...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Việt hóa Nghi lễ, đường
còn xa vời vợi
- Nguyên Đạo
Lại Như Bằng
- Nhớ lời Thầy, bên rừng
Trúc
***
Năm 1939 , Cư Sĩ Lê Đình Thám viết
:
"Tam-tạng kinh điển trong xứ
ta toàn là chữ Hán, trong các thời đại Hán học thạnh hành xưa, ai ai
cũng có thể đọc nguyên văn, không cần phải phiên-dịch, nhưng ngày nay
Hán học đình đốn, bên tai đã vắng nghe những tiếng "Tử viết,"
thì còn mấy ai đọc được Hán-văn, nên sự phiên-dịch ra quốc-văn đã
thành một vấn-đề rất trọng yếu cho nền Phật-giáo tương-lai ở xứ
ta." ("Phật-Giáo Khái-Luận" - Huỳnh Sĩ Phục, Học
Tăng Mật Thể dịch -Huế, 1939)
Hơn 60 năm đã trôi qua, sự cần
thiết của phiên dịch kinh điển có lẽ đã được hầu hết Phật tử công
nhận. Rất nhiều kinh tạng lớn được phiên dịch, giảng giải; một kinh
có khi được dịch bởi nhiều dịch giả khác nhau, với mức độ cao thâm
dĩ nhiên không đồng đều. Lấy gì để phân định bản nào có thể được
dùng làm chuẩn cho Tăng Ni Phật tử cả nước nương theo mà tu học? Kể từ
năm 1990, Hội đồng Chứng minh và Hội đồng chỉ đạo Phiên dịch và Ấn
Hành Đại Tạng Việt Nam ra đời. Đây là một biến cố lịch sử không
những chỉ cho đạo Phật Việt Nam mà cũng còn cho dân tộc Việt, vì đây
không phải chỉ là một vấn đề Đạo Giáo mà, trước hết, còn là một
vấn đề văn hóa dân tộc: đạo Phật bước chân vào đất Việt đã
ngót 2000 năm, đa số người Việt theo đạo Phật, vậy mà Việt Nam vẫn
chưa có một Đại Tạng; nghiên cứu, tư duy,... đều phải tùy thuộc hoàn
toàn vào tiếng nước ngoài (1). Ngày nay, chỉ trong vòng vài ba chục năm nữa,
là dân tộc Việt sẽ có một Đại tạng bằng tiếng nói của chính mình.
Tuy vậy, việc phiên dịch kinh trên
đây, dù là một việc quan trọng phải làm, nhưng tự nó không đủ. Nó
giúp ích cho những người, có thì giờ, hay nguyện bỏ thì giờ nghiên cứu
giáo lý. Đa số Phật tử Việt Nam không có nhiều phương tiện để làm
việc này. Nhu cầu chính của người tại gia, mà thực ra cũng là mục
tiêu chính của đạo Phật, là tu tâm dưỡng tánh, và việc trì tụng, nghe
Kinh là một trong những phương pháp hữu hiệu nhất, dễ theo nhất.
Do đó, vấn đề tôi muốn nêu ra
ở đây là việc trì tụng hàng ngày của Phật tử Việt Nam, và nghi thức
tụng niệm trong tang tế và các ngày Đại Lễ của các chùa.
a - Tụng niệm
bằng chữ Việt hay chữ Nho
Thử nhìn các đạo khác, bên tây
phương, tụng kinh bằng chữ La tinh là số ít, rất ít; tụng kinh bằng tiếng
bản xứ là phổ biến. Còn mình thì sao? Thật là hỗn loạn ! Đi một lượt
các chùa nghe tụng niệm, lược qua các nghi thức được in ấn... có kinh bằng
chữ Nho, có kinh bằng chữ Phạn, phiên âm qua tiếng Trung Quốc, rồi tái
phiên âm ra tiếng Việt, nhưng cũng có kinh bằng chữ Việt...
Vậy, tại sao ta không thể chỉ tụng
bằng chữ Việt? Dân Việt mình có một nền văn hóa độc lập hay không?
Tìm đâu ra Kinh Việt để tụng?
b - Tụng niệm
kinh nào ?
Thực ra vấn đề đặt ra không chỉ
là dịch kinh sang tiếng Việt, mà cón phải lựa chọn kinh nào, tụng như
thế nào, làm sao vừa lòng mọi hệ phái: Nguyên Thủy, Khất Sĩ, Tịnh Độ,
Mật tông, Thiền Tông...? Nói cách khác, đây cũng là vấn đề "Thống
nhất Phật Giáo", "Thống nhất Bắc Nam Tông", một ý nguyện
đã được khẳng định trong hiến chương các Giáo Hội Phật Giáo VN kế
tiếp từ mấy chục năm qua. Nhưng cho đến ngày hôm nay, ý nguyện này vẫn
chưa thành hiện thực, hay nhiều lắm cũng mới chỉ đạt được trong một
vài hình thức cơ cấu, các Tôn Đức lãnh đạo các hệ phái ngồi chung
trong Hội Đồng Chứng Minh, Viện Tăng Thống... còn hàng đệ tử, xuất
gia và cư sĩ, mạnh chùa nào biết kinh chùa đó. Đấy là chưa kể mỗi hệ
phái còn có thể phân chia thành nhiều hệ phái nhỏ, với kinh tụng khác
nhau.
Tuy nhiên, cũng cần định thế nào
là Thống nhất ? Thống nhất không phải là quy tất cả mọi tông phái về
thành một, không thể nào ép buộc sư Nguyên thủy phải tụng kinh A Di Đà,
hay Chú Đại Bi. Thống nhất là làm nổi bật lên mẫu số chung giữa những
người Phật tử Việt Nam, làm sao cho mọi Phật tử thấy rõ rằng tất cả
mọi tông phái Phật giáo đều cùng một gốc: Đạo Phật, cùng một vị
Thầy: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ý thức này cần được thể hiện trên
mọi mặt. Riêng về mặt nghi thức tụng niệm, ngoài những kinh quá đặc
biệt của từng hệ phái, phải cùng tụng chung một số kinh, cùng có một
lời nói khi hướng về tam bảo, dựa trên những điểm tương đồng. Cùng
là Phật tử, những điểm giống nhau tất nhiên phải rất nhiều. Ranh giới
phân chia nhiều khi chỉ do ngôn từ tạo ra, cùng một ý nhưng câu chữ
dùng khác nhau.
Nếu ở mức độ "chuyên
tu" của tăng ni, sự xóa bỏ ranh giới rất có thể gặp vài khó khăn,
đối với người tại gia, sự thống nhất lẽ ra phải là chuyện đương
nhiên. Người cư sĩ, vốn là tuyệt đại đa số trong hàng "tứ
chúng", mới chỉ nguyện giữ "Ba Quy Y" và "Năm giới",
cái gốc chung cho toàn thể Phật tử, Bắc cũng như Nam Tông. Vậy, phải
làm thế nào để những người cư sĩ, đi từ chùa này sang chùa nọ, đều
có thể hòa đồng niệm phật mà không bị bỡ ngỡ, lúng túng. Theo truyền
thống Việt Nam, một Phật tử thường đi lễ nhiều chùa, dù có thể thường
tới lui chùa gần nhà, hay chùa mình quen biết. Hơn nữa, dù có thể là
"bổn đạo" của một chùa, nhưng qua tang tế, cầu an, cầu siêu của
những người quen biết thân thuộc,... vẫn có nhiều dịp đi các chùa
khác, thuộc nhiều hệ phái khác nhau. Ngoài ra, với sự phát triển của
các phương tiện truyền tin và giao thông, tương quan giữa các Phật tử cũng
như các sinh hoạt Phật sự không thể còn giới hạn trong một chùa, mà
lan rộng ra cả tỉnh, cả vùng, cả nước, cả thế giới.
Nói tóm lại, ở mức độ Nghi lễ,
chỉ có thể đi đến thống nhất thực sự khi các Nghi thức tụng niệm
có một số kinh trùng hợp, mọi người cùng tụng chung một số kinh căn bản.
c - Có nên
xét lại vấn đề tụng Chú ? Những Chú thường tụng phải chăng đúng
là "Chú của Phật"?
"Kinh thuộc về hiển
giáo, dịch nghĩa rõ ràng: Chú thuộc mật giáo, phần nhiều để nguyên văn
chữ Phạn, gọi là bí-mật thần-chú, mỗi thần-chú đều có sự hiệu
nghiệm khác nhau." (Kinh Nhật Tụng, Thành Hội PG TPHCM xuất bản, PL
2539-1995).
Định nghĩa như vậy khá rõ, kinh
phải được "dịch nghĩa rõ ràng". Ngày nay rất ít ngưới biết
chữ Nho, do đó "dịch nghĩa rõ ràng" chỉ có nghĩa là "dịch
ra tiếng Việt". Tất cả những kinh thuộc phần "hiển pháp"
phải được dịch ra chữ Việt.
Nhưng phải có thái độ như thế nào
với " Bí-mật thần chú" ? dịch Chú hay không ? hiểu Chú hay
không? Trong điều kiện truyền thống tụng niệm hiện tại, hỏi như vậy
chắc sẽ không có phương hướng giải quyết. Vì nguyên tắc của tụng
Chú thường được đưa ra là "không được nghĩ bàn", vậy làm
sao bàn?
