- Tam Bảo là chuẩn đích cho phát triển
- Phật Giáo Việt Nam (1)
- HT Thích Thiện Châu
Đề tài của buổi hội thảo hôm nay là "Hướng phát
triển Phật Giáo Việt Nam".
Vấn đề được đặt ra trước hết là "Ta có một nền
Phật Giáo Việt Nam hay không?" Tôi trả lời là có, và chỉ cần hai chữ
thôi cũng đủ chứng minh điều này:
Một là chữ "Chùa". Trong khi người Quảng Đông gọi
là "Miếu", người vùng Bắc Kinh gọi là "Tự", người Lào
và người Căm-Pu-Chia gọi chùa là "Đền", thì người Việt Nam ta
gọi là "Chùa", chúng ta đọc trại từ chữ Phạn là Stupa ra
"Chùa".
Hai là chữ "Bụt". Trong khi người Trung Quốc gọi
là Phật, chúng ta gọi là Bụt giống chữ Boud của Bouddha.
Như vậy chúng ta có một nền văn hóa Phật Giáo, và có một
nền Phật Giáo Việt Nam rõ ràng. Chúng ta có một ông sư Việt Nam khác với
ông sư Lào, khác với ông sư Căm-Pu-Chia, khác với ông sư Trung Quốc.
Trong những giai đoạn qua, hoặc vì hoàn cảnh đất nước,
hoặc vì văn hóa bị đàn áp, bị chèn ép, chúng ta chưa phát triển được
Phật Giáo Việt Nam. Giờ đây, ta có chủ quyền, thống nhất, nhất là có
hòa bình và có cơ hội cho văn hóa Việt Nam phát triển, do đó chúng ta mới
nghĩ tới vấn đề phát triển Phật Giáo Việt Nam.
Dĩ nhiên trong thời Phật Giáo phục hưng, Phật giáo đã
phát triển, đã có định hướng; nhưng bây giờ đất nước cũng như thế
giới đã qua một giai đoạn mới, do đó phải định hướng lại phát triển
như thế nào?
Tôi lấy một thí dụ, như ngôi chùa Trúc Lâm này; sở dĩ
chúng tôi không xây ở trong thành phố Paris, mà phải ra đây, xa xôi, đi lại
khó khăn, là vì chúng tôi có định hướng. Chúng tôi không thể mua một căn
phố tại Paris để sửa lại thành chùa vì làm như vậy là phản bội tổ
tiên ông bà và văn hóa Việt Nam. Chúng tôi muốn xây dựng một cơ sở cho
sự phát triển Phật Giáo Việt Nam, như vậy, phải có một ngôi chùa thực
sự Việt Nam, phải có đất chùa, có cảnh chùa, phải có môi trường, có
sinh thái, phải có rừng, có cây, nếu được có suối thì tốt, nếu có
sông thì càng tốt, nghĩa là phải có một ngôi chùa Việt Nam như chùa Trấn
Quốc, chùa Một Cột, chùa Linh Mụ, chùa Linh Sơn Đà Lạt, chùa Trúc Lâm
Đà Lạt, chùa Tam Bảo ở Hà Tiên v.v...
Phật
Có chùa rồi, chúng ta phải phát triển Phật (chúng ta còn
gọi là Bụt). Bổn sư của chúng ta là Thích Ca Mâu Ni. Nhiều khi quá khoan
hòa chúng ta quên mất ý niệm lịch sử; vì vậy, có nhiều người đi chùa
mà không biết Phật là ai, ai là người lập ra Đạo Phật. Có Nam mô Phật,
có Nam mô A Di Đà Phật, có Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật,... nhưng quên mất
và cũng không hiểu rõ rằng người sáng lập ra đạo Phật là Đức Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni.
