh lý tốt oai nghi, dáng điệu, nét mặt, cách đi, cách đứng, cách nhìn và cả cách ngồi nữa. Thiếu những cái đó thì khó có thể trở thành nhà giáo dục Phật học giỏi được, nghiã là khó có thể thành tựu được ngữ biện tài. Ngoài ra, người thầy giáo Phật học còn phải biết phát huy đồng bộ sức mạnh của các yếu tố giáo dục, tự giáo dục, di truyền (hay chủng tử câu sanh) và hoàn cảnh. Có như vậy, mục đích giáo dục Phật học mới mong thành tựu mỹ mãn như trận mưa thấm nhuần và nuôi lớn các loại cỏ cây được. 4. Những yêu cầu đối với người thầy giáo Phật học Nếu giáo dục được quan niệm như một nghề thì nghề giáo dục được xem là nghề sáng tạo ra các ngành nghề trên trái đất. Chính vì thế, nhà giáo dục Phật học trước tiên phải tự giáo dục và hoàn thiện chính mình bằng các yêu cầu sau: (a) Thẩm thấu chánh pháp, phạm hạnh thanh tịnh Đây là yêu cầu quan trọng bậc nhất của một nhà giáo dục Phật học. Thẩm thấu chánh pháp tức là sự giác ngộ chân lý Phật đà; sống, làm việc và giáo dục theo chân lý Phật đà. Thẩm thấu chánh pháp tức là quán triệt tinh thần nội điển-kinh luật luận của ba hệ giáo lý Đại thừa, Nguyên thủy và Nhất thiết hữu bộ mà thuật ngữ Phật giáo gọi là yêu cầu về nội minh. Thẩm thấu chánh pháp hay nội minh là một trong những yếu tố quan trọng trong ngũ minh của Phật giáo Đại thừa. Quán triệt nội minh là điều kiện tất yếu giúp cho mục đích giáo dục chánh kiến được thành tựu trọn vẹn. Thẩm thấu chánh pháp đối với người thầy giáo Phật học là một đòi hỏi rất lớn và cần thiết, và không chỉ dừng lại ở đó, người thầy giáo Phật học còn phải là người gương mẫu trong việc ứng dụng có hiệu quả những thức ăn chánh pháp vào đời sống thường nhật của mình. Bản thân người thầy giáo Phật học phải là điểm sáng về ''hạnh giải tương ưng'' hay ''tri hành hợp nhất''. Người thầy Phật học không thể là một khối rỗng của tri thức mà là một khối đặc của hành trì. Người thầy Phật học phải là một hành giả, một nhà tu tập, thể nghiệm chánh pháp. Chính những yêu cầu đó tạo nên phạm hạnh thanh tịnh nơi thân tâm người thầy Phật học và tỏa sáng qua tâm linh và sự tu học của Tăng Ni sinh. Người thầy giáo Phật học phải hội đủ sự giác ngộ lý tưởng Phật giáo cao độ, có đạo đức phạm hạnh trong sáng và đức từ ái bao la đối với tất cả chúng sinh. Giác ngộ lý tưởng Phật giáo cao độ tạo cho người thầy giáo Phật học tinh thần vô sở úy trước những bạo lực, uy quyền, trước những bất công; làm sống dậy khả năng đề kháng; rửa sạch những nhận thức, chủ trương sai lầm, trái với bốn thánh đế, tám chánh đạo, nhân quả, duyên khởi, vô ngã và trung đạo... trong lãnh vực văn hóa và tư tưởng. Sứ mạng cải tạo tư tưởng, văn hóa xã hội của người thầy Phật học chỉ có thể đạt được khi người ấy thẩm thấu chánh pháp, có phạm hạnh thanh tịnh và truyền trao chánh pháp bằng bầu nhiệt huyết từ bi, vô ngã của mình. Chính vì thế, ảnh hưởng chánh kiến đa văn, phạm hạnh, đạo đức, uy tín và sự gương mẫu của người làm công tác giáo dục Phật học là một sức mạnh mà không có sách sư phạm nào, không có châm ngôn đạo đức nào hay ngay cả sự khuyến khích và trừng phạt nào có thể sánh ví, thay thế được. (b) Quán triệt ngoại minh Ngoại minh là thuật ngữ Phật học dùng để chỉ cho sự sư thông suốt các môn thế học. Hay nói khác hơn, đây là nhu cầu về trình độ học vấn toàn diện, có chiều sâu lẫn chiều rộng đối với nhà giáo dục Phật học. Ngày nay, trước sự phát triển tranh minh của khoa học và học thuật, Phật giáo được nhận định như là tôn giáo của khoa học và triết học. Để việc truyền bá Phật học có hiệu quả, nhà giáo dục Phật học phải lão thông các vấn đề khoa học lẫn triết học. Sử dụng ngôn ngữ khoa học và triết học để triển khai Phật giáo thì người tiếp thu sẽ thấy dễ hiểu và thâm tín hơn. Đây chính là yêu cầu cơ bản của ngữ biện tài: ngôn ngữ được trình bày