Thời xưa, nguyên tắc "không
cho nghĩ, bàn" có lẽ được nhiều người chấp nhận, vì vậy mà vấn
đề "không nghĩ, bàn" còn đè nặng lên việc tụng niệm của Phật
Giáo cho đến ngày hôm nay. Với đà tiến triển của khoa học, nhu cầu ứng
đối với mọi luồng tư tưởng đang tràn vào xứ ta do hiện tượng
"toàn cầu hóa", sự "không cho nghĩ, bàn" không sớm thì muộn
sẽ không thể tồn tại được nữa. Cần phải bàn lại những điều
"không được nghĩ, bàn".
Dĩ nhiên, bàn luận về Chú và tụng
Chú không nhất thiết đưa đến kết luận là "không tụng Chú".
Nhưng phải hiểu cho rõ cách hành trì tụng Chú hiện tại có đúng đắn
không ? Chú được tụng có "đúng thật là Chú của Phật" không ?
Pháp môn tu hành "bí mật thần chú" có từ thời thái cổ, Phật
giáo đã tiếp thu và Phật hóa pháp môn này. Qua bao thế kỷ Phật giáo suy
vong, sự pha trộn tha hóa có thể đã xảy ra giữa "pháp môn thần chú
của ngoại đạo" với "pháp môn thần chú của Phật giáo".
Ngoài ra, có nên phân biệt việc tu
"bí mật thần chú" của các vị Mật sư trong các Mật thất, với
việc tụng Chú của quần chúng Phật tử ?
***
Như vậy, vấn đề Việt hóa nghi lễ
không chỉ là dịch kinh tụng ra tiếng Việt, mà xây quanh một số điểm:
- a-Chọn lựa và dịch kinh ra chữ Việt.
- b-Xét lại cách tụng Chú hiện nay của đại chúng.
- c-Làm sao phổ biến Nghi thức với những kinh đã
được lựa chọn và phiên dịch.
Từ thời khởi phát phong trào Việt
hóa nghi lễ, hơn 60 năm qua, ý thức cần phải Việt hóa tụng niệm mỗi
ngày mỗi phổ biến, Nghi thức Việt hóa được soạn ra rất nhiều, quyển
còn ở dạng bản thảo, quyển đã ấn tống, nhưng vì không một quyển
nào trội hơn quyển nào, nên những người thích tụng kinh chữ Nho vẫn tiếp
tục tụng kinh Nho. Nhìn về quá khứ, phong trào đã tiến được một chặng
đường khá dài. Nhìn về tương lai, mục tiêu nhắm tới vẫn còn xa vời
vợi.
Rút kinh nghiệm tiến trình phát triển
đã qua của phong trào Việt hóa Nghi lễ để thử góp một vài ý cho tương
lai, đây là mục tiêu của bài này.
Để luận bàn, dĩ nhiên tôi sẽ phải
dựa lên một số Nghi thức Việt hóa hiện có. Tôi sẽ khởi đi từ các
nghi thức "Đại Thừa" để làm thí dụ, vì không biết gì về
các nghi thức khác. Chỉ xin ghi nhận ý kiến của Thầy Thích Nhật Từ :
" Việt hóa nghi thức tụng niệm
không chỉ là niềm mơ ước của tăng ni Phật tử mà còn là nhu cầu
không thể thiếu như cây cỏ cần ánh sáng và con người cần không khí để
thở. Hiện nay, hệ phái Khất Sĩ có 2 nghi thức tụng niệm bằng tiếng Việt,
một bản lưu hành bên Ni giới và bản lưu hành bên chư Tăng. PG Nam Tông
VN cũng đã có nghi thức tụng niệm Pali-Việt. Nghi thức tụng niệm của
phái Khất Sĩ là nghi thức duy nhất bằng tiếng Việt được biên soạn
theo thể thơ lục bát và song thất lục bát. Nghi thức của PG Nam tông còn
nặng về chữ Pali, mặc dù có bản tiếng Việt đối chiếu." (Thích
Nhật Từ: "Vài suy nghĩ về thiết chế Phật giáo Việt Nam" - Trang
Nhà Đạo Phật Ngày Nay).
Chỉ dựa lên Nghi thức "Đại
thừa", đây là giới hạn của bài này. Tôi cũng sẽ không đánh giá sự
hơn kém của các quyển Nghi thức, cũng như không đề nghị ra một quyển
Nghi thức mới. Là Phật tử, mến Đạo, yêu quê hương, tôi thấy cần phải
nêu lên những khó khăn trở ngại của người Phật tử Việt Nam gặp phải
trong sự hành trì Chính Pháp hiện nay, mong chư Tôn Túc, chư Thiện Tri Thức
chung lòng chung sức hóa giải.
Qua tiến trình phát triển của
phong trào Việt hóa Nghi lễ, ta có thể phân ra hai chặng đường.
- Chặng thứ nhất từ khởi đầu
cho đến năm 1963, tiêu biểu bằng hai quyển Nghi thức : "Nghi thức của
An Nam Phật Học Hội" trước 1940 và "Nghi thức của Tổng Hội Phật
Giáo VN" được phổ biến vào năm 1961-1962. Trong giai đoạn này, vấn
đề chủ yếu được đặt ra là Việt hóa các kinh tụng niệm trước đây
bằng chữ Nho.
- Chặng thứ hai từ 1963 đến nay,
qua sự giao tiếp với Phật giáo thế giới, sự ứng phó với các trào lưu
tư tưởng lớn khác và nhất là sự hiểu biết về Kinh tạng Nguyên thủy
mỗi ngày mỗi thâm sâu, những Tăng Ni muốn Việt hóa Nghi lễ còn đặt thêm
hai câu hỏi : chọn lựa thêm bớt kinh nào, có nên tụng Chú hay không. Rất
nhiều Nghi thức Việt hóa được soạn ra, nhưng phong trào nổ tung thành
muôn mảnh.
- I - Tiến trình Việt hóa
Nghi lễ cho đến năm 1963
- A - Bối cảnh phong trào Việt
hóa Nghi lễ: Ý chí dành độc lập văn hóa, và hiểu lời Phật dạy để
ứng đối với thời đại
Từ sau thế chiến thứ nhất,
Nho giáo dần dần chìm vào lãng quên, Tây học phát triển, sách báo bằng
tiếng quốc ngữ ngày càng phổ biến, tin tức từ Pháp, Nhật Bản, Trung
Quốc, từ quốc tế tràn vào, một cuộc "cách mạng thông tin" nổ
ra tại Việt Nam. (2)
Tình hình đấu tranh tư tưởng giữa
các khuynh hướng chính trị, văn hóa náo nhiệt hơn bao giờ hết. Các tổ
chức chính trị, văn hoá theo khuôn mẫu phương tây đua nhau ra đời, ra sức
tập hợp quần chúng, tuyên truyền, viết báo. Những cuộc bút chiến gay gắt
nổ ra khắp nơi, với những đề tài như "Duy Tâm, Duy Vật",
"Tôn Giáo và Cách mạng", "Tôn Giáo là thuốc phiện của nhân
dân", "Có Thượng Đế hay không", "Tìm đâu ra con đường
cứu nước"... Đạo Phật, một trong những yếu tố chính cấu thành của
nền tư tưởng dân tộc, không thể đứng ngoài cuộc tranh luận. Một số
thách thức được đặt thẳng cho người Phật tử . Nhà văn Hải Triều hỏi:
"Giá đạo Phật đúng với chân lý, đạo Phật có thể cứu đời
được, chắc không phải chờ đến ngày nay" (Trần Văn Giàu: Sự
Phát Triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng
tháng Tám, NXB KHXH, Hà Nội 1975, tập II, trang 284). Người Phật tử phải
trả lời sao đây ?
Nhìn lại mình, người con Phật không
khỏi đau lòng: Một tấm màn u minh dày đặc, hậu quả của bao năm nô lệ,
đã che lấp ngọn đuốc của Như Lai. Những người hiểu đạo đếm trên
đầu ngón tay, Tăng sĩ, những ông Thầy, những người có bổn phận dẫn
dắt giảng dạy Phật tử chỉ còn là những Thầy cúng, dùng kinh kệ làm
phương tiện kiếm ăn, dùng nghi lễ để giàn cảnh loè bá tánh. (3)
Tuy vậy đó đây, trong đêm dài tăm
tối cũng le lói những ngọn đuốc trí tuệ, cao tăng dù ít nhưng không phải
không có. Những thức giả nghĩ rằng Đạo Phật có thể đem lại an lành
cho dân tộc đã quy tụ chung quanh một số vị cao tăng, tại Bắc kỳ có
thiền sư Thanh Hanh, tại Trung có Thiền sư Giác Tiên... Họ ra báo, viết
sách, đối đáp với ngoại đạo. Nhưng dù sao, những lời đối đáp sẽ
chỉ là lời nói sáo nếu thực lực mình không có. Phải hiểu đạo, sống
đạo, đem lời dạy của đấng Như lai đến mọi người, mọi nhà.
Rất sớm, mọi người thấy hiểu
kinh là điều tất yếu. Nhưng nền Phật-học bằng tiếng Việt chưa có
mà quần chúng đã từ từ bỏ chữ Hán, do đó vấn đề dịch kinh được
đặt ra. Trong "Lời Tựa" quyển "Phật-Giáo Khái-Luận", tiếp
theo lời cư sĩ Lê Đình Thám đã được nhắc tới ở trên, Thầy Mật Thể
viết:
"Tôi thiết nghĩ: Phật-giáo-truyền
qua Việt-Nam ta, đã có cái lịch-sử gần hai ngàn năm, mà sự phiên-dịch
kinh điển, dựng thành một nền Phật-Học bằng thứ tiếng bản quốc thật
chưa có, đều đó thật đáng buồn ! - cũng vì thế mà Phật-giáo ở nước
ta thấy cứ ũng-trệ mãi." ( "Phật-Giáo Khái-Luận" - Huỳnh Sĩ
Phục, Học Tăng Mật Thể dịch -Huế, 1939).