Chúng ta quan niệm rằng Phật nào cũng giống Phật nào, cũng
quá khứ, hiện tại, tương lai. Nhưng đối với thời đại khoa học này,
chúng ta phải tập trung làm sáng tỏ Đức Bổn sư của chúng ta, vì Đức
Bổn Sư quá đẹp, quá cao, quá siêu việt. Chúng ta có thể thờ tất cả
các vị Bồ Tát, nhất là Bồ Tát Quan Thế Âm, nhưng đừng để những đức
tánh của các vị Bồ Tát hay hình tượng các Ngài che lấp ánh sáng Đức
Bụt của chúng ta; ví dụ như bên đạo Thiên Chúa, nói cho dễ hiểu, nhiều
khi Notre Dame đã lấn Jésus.
Trong Phật Giáo bây giờ cũng đã có hiện tượng là nhiều
khi có chùa mà không thờ Phật hoặc thờ Phật mà không được rõ ràng,
không được chú tâm tới Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Vì vậy, cũng
đừng lấy làm lạ khi có người nghi ngờ tôi không phải là tu sĩ, người
ta tới chùa không thấy tôi niệm A Di Đà Phật. Tôi biết Đức Phật A Di
Đà rất quý, rất đẹp, là một nơi cho nhiều người quy hướng, nhất là
về tuổi già và hy vọng cho đời sau. Nhưng tôi không niệm A Di Đà Phật
vì tôi muốn , tôi cố ý, làm cho Đức Bổn Sư lịch sử, cũng như hình tượng
Ngài được nổi lên rõ ràng, để chúng ta theo đó mà tu hành. Làm sao cho
lịch sử Đức Phật và tất cả những cái đẹp của Ngài được sáng ra
để làm định hướng cho sự phát triển, cho sự tu dưỡng của chúng ta.
Pháp
Thứ hai là Pháp , trong Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Chúng ta
quan niệm đạo Phật là một cây lớn; chúng ta không chia phần gốc là phần
quan trọng, hay phần cành là quan trọng. Chúng ta nhìn một cây, nó có gốc,
có cành, có hoa, thì chúng ta chấp nhận cái cây như là một cái cây: thân
thì đỡ, cành ra lá, từ ra lá đó nó mọc hoa.
Vì vậy chúng ta không nhắc đến Đại thừa, Tiểu thừa,
ngay cả Nhất thừa, cho đến Tối Thượng thừa chúng ta cũng không nói đến;
chỉ nhắc đến giáo pháp của Phật là phương pháp đạo lý để giải
thoát và giác ngộ, tùy theo căn cơ mình tu tập.
Cái nhìn của chúng ta về đạo Phật là một đạo Phật
toàn thể, không phân chia bộ phái, không chia ra thừa; không khi nào nói là
Tiểu thừa, không khi nào gọi là Đại thừa, một cách gọi theo quan niệm
khinh miệt Tiểu thừa. Giáo lý của chúng ta dựa trên giáo lý của đức
Phật, nên có đầy đủ ; Việt Nam ta phải hấp thụ toàn bộ giáo lý từ
căn bản cho đến phát triển, nghĩa là từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa,
phải theo đó mà phát triển. Bây giờ trong Đại tạng VN cũng đã phát triển
theo chiều hướng đó, có Nikaya, Agama, có kinh Pháp Hoa, kinh chữ Hán, tất
cả được phát triển, được học tập.
Chúng ta không nên chỉ phát triển một tông phái, hoặc là
Tịnh Độ hoặc là Pháp Hoa, hoặc là Thiền Tông (Thiền định khác Thiền
Tông), mà nên phát triển toàn bộ giáo lý với căn bản của nó là Giới
Định Tuệ; như vậy chúng ta có thể hấp thụ được tất cả những gì
hay đẹp Đức Phật tìm ra. Phát triển phải theo chiều hướng đó. Nếu
phát triển theo kiểu Nhật bổn, phát triển một tông này mà không phát
triển một tông khác, hay phát triển tu tập Tịnh độ mà bỏ tu dưỡng
theo Giới Định Tuệ là không được đầy đủ.
Tăng
Điều thứ Ba, về quan niệm một ông thầy, một ông Tăng.