bằng nhiều cách khác nhau nhưng chân lý chứa đựng trong đó ch? là một. Kiến thức Phật học mà các Tăng Ni sinh lãnh nạp được từ một trường Phật học chỉ thuần nội điển không đủ để làm hành trang giáo dục tha nhân trong thời đại khoa học mới. Người thầy giáo Phật học phải trang bị cho mình và Tăng Ni sinh những kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu về triết học, tôn giáo học, khoa học tự nhiên, tâm lý học, sư phạm học, giáo dục học, văn minh Việt Nam và thế giới v.v... Các Tăng Ni sinh cũng như sinh viên Phật học ngày nay không thể chỉ thoả mãn những kiến thức thuần nội điển, mà đòi hỏi nhiều kỹ năng về các khoa học liên hệ. Các đòi hỏi chính đáng đó còn do ai, nếu không phải là người thầy giáo Phật học phải có trách nhiệm giải đáp, truyền thụ cho họ về những vấn đề đó, dù ở mức độ nhất định. Người giáo viên Phật học phải hiểu biết nhiều hơn những cái được yêu cầu truyền thụ cho Tăng Ni sinh theo chương trình Phật học viện qui định. Thực tế cho thấy không có một môn học nào được giảng dạy mà lại không sử dụng những dữ liệu của các ngành học kế cận, ngay cả ngôn ngữ rút ra từ cuộc sống hiện thực và từ các lãnh vực tri thức khác nhau. Huống hồ Phật giáo, nền giáo dục đậm tính triết lý, thâm thúy cao sâu, nếu thiếu những kiến thức cơ bản về ngoại minh thì khó mà tiếp cận chính xác được. Thuật ngữ Phật học là ngôn ngữ đặc thù của Phật giáo, sâu sắc, khó hiểu, cần được chuyển thể qua ngôn ngữ khoa học, triết học, văn học bác học lẫn bình dân, để phổ cập cho tất cả đối tượng. Và như vậy, việc giáo dục Phật học sẽ được lan rộng, lớn mạnh và hiệu quả hơn. (c) Nghiệp vụ sư phạm và sáng tạo Yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục Phật học, truyền trao chánh pháp đến với mọi giới theo những điều kiện mới trước sự tiến bộ gia tốc của xã hội, đòi hỏi nhà giáo dục Phật học phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ sư phạm và tính sáng tạo trong nghệ thuật sư phạm của mình. Phương hướng giảng dạy sư phạm và sáng tạo của người thầy giáo Phật học có ý nghiã sâu sắc và liên hệ mật thiết với tiềm lực tri thức, trí tuệ và đạo đức tu tập. Đó là mối liên hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức, ngôn từ và hiện thực, tri và hành. Nghệ thuật sư phạm là nghệ thuật của sự lựa chọn có tính sáng tạo. Lựa chọn càng thiện xảo thì tác dụng giáo dục hay khế lý càng cao. Muốn hiệu quả sư phạm càng cao thì người thầy Phật học phải thường xuyên nghiên cứu, hoàn bị cho mình trình độ lý luận và kinh nghiệm giảng dạy, bằng cách nghiên cứu các thành tựu của các khoa học, tâm lý lứa tuổi, sinh lý học và phương pháp giảng dạy bộ môn... từ những tác giả Phật học và thế học có uy tín trong lãnh vực chuyên môn trong cũng như ngoài nước và đặc biệt là kinh nghiệm giáo dục Phật học ở các nước Phật giáo tiên tiến. Tất cả những tham khảo và nghiên cứu này giúp người thầy giáo Phật học nâng cao trình độ lý luận về khoa học giáo dục Phật học của mình trong sứ mạng truyền trì huệ mạng, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. ''Biết mười dạy một'' hay ''những gì Như Lai giảng dạy như những chiếc lá trong lòng bàn tay, so với những chiếc lá trong rừng'' là những qui luật có ý nghiã sư phạm sâu sắc, đáng cho chúng ta lấy làm phương châm để giáo dục Phật học có hiệu quả. Giảng dạy trường giang đại hải, không giới hạn, không chọn lọc và có tính sáo mòn, chẳng những không có ích cho học tăng mà còn làm cho họ rối lên, dẫn đến sự thối thất trong văn huệ, tư huệ và tu huệ, là điều cần phải tránh đối với nhà giáo dục Phật học sư phạm. Người thầy giáo Phật học phải biết lựa chọn và truyền dạy những gì cần thiết nhất trong biển pháp Phật học mênh mông để học viên có thể ứng dụng thiết thực trong đời sống, đem lại hiệu quả cao trong việc tu h?c, chứ không