Ngoài nhu cầu truyền bá tư tưởng
của Như lai đến quảng đại quần chúng, lòng tự ái dân tộc đang tìm
đường dành lại độc lập cũng là nguyên nhân thúc đẩy mọi người Việt
hóa những sinh hoạt tập thể: Nói tiếng Việt tránh pha Tây Tầu, ca hát bằng
tiếng Việt, tụng kinh bằng tiếng Việt...
Lê Lừng đã kể lại bối cảnh
thành lập Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân chủa Gia Đình Phật tử, như
sau:
(...) " Hồi đó, học sinh, kể
cả người lớn, những câu chuyện trao đổi thường ngày với nhau hay chen
vào tiếng Pháp như toi, moi, vous v.v... Chúng tôi (Gia đình Phật Hóa Phổ)
định rằng đã dùng tiếng Pháp thì phải nói cho hết câu, còn câu tiếng
mẹ đẻ không được chen vào tiếng Pháp, trừ những tiếng đã Việt hóa
từ lâu. Mỗi anh em chúng tôi đều giữ một cuốn sổ, ghi việc thiện và
ghi lỗi nói hai thứ tiếng. Việc nầy thực hành trong tinh thần tự giác.
Trong buổi họp hàng tuần, đem ra kiểm lại, xem như điểm "thi
đua".
(...) "... Vào những Năm 1930,
1940, đa số người muốn hát cho vui, đều hát theo bài hát tiếng Pháp. Người
lớn thì Madelon, J'ai deux amours... Bạn trẻ như hướng đạo sinh thì Chanson
D'alouette, Frère Jacques v.v... đến như bài hát chánh thức của hướng đạo
cũng bằng tiếng Pháp ( Si nous voulons être forts v.v...), cho đến ngày họp hướng
đạo toàn quốc tại Huế (hình như là Tứ Tây, tôi quên) trưởng Tạ
Quang Bửu mới cất tiếng hát "Muốn nên người cường tráng ngày
nay..." trước mặt vua Bảo Đại, khăn đóng vàng, áo dài vàng đến dự
lễ, bắt đầu cho những bài hát bằng tiếng mẹ đẻ cho hướng đạo
sinh.
("Những ngày đầu của Gia Đình
Phật Hóa Phổ", hồi ký của Lê Lừng, Hồ Phùng sưu tầm, trang nhà
Ái Hữu Vĩnh Nghiêm).
Chính những phương châm "Học
Phật, hiểu lời Phật dạy" và "Người Việt nói tiếng Việt"
là bối cảnh và nguyên nhân chính đưa đến việc Việt hóa nghi lễ. Cũng
như tinh thần muốn dành lại độc lập về mặt văn hóa, tư tưởng, phục
hồi thống nhất dân tộc (hồi đó chia thành Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Trung Kỳ
-trong hành chánh cũng như trong tư tưởng) đã đưa đến ý chí thống nhất
các tổ chức Phật Giáo, thống nhất Bắc Tông và Nam Tông. Hẳn những lời
lẽ "Phật Giáo Việt Nam thống nhất Bắc Nam Trung..." (Bài
hát "Phật Giáo Việt Nam") và "Nhà Việt Nam, Nam Bắc Trung
sáng trưng Á Đông..." (Bài hát "Nhà Việt Nam") có cùng một
hơi hướng, âm hưởng ? Không phải là chuyện tình cờ khi một trong những
người có công đầu trong việc xây dựng Đại Tạng Kinh Việt Nam, Thầy
Minh Châu, trước đây là huynh trưởng của Gia Đình Phật Hóa Phổ.
Trong bối cảnh này, Phong trào Việt
hóa Nghi lễ hình thành, và có lẽ do đó, quyển "Nghi thức Tụng Niệm"
của Annam Phật-Học-Hội ra đời.
Hầu hết các chùa chiền Đại Thừa
Việt Nam đều tụng kinh trích từ quyển Thiền Môn Nhật Tụng đã lưu hành
từ rất lâu bên Trung Quốc. Những bài tụng Việt được dịch ra từ đấy.
- B - Bước đầu của phong trào
Việt hóa Nghi lễ, quyển "Nghi thức Tụng Niệm" của Annam Phật-Học-Hội
- 1-Ý nghĩa quyển Nghi thức
Tôi được tham khảo quyển "
Nghi thức Tụng Niệm của Annam Phật-Học-Hội", không thấy đề rõ năm
nào. Nghi thức được in tại nhà in Đắc Lập, Huế, bìa đầu là chữ Việt,
bìa lưng là chữ Nho, giá một hào 0$10, bên trong có quảng cáo cho báo Viên
Âm, với câu "Ngài nào mua Viên-Âm nguyệt-san thì xin gởi thơ và mandat
đề tên M. Lê-đình-Thám Médecin du cadre latéral Hué". Có lẽ quyển
Nghi thức này được xuất bản vào những năm 1940-1944 (khoảng thời gian
thành lập đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục và Gia Đình Phật Hóa Phổ
).
Trong Quyển kinh này, mỗi bài kinh
đều được ghi chép dưới cả 3 hình thức:
- a) được dịch hoàn toàn ra chữ Việt,
- b) vẫn còn giữ lời Nho nhưng phiên âm bằng Quốc
ngữ,
- c) viết bằng mẫu chữ Hán.
- (Và dĩ nhiên các bài Chú không được dịch ra).
Công dụng của quyển kinh này là
có thể đáp ứng được cả ba quần chúng, tùy theo căn cơ, ý thích, có
thể tụng niệm bằng một trong ba thể loại kể trên.
Theo bối cảnh của việc tụng niệm
vào thời đó, đây là bước tiến quan trọng đầu tiên, đặt nền móng
cho việc tụng niệm bằng tiếng Việt sau này. Vì muốn tụng kinh bằng chữ
Việt, trước hết phải có kinh tụng được dịch ra chữ Việt. Những
người tham gia phong trào "Chấn Hưng Phật Giáo" dựa lên quyển
nghi thức này (hay những quyển tương tự - tôi không dám chắc đây là quyển
khinh "chữ Việt" duy nhất, hay đầu tiên, vào thời đó) mà khơi
động phong trào tụng chữ Việt trong các khuôn hội, niệm Phật đường,
các Gia Đình Phật tử...
Quyển Nghi thức có lẽ được truyền
bá khá rộng, ít nhất tại miền Trung, qua các tổ chức khuôn hội, Gia Đình
Phật tử.... Quyển tôi được tham khảo đã là kinh nhật tụng của một
Phật tử tại Nha Trang.
2- Nội dung quyển
Nghi thức
Đứng trên tiêu chuẩn "Việt
hóa Nghi lễ ", quyển Nghi thức có thể chia làm 3 phần.
a) Phần đầu tiên: Nghi-thức Tụng-niệm
Phổ-thông, hoàn toàn bằng chữ Việt, ngoài ba câu Chú rất ngắn (Chú Tịnh
pháp giới, Chú Quy y, Chú Lục-tự-đại-minh). Với lời dặn cuối chương
: "Nghi thức tụng niệm phổ thông nầy để tụng niệm hằng ngày một
thời, hai thời hay ba thời, trong buổi sớm, buổi trưa hay buổi tối... Một
điều cốt yếu là trong khi tụng niệm, phải hết lòng kính cẩn, để ý
nơi câu tụng niệm mới có thiệt ích..."
b) Phần hai gồm "Nghi-thức tụng
niệm trong các buổi công-phu tu Tịnh-Độ", "Nghi thức tụng niệm
khi làm lễ cầu siêu", "Nghi thức tụng niệm cầu an".
Mỗi trang kinh được chia làm hai, nửa
trên là kinh chữ Nho (viết theo Quốc ngữ ), nửa dưới là kinh dịch ra chữ
Việt. Người trì tụng có thể tùy hỷ tụng niệm bằng chữ Nho hay chữ
Việt.
c) Phần ba hoàn toàn bằng chữ Nho,
viết bằng mẫu chữ Hán.
Nghi thức này, xét về nội dung, văn
phong, có thể coi như tiền thân của quyển "Nghi thức Tụng Niệm"
do Tổng Hội Phật Giáo phổ biến năm 1961. Nó đặt những viên đá đầu
tiên cho việc Việt Hóa kinh tụng sau này.
- C - Bước thứ hai, vững chắc :
"Nghi thức Tụng Niệm" của Tổng Hội Phật Giáo, 1961
- 1-Ý nghĩa và sự phổ biến của
quyển Nghi thức
Cao điểm của phong trào "Việt
hóa Nghi lễ" có lẽ là năm 1961, khi Tổng Hội Phật Giáo cho phổ biến
quyển "Nghi thức Tụng Niệm":
"Trích Thông - Bạch số 9
T.H.P.G. / U.V.N.L. đề ngày 29-12-1961 của Thượng-Tọa Ủy-viên Nghi-lễ Tổng-hội
Phật-Giáo Việt-Nam, gởi 3 Tập-đoàn Cư-sĩ: Trung, Nam và Bắc-Việt (tại
Miền Nam). (...)