Nói đến Tăng thì mình đã có một hình thức Tăng rồi. Bây giờ, nếu
toàn bộ Tăng VN mà sống theo Tăng của Căm-Pu-Chia thì không được, vì
khác biệt văn hóa. Khất thực rất là tốt, nhưng bây giờ trở lại khất
thực toàn bộ, chỉ có phái khất sĩ của chúng ta chấp nhận. Nếu muốn
tất cả Tăng của VN trở lại là khất sĩ thì cũng rất khó, mà không biết
sau này, khi đất nước hiện đại hóa và công nghiệp hóa rồi thì có thể
làm được nữa hay không.
Đạo Phật Căm-Pu-Chia là quốc giáo nên Tăng rất được
trọng; vậy mà sau một thời kỳ vài ba năm, Pôn Pốt đã làm cho bị tiêu
diệt. Trong khi đó ở Việt Nam sau bao nhiêu năm chiến tranh, bao nhiêu biến
chuyển mà Tăng vẫn còn, chùa vẫn còn, Phật tử vẫn còn. Điều đó chứng
minh rõ là lối sống của Tăng qua đạo phong của một vị thiền sư, trong
một cảnh chùa với đời sống nhẹ nhàng giải thoát, khất thực cũng có,
mà không khất thực sống tự túc cũng có, có thể tồn tại lâu dài được.
Phải duy trì và phát triển nó lên, chứ không thể đào tạo
một ông Tăng thành một ông giám đốc xí nghiệp kiểu ông tân Tăng Nhật
bản được. Ông Tăng VN không là ông Tăng lái xe taxi, như là ông tân Tăng
Nhật bản, và ông Tăng VN không thể có vợ có chồng như là một ông
Pasteur mục sư, rõ ràng là như vậy. Ông Tăng VN còn một cái khó nữa là
không trường trai không được, chính vì vậy mà các phái nguyên thủy rất
khó phát triển, khó phát triển là vì không có trường trai ; tuyệt dục
thì có, mà không có trường trai.
Hình thức Tăng của chúng ta, trong cái đạo phong của một
vị thiền sư là hình thức rất ổn, có thể sống ở Tây phương được,
có thể sống trong những nước không phải là Phật giáo được, mà đạt
được, chúng tôi nghĩ rằng đó là một hình thức phát triển được. Vì
vậy vấn đề giáo dục phải hướng về đó, không thể đào tạo một
ông Tăng trở thành một vị giáo sư đại học, không thể đào tạo một
ông Tăng để làm tuyên úy như ngày xưa, như thời kỳ trước đây, khi
ông Tăng bận đồ quân phục, lái xe jeep; chuyện đó rất khó coi, không thể
trở lại như vậy. Ông Tăng là ông Tăng.
VN có ông Tăng có tu hành, có đạo Phật; như vậy là
chúng ta đã có cơ sở rồi ; cũng như có cây Bồ Đề, có cây đa rồi mà
bị khô héo đi, hoặc bị người tới liệng ông Táo, Bình vôi; chúng ta phải
dọn dẹp nó, cành nào khô thì để xuống, cây chùm gởi thì gỡ đi, để
cho cây được phát triển, để có bóng mát cho dân làng, cho người qua
đường ngồi nghỉ. Chúng ta đã có gốc, đã có cơ sở để phát triển
và không cần chạy theo ai hết, và cũng không cần phải bắt chước một
Phật Giáo nào, ngay cả Phật giáo của Ấn Độ. Phật Giáo Ấn Độ vào
thế kỷ thứ 9, thứ 10 vẫn còn, cho đến bây giờ vẫn còn, chỉ còn rất
ít chưa tới một phần trăm. Đó là những người Phật tử mới, trong khi
đó PGVN chúng ta hiện diện suốt 2000 năm qua một giai đoạn rất khó khăn,
vì chiến tranh, vì thay đổi, mà vẫn sống còn được.