phải là nhà thuyết trình, nhồi vào tâm trí học viên hết những gì mình học được qua năm tháng đa văn và tu tập. 5. Mục đích của giáo dục Phật giáo Đối với Phật giáo, mục đích giáo dục không phải là điểm dừng mà là điểm xuất phát của quá trình giáo dục. Mục đích giáo dục Phật học chính là toàn bộ giáo dục được đầu tư bằng chất xám, phương pháp sư phạm và lòng nhiệt tâm của người thầy, và kết quả là, đào tạo một mẫu Tăng Ni sinh lý tưởng nhất của giáo hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Mục tiêu giáo dục Phật học cần đạt được là trang bị cho Tăng Ni sinh thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo; có đạo đức phạm hạnh, có văn huệ, tư huệ, tu huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến; lột bỏ mọi kiến hoặc, tư hoặc; hành thành chánh kiến giải thoát. Mục tiêu giáo dục Phật học là đòi hỏi rất lớn, quyết định suốt cuộc đời giác ngộ chính mình ở hiện tại và tha nhân ở tương lai. Giác ngộ chính mình là tự giáo dục, giác ngộ tha nhân là tha giáo dục. (a) Tự giáo dục Bằng trí tuệ và phạm hạnh của mình, người thầy giáo Phật học phải huấn luyện và đào tạo cho Tăng Ni sinh sự tự giáo dục chính họ. Các thầy giáo Phật học là tấm gương để họ noi theo. Tự giáo dục là quá trình đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự giác trau dồi tam tuệ học, xóa bỏ tam độc, hướng đến tam giải thoát. Trong quá trình này, người thầy giáo Phật học phải nhấn mạnh và làm nổi bật được ''hiện thực khổ đau đang khống chế con người là do vô minh, tham chấp và phiền não'', mà sự đạt được hạnh phúc, an lạc phải do tự mỗi người thực hành lời Phật dạy, thông qua con đường bát chánh, hay nói khác là nhận thức rõ tứ đế và mười hai nhân duyên. Mỗi người phải áp dụng lời Phật dạy trong cuộc sống để làm ốc đảo giải thoát cho chính mình. Hãy thắp sáng ngọn đuốc giải thoát bằng chính sự tu tập của mình, như đức Phật đã dạy:
(b) Tha giáo dục Con đường giáo dục của Phật giáo là giao thoa nhân duyên: giáo dục chính mình để mà chói sáng, giáo dục người khác. Đối tượng giáo dục của Phật giáo luôn được xác định là con người và rộng ra là tất cả các loài chúng sanh ngoài con người. Các loài chúng sanh kém phước ngoài con người cũng chính là mục tiêu giáo dục Phật giáo ở cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Mục đích của Phật giáo là nhằm giáo hóa chúng sanh, do đó, mục tiêu giáo dục của Phật giáo cũng nhằm giải thoát chúng sanh khỏi những đau khổ đang khống chế, hoành hành. Con đường giác ngộ của Phật giáo là tấm bản đồ công bố rộng rãi, không độc đoán, giấu giếm. Ai đi đúng sự hướng dẫn của nó đều được giải thoát và đặc biệt là giải thoát đó cũng được thực hiện từ tự thân của từng hành giả, chứ không thể tìm thấy một ân sủng nào. Tha giáo dục chính là mục tiêu lớn khi tự giáo dục đã hoàn thành sứ mạng. Một người tự giáo dục đã xong mà không có tha giáo dục, hẳn không phải là người Phật giáo. Thực tế cho thấy không một người Phật tử nào sau khi hoàn thành tự giáo dục lại không dang rộng đôi tay để giáo dục tha nhân bao giờ. Đạo Phật là đạo của từ bi, cứu khổ. Giáo dục Phật giáo phải phát xuất từ lòng từ bi vô hạn để cởi mở đau khổ của con người và muôn loài như đức Phật đã dạy: ''Đạo Phật là đạo nói lên sự thật đau khổ và con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ cho tha nhân''. Tự giáo dục và tha giáo dục là mục tiêu đào tạo căn bản nhất trong hệ thống giáo dục Phật học nhằm xác định hướng đi vững chắc, thanh thoát và làm nền tảng cho mọi nền đạo học và đức học trên thế gian này. Nay mục tiêu đã được xác định. Con đường thênh thang trải dài đang dang rộng đôi tay để chào đón tất cả Tăng Ni sinh sau khi tốt nghiệp. Hãy tinh tấn, dũng mãnh bước đi trên con đường giáo dục cao thượng này! (Tháng 4-1993) |
Cập nhật: 29-6-2000 | Đầu trang |