"Vậy, yêu-cầu quý Tập-đoàn
hoan-hỷ thông tư cho các Tỉnh-hội, Chi-hội, Khuôn-hội và toàn-thể hội-viên
trong Tập-đoàn... chỉ nên dùng cách tụng-niệm đúng theo các nghi trong cuốn
Nghi-Thức Tụng-Niệm (nầy) do Tổng-hội Phật-Giáo Việt-Nam xuất-bản mà
thôi". (...)
(Có gởi Bản sao cho 3 Tập-đoàn
Giáo-hội Tăng Già Trung, Nam và Bắc-Việt tại Miền Nam, để yêu-cầu chỉnh-đốn
Nghi-lễ cho chu đáo). (Trích từ "Nghi thức Tụng Niệm", Tổng Hội
Phật Giáo Việt Nam Xuất Bản,Hội Phật Giáo Nam Việt Ấn Hành )
"Nghi thức Tụng Niệm" này
có rất nhiều bài tán tụng sám bằng chữ Việt như: "Cúng Hương Tán
Phật", "Kỳ Nguyện", "Quán Tưởng", "Sám Nguyện","Tự
Quy", "Hồi Hướng"... và được sự Chứng Minh của Chư Hòa Thượng
Thích Tịnh Khiết, Thích Giác Nhiên, Thích Khánh Anh, Thích Giác Nguyên.
Mặc dầu còn có kinh bằng chữ Nho
như "kinh A Di Đà", "kinh Phổ Môn", "Ma Ha Bát Nhã Ba La
Mật Đa Tâm Kinh", và Chú bằng chữ "Phạn-Việt-Hoa hóa" như
"Chú Đại-Bi", ... dù chưa được Việt-hóa một cách triệt để,
quyển nghi thức này là một biến cố lịch sử bởi tính cách phổ biến
quy mô của nó trong phong trào tụng kinh bằng chữ Việt, được 3 tập Tập-đoàn
Cư Sĩ và Giáo-hội Tăng Già Trung, Nam và Bắc-Việt tại Miền Nam phổ biến.
2- Nội dung Nghi
thức
Qua cách sắp xếp tụng niệm, kinh
được tụng, phần đầu quyển Nghi thức này gần giống quyển Nghi thức
của An Nam Phật Học Hội. Toàn quyển đầy đủ hơn nhiều, bao gồm tất
cả các nghi lễ chính :
- Nghi thức Tịnh Độ - Nghi thức Cầu
An - Nghi thức Sám Hối - Nghi thức Cầu Siêu - Nghi thức Lễ Xuất Gia - Nghi
thức Lễ Khánh Đản - Nghi thức Lễ Vu Lan - Nghi thức Lễ Vía A-Di-Đà,
Nghi thức Lễ Thành Đạo.
- Kinh A-Di-Đà (Nho), Kinh Phổ
Môn (Nho), Bài Kể-Thủ (Việt), Kinh Vô-Thường(Việt),
Kinh Bát-Đại Nhân-Giác(Việt), Trì tụng Chú Chuẩn-Đề (Việt),
Các Nghi Lễ nói chung đều có bối
cảnh tương tự: Niệm hương lễ bái, Tụng kinh, Cầu nguyện và hồi hướng.
Tôi tạm dùng Nghi thức Tịnh Độ để làm thí dụ:
a) Niệm hương lễ bái: Tịnh Tam
nghiệp chơn ngôn (chú) / Tịnh Pháp chơn ngôn (chú) / Cúng hương
tán Phật (Việt) / Kỳ nguyện (Việt) / Quán tưởng (Việt)
/ Đảnh lễ
b) Tụng kinh : Chú Đại Bi (chú)
/ Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Nho) / Sám Nguyện (Việt) /
Đắc sanh Tịnh Độ (chú)
c) Hồi hướng : Tự Quy và Đảnh Lễ
(Việt) / Hồi hướng chúng sanh (Việt).
3- Rút kinh nghiệm
phổ biến kinh
Tính cách quyết định của sự
truyền bá quyển Nghi thức nằm ở sự năng nổ của các Tăng Ni, thấm nhuần
tinh thần "Chấn Hưng", ý thức của các cư sĩ trong các tổ chức
khuôn, hội, Gia Đình Phật tử. Thật vậy, bá tánh thường thường tin
theo lời dẫn dắt của Tăng Ni trong tất cả mọi Nghi lễ. Khi Tăng Ni
"niêm hương lễ bái" bằng tiếng Việt, rồi phát các bài kinh bằng
tiếng Việt cho Phật tử, thì chắc chắn họ sẽ tụng niệm theo bằng Tiếng
Việt. Cuộc tranh cãi, nếu có, giữa tụng kinh bằng chữ Việt hay chữ
Nho, xuất phát chính yếu do sự khác biệt về Nghi Lễ giữa các Tăng Ni,
giữa chùa này với chùa kia. Đa số Phật tử thường đi nhiều chùa, do đó
bị dằng co.
Quyển "Nghi thức Tụng Niệm"
của Tổng Hội PG, dựa lên sự đồng thuận của nhiều Tổ Chức Giáo
Hội, nói cách khác dựa lên một hình thức giáo quyền tương đối,
nên từ từ trở thành một quyển kinh được nhiều người tụng nhất.
Sau "biến cố" này,
"phong trào Việt hóa Nghi lễ" có hướng khựng lại: Không có một
phong trào quy mô tương tự nào tiếp nối. Thậm chí, nhiều vị Tăng lại
dựa vào quyển kinh này để ngăn chận không cho Việt hóa hơn nữa, với lập
luận "Những kinh điển khác được dịch Việt không nằm trong quyển
kinh này, vậy không được tụng".
Dù sao, bên cạnh quyển "Nghi thức
tụng niệm" nói trên, còn rất nhiều quyển "nghi thức" khác
hoàn toàn bằng chữ nho, chữ "Phạn-Việt-Hoa hóa" đang lan tràn rộng
rãi.
II - Chặng đường
thứ hai, từ năm 1963, nhiều Nghi thức chữ Việt ra đời nhưng vấn đề lại
đặt ra: Việt hóa Nghi lễ và lựa chọn Kinh tụng
Tại miền Nam, cùng với phong trào
Việt hóa kinh điển, các tổ chức Phật Giáo, Giáo Hội, Khuôn, Hội, Niệm
Phật Đường, Gia Đình Phật tử... mỗi ngày một phát triển, một vững
chắc, dù bị kỳ thị, đàn áp. Năm 1963, một chính quyền sắt đá, vì
không ý thức rõ sức mạnh này, đã sụp đổ.
Nhưng sau năm 1963, các tổ chức Phật
Giáo dần dần suy yếu, "giáo quyền" tan tành. Phần do chiến tranh
leo thang, phần vì Tăng Ni bị lôi cuốn vào thế cuộc xoay vần, không còn
làm chủ được định hướng của mình. Năm 1966-1967, cuộc khủng khoảng
nội bộ càng trở nên trầm trọng, Giáo Hội nổ tung thành hai phe "Ấn
Quang" và "Việt Nam Quốc Tự". Trong điều kiện này, tồn tại
dù trong chia rẽ đã là một kỳ công, đừng nói gì đến phát triển, chấn
hưng. Kết quả đáng kể nhất trong thời điểm này, do một vài Tôn đức
thực hiện, là dịch thuật kinh tạng Pali và kinh tạng chữ Hán, đặt nền
móng cho việc thực hiện "Đại Tạng Kinh Việt Nam" sau này.
Về Việt hóa Nghi lễ cũng vậy,
phong trào nói chung bị tê liệt, nếu không nói là thoái hóa. Tuy nhiên, kể
từ năm 1950 (Hội Nghị PG Thế Giới tại Colombo), PG VN tiếp xúc mỗi ngày
mỗi nhiều với Phật Giáo thế giới ,nhất là Phật Giáo Nguyên Thủy, qua
những hội nghị quốc tế, qua các tăng ni xuất ngoại du học sang Ấn Độ
cũng như sang Nhật Bản hay các nước Âu Mỹ. Với những tương quan quốc
tế này, cũng như qua sự phổ biến công trình dịch thuật của Thầy Minh
Châu bắt đầu vào cuối thập niên 60, sự hiểu biết về Kinh tạng
Nguyên thủy mỗi ngày mỗi thâm sâu, Hệ phái Nguyên thủy được chư Tăng
Bắc tông biết nhiều hơn. Sự kiện này ảnh hưởng sâu đậm đến phong
trào Việt hóa Nghi lễ sau này. Cho đến năm 1961, những Tăng Ni trong phong
trào Việt hóa Nghi lễ chỉ biết đến kinh Đại thừa, do đó Việt hóa
Nghi lễ chỉ có nghĩa là phiên dịch quyển Thiền Môn Nhật Tụng có sẵn
của Trung Quốc. Kể từ nay, vấn đề được đặt ra: hội nhập Kinh tạng
Nguyên thủy, thực sự thống nhất Nam Bắc Tông.