Tôi nói thêm một điều về phong trào Phật học, xuất
phát từ miền Trung và truyền ra cả nước, một phong trào cư sĩ , đó là
phong trào Gia Đình Phật Tử. GĐPT làm cho đạo Phật được lan rộng và
được áp dụng từ cuộc sống gia đình, từ trong tuổi thơ. Về mặt này
chúng ta cũng phải phát triển. Người cư sĩ là người tu ở nhà, có câu
"Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa", vì vậy
không thể nói là ở nhà mà không tu được mà chỉ có tu ở chùa. Do đó,
chúng ta có cơ sở để phát triển về mặt cư sĩ.
Trong kinh có truyện Ma Na Đê Na về thăm Phật. Ông dắt
theo 500 người bạn, Phật tiếp ông Ma Na Đê Na như là một cư sĩ, 500 người
kia không phải là đệ tử mà là bạn đạo của Ma Na Đê Na. Phật rất
vui và mừng vì ông cư sĩ này giúp đỡ cho những người cư sĩ khác trở
thành Phật tử. Vì vậy cho nên chúng tôi nghĩ rằng ở những nước tây
phương hoặc ở trong xã hội mới, hình thức cư sĩ làm cho đạo Phật đi
vào cuộc đời dễ dàng và ít nhất là gia đình của cư sĩ đó được Phật
hóa, và để xây dựng nề nếp phát triển về đạo đức trong xã hội.
Trong đề tài của tôi có bao gồm ý niệm đừng khinh Ni
như trong các nước nguyên thủy, nghĩa là Ni, người nữ tu, không có địa
vị gì. Mà cũng đừng trở lại tình trạng trong một cái chùa có vài bà
vải tới nấu ăn, không làm gì hết. Cũng chớ nên trở lại hình thức Tăng
Ni sống lộn xộn trong một chùa. Bây giờ người phụ nữ có tư cách
riêng của người ta, có khả năng quản lý cuộc đời của người ta, có
khả năng truyền bá các đạo đức của người ta qua công tác từ thiện,
qua công tác xã hội, thành vì vậy chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cũng phải
coi người phụ nữ hoặc là đi tu hoặc là không đi tu, có một địa vị
xứng đáng.
Tôi nghĩ rằng PGVN có cơ sở, có gốc rễ và nó gắn liền
với văn hóa VN. Vì vậy mà phát triển định hướng cho PGVN đồng thời
cũng là giúp cho sự phát triển Văn Hóa VN, và chúng tôi cũng nhìn nhận văn
hóa VN được phát triển ví dụ như là kiều bào chúng ta nói tiếng Việt
nhiều, thì người đó dễ gần dễ hiểu đạo Phật hơn, trái lại không
hiểu tiếng Việt thì khó mà hiểu đạo Phật. Nói đạo Phật bằng tiếng
Pháp cũng được nhưng mà chưa chắc đã sâu, nói đạo Phật bằng tiếng
Anh cũng được nhưng mà chưa chắc đã thu lượm được tất cả những cái
siêu việt của đạo Phật. Vì vậy cho nên hai cái đó là một, phát triển
PGVN cũng là Phát triển Văn Hóa VN, mà phát triển Văn Hóa VN cũng là giúp
cho phát triển PGVN.
Tôi có vài ý kiến như vậy, kính thưa với quý vị, chúng
ta làm sao cố gắng phát triển PGVN. Để làm gì? không phải để phục vụ
cho PG mà để phục vụ cho người VN, cho gia đình VN, cho xã hội VN và từ
đó lan dần ra cho đến những người bạn của VN như là người Pháp, người
Đức, người Anh, người Mỹ.
HT. Thích Thiện Châu
(1) - Bài mở đầu buổi Hội Thảo "Hướng Phát Triển
Phật Giáo Việt Nam" tổ chức tại Trúc Lâm Thiện Viện ( Pháp ) ngày
8-9-1996. Trong buổi Hội Thảo này, có Thượng Tọa Thích Chơn Thiện, Cư
sĩ Võ Đình Cường, Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn từ trong nước qua tham dự.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/005-tambao.htm
Chân thành cảm ơn cư sĩ Lại Như Bằng
đã gởi tặng phiên bản điện tử của bài viết này. ĐPNN, 25-6-2000