Cho đến ngày hôm nay, một số dấu
hiệu đáng mừng đang thấp thoáng. Rất nhiều Nghi thức Tụng Niệm hoàn
toàn bằng tiếng Việt ra mắt, trong đó phải kể Nghi thức của ba trung
tâm: Trúc Lâm Đà Lạt (và các tự viện trực thuộc), Làng Mai (và các tự
viện trực thuộc), Trúc Lâm Paris (Pháp) . Gần đây nhất, vào năm 2000, xuất
hiện quyển Nghi thức Tụng Niệm do Ban Văn Hóa Tỉnh Hội Phật Giáo Tỉnh
Thừa Thiên-Huế thực hiện. Ngoài ra, qua Trang nhà Đạo Phật Ngày Nay, tôi
cũng được biết đến những Nghi thức do Thầy Nhật Từ soạn năm 1994 và
được chùa Giác Ngộ ấn tống lần đầu vào năm 1994 (Kinh Nhật Tụng) và
cuối năm 1998 (Cầu an, Cầu siêu).
Tôi nói đến những nghi thức này,
không phải vì nghĩ rằng đây là những nghi thức duy nhất được Việt hóa,
hoặc là những nghi thức "hay" nhất. Chắc chắn còn rất nhiều
Nghi thức Việt hóa khác đang ở dạng bản thảo hay đã được ấn tống,
nhưng đây là những nghi thức được một số chùa, đạo tràng tụng niệm
trong một thời gian khá dài, khá phổ biến, và theo tôi nghĩ, có thể tiêu
biểu cho 5 đường hướng chính hiện nay nhằm trả lời câu hỏi : làm sao
Việt hóa Nghi lễ ?
Trong 5 Nghi thức này, có Nghi thức
trong đó tất cả các phần Nhật tụng lẫn Cầu an, Cầu siêu... được in
thành một sách, có Nghi thức trong đó các phần được phân ra thành nhiều
quyển (như trường hợp Nghi thức chùa Giác Ngộ), có quyển không có Nghi
thức Cầu an, Cầu siêu (như Nghi thức Trúc Lâm Đà Lạt). Về danh xưng,
khi nói đến một Nghi thức, thí dụ "Nghi thức chùa Giác Ngộ", ta
chỉ định chung tất cả các phần Nhật Tụng, Cầu an, Cầu siêu... dù có
thể mỗi phần được soạn, in thành sách riêng. Mục tiêu của bài này
là tìm hiểu đường hướng soạn Nghi thức chứ không phải phân tách cấu
trúc từng quyển.
1 - Nghi thức
Trúc Lâm Đà Lạt
Nghi thức tham khảo : "Nghi-Thức
Sám-Hối Sáu-Căn", Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt, 1994
a-Ý nghĩa
Nghi thức tụng kinh hai thời: buổi
trưa (Tâm Kinh Bát Nhã) và buổi tối (Nghi thức Sám Hối - Vua Trần Thái
Tông) đã được dịch hoàn toàn ra tiếng Việt và được trì tụng tại
Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt. Về quyển kinh này, Hòa Thượng Thanh Từ nói
:
"Điều đó giúp người đọc và
người nghe dễ hiểu, dễ thâm nhập... Trong sự chyển dịch buổi đầu không
tránh khỏi chói tai người nghe (vì chưa quen tai) và còn nhiều thiếu sót,
song chúng tôi bạo dạn tạo một cái nhơn nhỏ, mong sau này sẽ đâm chồi,
nảy tược nhiều hơn... Chúng tôi cố làm sống lại những cái hay, cái đẹp
của tổ tiên mình, đồng thời Việt hóa nghi thức tu hành để tránh cái
lỗi tha hóa lâu nay chúng ta vấp phải" ((HT Thích Thanh Từ - Diễn văn
khai mạc lễ khánh thành Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt - 1994). (theo Lê Trọng
Cường: "Dịch, Tụng, Giảng Kinh và tiến hành nghi lễ Phật Giáo bằng
tiếng Việt: Một Cuộc Cách Mạng Lớn Lao Và Bức Thiết" - Phật Giáo
Trong Thế Kỷ Mới, Tuyển tập I - trang 149- NXB Giao Điểm, Hoa Kỳ,1996)).
Nói chung, Nghi thức này là phương
tiện tu tập cho những Phật tử, tăng sĩ hay cư sĩ, tu thiền trong một thiền
viện, tịnh thất, không thấy kinh điển phục vụ việc "đời"
như cầu siêu, cầu an...
Đặc điểm của quyển kinh này,
có lẽ là tinh thần vô thường vô ngã của chính nó. Hòa thượng Thanh Từ
soạn kinh với phong cách của một Thiền Sư, đã tuyên bố " chúng
tôi bạo dạn tạo một cái nhơn nhỏ, mong sau này sẽ đâm chồi, nảy tược
nhiều hơn...". Thầy không cố tình tạo ra một quyển kinh "đầy
đủ" mọi bề. Thầy ươm hạt trồng cây, cây sẽ đâm chồi, nẩy lộc,
ra cành ra lá.
b- Nội dung
Nghi-Thức của Thiền Viện Trúc
Lâm Đà Lạt gồm có:
- Nghi-Thức Sám Hối Sáu-Căn,
Kệ Nguyện Hương, Tán Phật, Tán
Pháp, Tâm-Kinh Trí-Tuệ Cứu Kính Rộng Lớn, Lễ Phật Tổ, Bài Sám Hối
Sáu Căn, Chí Tâm Phát Nguyện, Chí Tâm Hồi Hướng, Phục Nguyện, Hồi Hướng,
Ba Tự Qui Y.
- Nghi-Thức Ngọ Trai,
Cúng Đại Bàng, Năm Pháp Quán,
Tâm-Kinh Trí-Tuệ Cứu Kính Rộng Lớn, Phục Nguyện.
Tất cả các kinh đều bằng tiếng
Việt. Trong "Tâm-Kinh Trí-Tuệ Cứu Kính Rộng Lớn" còn giữ Chú
"Yết đế, Yết đế, Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Bồ Đề Tát
Bà Ha".
2 - Nghi thức
Làng Mai
Nghi thức tham khảo : Nghi thức Tụng
Niệm toàn bằng quốc văn, NXB Lá Bối, San Jose 1989.
Khi bắt đầu viết bài này (giữ塍 năm 2000), tôi được biết quyển nghi thức đã được
in lại, nhưng không biết trong lần tái bản có sửa đổi nhiều không ?
Dù sao nếu các kinh có được thêm bớt sắp xếp lại, tinh thần quyển
Nghi thức có lẽ không thay đổi.
Ngoài ra, Tôi cũng được tham khảo
quyển "Nhật tụng Thiền môn năm 2000".
a-Ý Nghĩa
Dựa theo phong cách dịch thuật,
cách dùng từ, nội dung, nó hoàn toàn khác biệt với những nghi thức
thông dụng từ trước, kể cả Nghi thức tụng niệm do Tổng Hội Phật Giáo
phổ biến những năm 1961, 1962.
Chữ堦quot;Phật" mọi người quen dùng trong tụng niệm, đã
được thay bằng chữ "Bụt" thường được biết nhiều hơn trong
văn chương dân gian, hay trong phân tách khoa học ngôn ngữ, Bụt = Boud của
Bouddha. Dĩ nhiên các bài kinh đều "toàn bằng quốc văn". Kinh Bát
Nhã được dịch hoàn toàn ra tiếng Việt, về Chú "Yết đế yết đế,
Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha" thì được giữ
"Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha". Đây là một câu có vẻ là
Chú nhưng không phải là Chú, vì đọc lên, mọi người đều hiểu, kể cả
những người Mỹ, Pháp.... Trong một số bài, có thêm một số câu tụng bằng
Pali như Namo Buddhaya (Nam Mô Phật), Buddham Saranam Gacchami (con xin quy y Phật)...
là những câu tụng tam quy quốc tế của truyền thống Nguyên Thủy. Trong
các phần "Nghi thức Hộ Niệm Siêu Độ" và "Nghi thức Sám Hối"
có một vài Chú như : "Chơn Ngôn Diệt Tội của bảy đức Bụt",
"Chơn Ngôn Quyết Định Vãng Sanh", "Chơn ngôn biến thực"
và "Chơn ngôn cúng dường phổ biến".
Nói chung, Nghi thức này muốn dung hợp
"Thiền, Tịnh, Mật". Tuy vậy, những Chú được tụng (tương đối
ít) là những chú ngắn, không thấy Chú Đại Bi.
Về Nhật tụng, "Trong sách Nhật
Tụng Thiền Môn Năm 2000 này, hai buổi công phu ở chùa đã được thay đổi
để nội dung được giàu có hơn về cả hai phía thiền tập và kinh văn.
Thay vì ngày nào cũng tụng những kinh như nhau, ta được trì tụng mỗi
ngày một hay nhiều kinh khác nhau, do đó những kinh điển căn bản về thiền
tập đều được có dịp trì tụng và học hỏi. (...) Sách này cống hiến
nhiều kinh khác nhau cho bảy ngày trong tuần, và những tiết mục của buổi
công phu cũng đầy đủ như trong nghi thức truyền thống, chỉ có khác hơn
là nghi thức mới được trì tụng hoàn toàn bằng Quốc ngữ". ( trích
"Lời nói đầu" của "Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000")
Lời kinh, nghĩa kinh, nói chung dĩ
nhiên là hay, vì người soạn kinh vừa là một Thiền Sư học lực uyên
thâm, vừa là một nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà khơi động phong trào...
Tuy vậy, ta có thể tự hỏi, không biết có cách nào "bắc cầu"
những kinh này với đa số Phật tử còn theo lối tụng niệm cũ được không?
Không lẽ chỉ "bắc cầu" bằng dăm ba câu Chú ?
Nghi thức cố gắng kết hợp Nam Bắc
Tông, ngoài những Kinh Đại thừa, còn có Kinh trích từ Tạng Nguyên Thủy
như Kinh Thương Yêu... và trong một số lễ có đọc Tam Quy bằng Pali. Các
phần Tịnh Độ Di Đà, Phổ Môn khá nhẹ.
Tăng Ni, Phật tử theo hệ phái của
Làng Mai khá đông tại hải ngoại, với một trung tâm đào tạo quốc tế
tại Pháp.
b-Nội dung (bản
1989)
Nghi thức bao gồm: Công Phu Hàng
Ngày, Hộ Niệm Siêu Độ, Cài Hoa Vu Lan, Truyền Thọ Tam Quy, Hộ Niệm Hôn
Lễ, Lễ Tắm Bụt, Tụng Giới, Sám Hối. Phần Kinh Văn có: Kinh Thương Yêu,
Kinh Phước Đức, Kinh Anuradha, Kinh Tám Điều Giác Ngộ, Kinh Người Biết sống
một mình, Kinh Trung Đạo Nhân Duyên, Kinh Pháp Ấn, Kinh Giáo Hóa Người Bệnh.
Phần Phụ Lục: Thi Kệ Nhật Dụng, Nghi thức Ăn Cơm Im Lặng, Bài Sám Quy
Mạng.
Thí dụ : Nội dung Nghi thức
Hộ Niệm Siêu độ ( chỉ trong Nghi thức này mới có nhiều Chú, rất hiếm
trong các Nghi thức còn lại ) : Thiền hành (30 phút)/ Thiền tọa (12
phút)/ Dâng hương/ Tán Dương/ Lạy Bụt/ Kệ mở kinh/ Tâm kinh Bát Nhã/
Khai thị / Xướng lễ/ Khai thị/ Niệm Bụt/ Trì chú (Diệt tội,Vãng Sanh)/
Cúng dường (Chú biến thực, biến thủy, cúng dường phổ biến), Kệ cúng
dường/ Quy Nguyện/ Quay về nương tựa/ Hồi hướng.
c. Nội dung kinh
"Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000"
Thứ 2, Sáng: Kinh Kim Cương, Kinh
Thương yêu - Chiều : Kinh Mười Nguyện Phổ Hiền, Kinh Diệt Trừ Phiền Giận
/ Thứ 3, Sáng : Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Chiều : Kinh Sức Mạnh Quan Âm,
Tám Điều Giác Ngộ của Các Bậc Đại Nhân / Thứ 4, Sáng : Kinh Bốn Lĩnh
Vực Quán Niệm - Chiều: Kinh Trung Đạo Nhân Duyên, Kinh Soi Gương / Thứ 5,
Sáng: Kinh Người Biết Sống Một Mình - Kinh Bát Nhã Hành - Chiều : Kinh Ba
Cửa Giải Thoát / Thứ 6, Sáng: Kinh Người Bắt Rắn - Chiều: Kinh A Di Đà
/ Thứ 7: Kinh Độ Người Hấp Hối - Chiều: Kinh Phước Đức, Kinh Tinh Yếu
Bát Nhã Ba La Mật Đa/ Chủ Nhật, Sáng: Kinh Tuổi trẻ và Hạnh Phúc, Kinh Hải
Đạo Tự Thân - Chiều : Sám Nguyện
Ngoài ra trong Nghi thức này còn có
các phần: Chúc Tán Rằm và Mồng Một, Chúc Tán Tổ Sư, Cúng Ngọ, Thọ
rai, Truyền Giới Sa Di, Tụng Giới Sa Di.
3 - Nghi thức
Trúc Lâm Paris
Nghi thức này được soạn thảo từ
năm 1966, khi Hòa thượng Thiện Châu bước chân tới Pháp. Từ đó đến
nay, Nghi Thức được cải biến đôi ba lần, bản cuối cùng được ấn tống
năm 1998. Nghi thức hoàn toàn bằng chữ Việt; trong phần tam quy ngũ giới có
ghi thêm chữ Pali. Trong các buổi lễ của người Việt, chỉ đọc tam quy
ngũ giới bằng tiếng Việt. Trong buổi lễ có nhiều người xứ khác, hay
có nhiều Phật tử tu theo Tông phái Nguyên Thủy thì đọc chữ Pali.
a - Ý nghĩa
Tinh thần quyển kinh được nói rõ
trong phần Ghi Chú và trong lá thư Thầy Thiện Châu trả lời một Phật tử,
lá thư được đăng trên báo Tin Phật của Hội PTVKHN.
- Thứ nhất, quyển kinh này
chỉ có tính cách giai đoạn, để chờ đợi một quyển "nghi
thức lễ Phật khác sẽ được soạn ra để thay thế khi tinh thần thống
nhất của Phật tử Việt Nam được vững chắc hơn".
Trong phần "Ghi Chú" của
quyển nghi thức, Thầy Thiện Châu viết:
"Phật tử Việt Nam phần đông
tu học theo Bắc tông và chịu nhiều ảnh hưởng của Tông Tịnh Độ. Một
số ít theo Nam Tông. Hiện nay Phật tử Việt Nam đang xây dựng nền Phật
giáo thống nhất không phân biệt tông phái và địa phương.
Để Phật giáo Việt Nam được thật
sự thống nhất, nghi lễ phải được tổ chức trong tinh thần tổng hợp
và thể hiện đạo lý nguyên thủy của Phật.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu,
người ta chỉ có thể xếp đặt thế nào để nghi lễ bớt phần giáo lý
tông phái mà vẫn không cắt đứt với phong tục cổ truyền.
Nghi thức lễ Phật này được soạn
ra trong tinh thần ấy và sẽ được dùng trong giai đoạn đầu tiên này mà
thôi.
Mong rằng một nghi thức lễ Phật
khác sẽ được soạn ra để thay thế khi tinh thần thống nhất của Phật
tử Việt Nam được vững chắc hơn."
- Thứ hai, Quyển kinh nhằm
hai mục tiêu: triệt để "Việt hóa nghi lễ" và thực sự "thống
nhất Bắc Nam tông".
Thầy Thiện Châu đã trả lời câu
hỏi của một Phật tử trên báo Tin Phật, số 13, ngày 14-3-1970 (Pháp):
Câu hỏi :
" Paris, ngày 24-2-1970
Kính bạch Thầy,
(...) Có điều con hơi thắc mắc là
tại sao Thầy không cho tụng kinh theo nghi thức ở bên nhà mà lại cho tụng
theo nghi thức mới, trong đó có tam qui ngũ giới bằng tiếng Pali và kinh Chơn
Hạnh phúc và kinh Từ bi bằng tiếng Việt. Con tụng có hơi khó vì mới tụng
lần đầu. Chỉ có bài sám hối bốn hoằng thệ nguyện, tam tự qui và hồi
hướng công đức là con tụng theo một cách dễ dàng thôi. Con thắc mắc
điều nầy là vì bên nhà hiện nay tất cả ai cũng tụng theo nghi thức mà
như Thầy biết là có chú Đại bi, có chú Chuẩn đề, có kinh Bát nhã. Đó
là theo Bắc Tông. Còn Nam Tông thì con nghe rằng các Phật tử tụng kinh
Pali. Như vậy, ở đây Thầy theo Nam Tông hay Bắc Tông vì Thầy cho tụng cả
Pali mà cả bài Đệ tử Kính lạy và Tứ hoằng thệ nguyện vv... Và tại
sao lại tụng kinh Chơn Hạnh phúc, kinh Từ Bi mà không tụng kinh Di đà, Phổ
môn vv... (...)
Trả lời :
Villejuif, ngày 5 tháng ba 1970 P.L.
2513
Đạo hữu Diệu Tâm thân mến,
(...) Chữ Hán Việt đối với phần
đông rất là xa lạ. Trong khi đó mục đích của việc tụng kinh là để
hiểu lời Phật dạy và phát biểu một cách chơn thành những ý nguyện
cao đẹp của mình, cao xa hơn là để giao cảm với các bậc giác ngộ. Như
thế thì khi tụng kinh nên tụng các kinh bằng thứ tiếng mà mình dễ hiểu
nhất. Đức Phật ngày xưa thuyết pháp bằng tiếng Ấn độ - theo phần đông,
Ngài thuyết pháp bằng tiếng Pâli. Kinh điển thuộc hệ thống Bắc Tông
được ghi lại bằng chữ Sanskrit hay Pakrit và được dịch sang chữ Trung
Hoa. Ngày xưa người Việt Nam mình chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa nên
trong các chùa chiền thường tụng kinh bằng tiếng Hán Việt. Ngày nay, vì
ảnh hưởng của văn minh Âu Mỹ, ít người biết chữ Hán. Do đó, Phật tử
chúng ta nên tụng kinh bằng chữ Việt để khi tụng mình hiểu được ngay
những lời hay ý đẹp của kinh. Như vậy, sự "xông ướp" tâm
linh cũng có nhiều kết quả tốt đẹp.
Về câu hỏi Phật tử bên này theo
Nam Tông hay Bắc Tông mà tụng ba qui y và năm giới bằng Pâli và kinh Chơn
Hạnh phúc, kinh Từ Bi mà không tụng các chú như chú Đại bi, chú Chuẩn
đề vv..., chắc Đạo hữu đã thấy một phần nào là Phật tử bên nầy
không thuộc Nam Tông hay Bắc Tông mà chỉ là Phật tử. Nói rõ hơn thì Phật
tử bên nầy là Phật tử muốn học tất cả những điều hay của tất cả
các tông phái, muốn thực hiện mục đích thống nhất Nam Tông, Bắc Tông
của Giáo Hội bên nhà. Sở dĩ Phật tử bên nầy tụng ba qui y và năm giới
là vì chính Hội Phật giáo Liên Hữu quốc tế đã quyết định: "Phật
tử nên tụng ba qui y và năm giới trước các buổi lễ Phật và các cuộc
hội họp". Và họ tụng bằng Pâli là để gây tinh thần đồng nhất
không những giữa Phật tử Nam Tông, Bắc Tông Việt Nam mà cả giữa Phật
tử Việt Nam với Phật tử Pháp, Anh, Lào, Miến điện, Tích Lan vv... Như
Đạo hữu đã thấy, hôm nọ có nhiều Phật tử Pháp cũng tụng ba qui y và
năm giới với chúng ta.
Đến đây có lẽ Đạo hữu đã tự
hỏi: "tại sao tụng ba qui, năm giới bằng Pâli mà không tụng chú Đại
bi, chú Chuẩn đề bằng tiếng Phạn (Sanskrit)?" Tôi xin giải thích tiếp:
ba qui y, năm giới là những điều căn bản mà bất cứ Phật tử nào, Nam
Tông hay Bắc Tông, Pháp hay Việt, đều phải biết. Còn các bài thần chú
chỉ có người Phật tử theo Mật giáo (Tantrisme) mới tụng mà thôi. Đó
là không nói đến điều không chính xác do sự phiên âm từ chữ Phạn
sang chữ Tàu và được đọc ra bằng tiếng Việt. Hơn nữa các bài chú nầy
không thể giảng nghĩa.
(...) Còn tại sao không tụng kinh
A-di-Đà, Phổ Môn mà lại tụng kinh Chơn Hạnh phúc, kinh Từ Bi ? Tôi xin
nói rõ rằng tôi không hề ngăn trở việc tụng các kinh nầy nhưng tôi chỉ
khuyến khích những người nào hiểu nghĩa và quen tụng các kinh nầy nên tụng
riêng ở nhà. Không cần nói đến tính cách tông phái của nó: kinh A-di-Đà
thích hợp với người theo Tông Tịnh Độ, kinh Phổ Môn thích hợp cho những
người tin tưởng Bồ tát Quan Âm.
(..) Trong khi đó, kinh Chơn Hạnh phúc
và kinh Từ Bi là những kinh ngắn, hay, và căn bản cho tất cả Phật tử và
cũng là những kinh do chính đức Phật đã nói ra. Vả lại đời sống bên
nầy quá ư bận rộn, ai cũng phải lo sống, ít người rảnh rang. Phật tử
đi lễ Phật hằng tháng như vậy là quí lắm. Vì vậy, trong mỗi buổi lễ
Phật có nhiều tiết mục phải thực hiện như tham Thiền, thuyết pháp và
một khoảng thời giờ cho Phật tử thăm viếng và chuyện trò với nhau. Hơn
nữa, sự tụng kinh là cốt ở sự hiểu nghĩa của kinh.
Chính đức Phật đã dạy:
- Tụng trăm bài kệ vô nghĩa
- Chẳng bằng tụng một lời đúng Chánh Pháp
- Mà khi nghe đến người ta được an lành
- (Dhammapada, 102)
Nói chung, ta có thể nói là Nghi thức
Trúc Lâm "tiếp thu có chọn lọc" Nghi thức do Tổng-hội Phật-Giáo
Việt-Nam xuất-bản vào những năm 60, phát huy tinh thần Việt hóa tụng niệm
của thời chấn hưng đạo Phật. Các phần tụng của chủ lễ hay tụng niệm
thông thường của đại chúng thì gần như lấy lại nguyên văn.
Sự khác biệt so với Nghi thức của
Tổng Hội là:
- Tuyệt đối gạt yếu tố Mật Tông
ra ngoài : không niệm Chú và dĩ nhiên không có "Chú Đại Bi".
- Không có kinh A-Di-Đà, Phổ-Môn.
- Kinh Bát Nhã được dịch hoàn
toàn ra tiếng Việt
- Thêm phần đọc Tam Quy Ngũ giới
theo truyền thống Nguyên Thủy
- Ngoài ra còn một số kinh khác bằng
tiếng Việt được dịch từ tạng Pàli: Kinh Chuyển pháp luân, Kinh Chân hạnh
phúc, Kinh Từ Bi, Kinh Vô Ngã Tướng, Phương pháp quán niệm hơi thở vào hơi
thở ra, Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt, Kinh nhập tức xuất tức niệm.
b - Nội dung
Nghi thức Cầu An / Nghi thức Cầu
Siêu / Nghi thức Lễ Thành Hôn / Nghi thức Lễ Phật Đản / Lễ Vu lan Báo
Hiếu / Bát Quan trai Giới / Phụ Lục: Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt
(Singalovada sutta - dịch từ Pàli) - Kinh nhập tức xuất tức niệm
(Anapanasatisutta - dịch từ Pàli ).
c - Hai thí dụ
Như đã nói ở trên, quyển kinh
này tiếp thu một số kinh trong quyển Nghi thức của Tổng Hội PGVN (1961).
Để có một ý niệm về tương quan giữa hai quyển kinh, ta thử đối chiếu
nội dung hai quyển. Trong Nghi thức Trúc Lâm, những kinh trích từ Nghi thức
Tổng Hội PGVN sẽ được ghi chú sau đây bằng chữ "Tổng Hội"
. Nghi thức xuất phát từ nghi lễ Phật Giáo Nguyên Thủy sẽ được ghi chú
"Nguyên Thủy". Kinh được dịch từ Pàli sẽ được ghi chú
(dịch từ Pàli).
- Nghi thức
Cầu An
Dâng Hương (Tổng Hội) / Lễ
Phật (Tổng Hội) / Tán thán Phật - Ba Quy Y - Năm giới (Nguyên Thủy)
/ Cầu nguyện / Sám hối phát nguyện (Tổng Hội) / Kệ khai kinh / Kinh
Chuyển Pháp Luân (dịch từ Pàli) / Kinh Chân Hạnh Phúc (dịch từ
Pàli) / Niệm Phật (Tổng Hội) / Kệ Nhất Dạ hiền giả (dịch
từ Pàli) / Tâm kinh đại trí tuệ siêu việt (dịch Việt) / Bốn
nguyện lớn (Tổng Hội) / Ba tự quy y (Tổng Hội) / Hồi
hướng công đức (Tổng Hội)
-Nghi thức Cầu
Siêu
Dâng Hương (Tổng Hội) / Lễ
Phật (Tổng Hội) / Kinh Từ Bi (dịch từ Pàli) / Cầu nguyện /
Kệ khai kinh / Kinh Vô Ngã Tướng (dịch từ Pàli) / Khai thị Hương
linh (Tổng Hội) / Niệm Phật (Tổng Hội) / Tâm kinh đại trí
tuệ siêu việt (dịch Việt) / Bốn nguyện lớn (Tổng Hội) /
Ba tự quy y (Tổng Hội) / Hồi hướng công đức (Tổng Hội)
4 - Nghi thức
Tụng Niệm do Ban Văn Hóa Tỉnh Hội Phật Giáo Tỉnh Thừa Thiên-Huế thực
hiện (năm 2000): tiến thêm một bước
a-Ý Nghĩa
Quyển Nghi thức này in hệt Nghi thức
năm 1961 của Tổng Hội Phật Giáo VN phát hành, nhưng toàn bộ phần
"Hiển giáo" được Việt hóa, cộng thêm một vài kinh mới, trong
đó có Kinh Từ Bi, Kinh Chân Hạnh phúc, dịch từ tạng Pali, đã được Trúc
Lâm Thiền Viện Paris tụng niệm từ lâu nay. Phần "Bí Mật Thần
Chú" vẫn giữ nguyên.
Nếu phần Hiển Giáo coi như đã tiến
rất xa, tất cả đã được Việt hóa, theo ý tôi vẫn còn hai vấn đề có
thể gây thắc mắc:
-Đây là một quyển kinh hoàn toàn
theo Tịnh Độ Di Đà, do đó ý nghĩa thống nhất Bắc Nam Tông không được
chú tâm tới, ngoài một vài kinh, rất ít, trích dịch từ tạng Pali trong
phần phụ lục.
-Vấn đề "Bí Mật Thần
Chú" vẫn còn rất bí mật. Tại sao cùng là "tiếng Phật" mà
mỗi nơi nói một kiểu khác nhau : Tây Tạng,Trung Quốc, Việt Nam ? Phải chăng
có một thứ "Tiếng Phật" của Phật, và có nhiều "Tiếng Phật"
là của Tổ, Tổ Tây Tạng, Tổ Việt Nam, Tổ Trung Quốc, Tổ Nhật Bản...
Vậy có nên nghiên cứu nói cho đúng "Tiếng Phật" không ?
Dù sao, quyển nghi thức này, có lẽ
sẽ được phổ biến rộng rãi, vì dựa lên một số kinh quen thuộc đã
có trong quyển nghi thức năm 1961 của Tổng Hội Phật Giáo VN.
b-Nội dung
Ngoài những phần Nghi Lễ mới soạn,
tất cả những Nghi Lễ cũ đều in hệt Nghi Lễ năm 1961 của Tổng Hội
PGVN. Như đã nói ở trên, tất cả phần Hiển Giáo đều bằng tiếng Việt.
Nội dung bao gồm :
Nghi thức Tịnh Độ / Nghi thức Cầu
An / Nghi thức Cầu Siêu / Nghi thức sám hối / Nghi thức cúng ngọ / Nghi thức
quá đường / Nghi thức lễ xuất gia / Nghi thức lễ khánh đản / Nghi thức
Lễ Thành Đạo / Nghi thức Lễ Vu Lan / Kinh Báo Ân Cha Mẹ / Lễ Vía Phật A
Di Đà / Kinh Phổ Môn / Nghi thức Lễ Phật (của Gia Đình Phật tử) / Kinh
Vô thường / Kinh chân hạnh phúc / Kinh Từ Bi
Phụ lục : Bài kể thủ / Bài sám
hối / Bài qui mạng / Bài tại hội / Bài Ngã kim / Sám Phát nguyện Vãng
sinh / Sám Hồng Trần / Vãng phóng sinh.
5 - Nghi thức
chùa Giác Ngộ
Nghi thức Nhật Tụng gồm 49 bài,
được Thầy Nhật Từ soạn và xuất bản năm 1994. Ngoài Kinh Nhật tụng
còn 2 Nghi thức Cầu An và cầu Siêu, được soạn năm 1994 nhưng đến năm
1998 mới xuất bản. Nói chung, các nghi thức này cố gắng, về kinh điển,
kết hợp kinh Bắc Tông và kinh Nam Tông. 3 kinh tụng phổ thông của Bắc
Tông đều có mặt trong các Nghi thức Cầu An và Cầu Siêu: Kinh Bát Nhã,
Kinh A-Di-Đà (trong nghi thức gọi là Kinh Thế Giới Cực Lạc), Kinh Phổ
Môn. Bí-mật thần chú không có mặt (Trong Nghi thức Cầu an, Tác giả giải
thích như sau : "Yếu tố Mật tông được xem là yếu tố ngoại nhập
về sau không được giới thiệu trong nghi thức này"). Các Nghi Thức
Sám-Hối, Cúng Vong, và Lễ Thành Hôn đã được soạn nhưng có lẽ chưa
ấn tống (có thể xem trên Trang nhà Đạo Phật ngày Nay).
a-Ý Nghĩa
Ý Nghĩa các Nghi thức được nói
rõ trong phần "Thay lời tựa" của quyển kinh Nhật tụng:
(...) Người Ấn Độ thực hành Phật
Giáo theo tập quán của Ấn Độ. Người Trung Hoa tiếp nhận và thực hành
theo người Trung Hoa. Người Nhật Bản, người Triều Tiên, người Thái
Lan... đều tiếp nhận lời Phật dạy theo đức tính và tinh thần theo
ngôn ngữ và chữ viết của họ. Thế còn chúng ta, chúng ta lại phải vay
mượn nguyên bản nghi thức trì tụng Phật Giáo Trung Hoa hoài hay sao ?
(...) Tụng kinh bằng âm Hán Việt,
người nghe không hiểu, người tụng cũng không thấu rõ tường tận nội
dung mà dễ dàng trở thành một hình thức cầu nguyện như các tôn giáo
khác. Họ coi đó là những câu nói linh thiêng do Đức Phật nói ra, người
đọc tụng có thể tai qua nạn khỏi, làm ăn khắm khá...
(...) Những người đọc kinh hằng
đêm hoặc tại nhà hoặc đến Chùa mà không hiểu được lời dạy trong
kinh thì làm sao có thể đi đúng chánh đạo mà Đức Phật đã vạch ra.
Không đi đúng đường thì làm sao đi đến đúng nơi cần đến. Niết Bàn
và giải thoát chỉ còn là những thứ không tưởng của thế gian điên đảo
này. Họ sẽ tạo ra mặt trái của Phật Giáo và vô tình làm cho Phật
Giáo bị lấm láp, bị lợi dụng, làm cho quần chúng trí thức dễ dàng
có thái độ khinh thường Phật Giáo. Thảo nào Đức Phật đã dạy : Tin
ta mà không hiểu ta thì chính những kẻ ấy là kẻ phỉ báng ta.
(...) Vấn đề tụng kinh bằng Việt
ngữ từ lâu đã làm ưu tư các bậc cao tăng lãnh đạo Phật Giáo Việt
Nam khi quyết định cho ra đời một nghi thức thống nhất nào đó. Bắc
Tông thì dùng âm Hán Việt, Nam Tông thì dùng Pali văn không chỉ chứng minh
tính chính thống của mình mà còn là mặc cảm tự tôn của tông phái. Chưa
kể trong nội bộ Bắc Tông, nghi thức hành trì của ba miền cũng khác
nhau. Trong vấn đề này không ai chịu nhường ai một bước và cứ thả
trôi nó theo dòng thời gian. Nhiều vị cao đức có nhiệt tâm đã lên tiếng
nhắc nhở, thậm chí cho ra đời một nghi thức nào đó nhưng cũng đã
nhanh chóng đi vào quên lãng, chẳng thấy có sự thay đổi gì cả. Chỉ
gây được phong trào nhỏ trong Tổ Đình, trong hệ phái hay chỉ riêng trong
chùa vị ấy mà thôi.
Trong thực tế, việc Việt hóa nghi
thức tụng kinh hằng ngày không chỉ làm đau đầu các vị cao đức mà
còn là nỗi bức xúc bách thiết của các vị tăng sĩ trẻ. Họ là những
con người của thời đại, trực tiếp đối diện với thời đại, với sự
phát triển không ngừng của xã hội. Ý thức trách nhiệm và tinh thần độc
lập văn hóa của dân tộc từ bao thế hệ cha ông, đã thúc giục họ lên
đường tiếp bước, thực hiện ý nguyện của mình, góp một phần nhỏ
vào nền văn hóa của dân tộc nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói riêng.
(...) Trước mắt, quyển kinh này
dung chứa các kinh căn bản và cao sâu của cả hai truyền thống : Nam truyền
và Bắc truyền.
(...) Với quyển kinh này, soạn giả
không có cao vọng cho ra đời một bản Kinh Nhật Tụng tiêu biểu, lại cũng
không muốn là đầu đề tranh cãi hay chỉ trích, mạt sát, lại càng không
muốn tỏ ra "hồi sinh" hay "tạo ra" sinh khí của Phật
Giáo hiện tại. Nó chỉ là biểu hiện của một ước vọng nhỏ bé được
thai nghén từ lâu : Việt hóa và đại chúng hóa hơn nữa lời dạy của Đức
Phật, hầu góp thêm phần nào sinh khí của Phật giáo hơn hai ngàn năm tồn
tại ở đất nước này." ( "Nghi thức Nhật tụng", Thích Nhật
Từ, Trang Nhà ĐPNN)
b - Nội dung
Kinh Nhật tụng gồm 49 kinh Nam và Bắc
Tông là phương tiện công phu tu tập hàng ngày của Phật tử. Bên cạnh đó,
ta có hai Nghi Lễ cầu an, cầu siêu có cấu trúc giống nhau, và dĩ nhiên
cùng một tinh thần với Kinh Nhật Tụng.
Bài này không nhắm phân tích kỹ
các Nghi thức mà chỉ chú ý tới đường hướng soạn thảo, do đó, tôi
chỉ tạm lấy Nghi thức cầu an để làm thí dụ. (4)
Phần vào Khóa Lễ : 1. Nguyện
Hương / 2. Tán Thán Phật và Quán Tưởng / 3. Đảnh Lễ / 4. Tán Dương Chi
/5. Phát Nguyện Trì Kinh / 6. Tán Dương Giáo Pháp
Phần Kinh Chính (có thể tụng
một hay nhiều Kinh, tùy duyên) : Kinh Hạnh Nguyện Bồ-tát Quán Thế
Âm / Kinh Giáo Hóa Người Bệnh / Kinh Các Pháp Quán Niệm / Kinh Dụ Ngôn Bọt
Nước / Kinh Quán Niệm Hơi Thở / Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm / Kinh Biết
Sống trong Hiện Tại. / Kinh Từ Tâm / Kinh Phước Đức / Kinh Cư Sĩ Tại
Gia / Kinh Thiện Sanh
Phần Sám Nguyện và Hồi Hướng
: 7. Bát-nhã Tâm Kinh / 8. Niệm Phật / 9. Xướng Lễ / 10. Năm Điều Quán Tưởng
hay Quán Chiếu Thực Tại / 11. Sám Nguyện (Tụng một trong bốn bài Sám
dưới đây) : Sám Cầu An -Sám Quy Nguyện - Sám Tu Tập - Sám Tu Là Cội
Phúc / 12. Hồi Hướng / 13. Phục Nguyện / 14. Tôn Kính Đảnh Lễ Ba Ngôi
Báu.
- III - Kết luận
- Tìm đường Việt hóa
Nghi lễ trong hòa hợp
Theo ý tôi, Nghi thức tụng niệm
cho Phật tử Việt Nam cần dựa trên 3 tiêu chuẩn:
1 - hoàn toàn bằng chữ Việt,
2 - thể hiện được tinh thần thống
nhất: thống nhất các hệ phái Bắc Tông, Thống nhất Bắc và Nam Tông
3 - dễ dàng được phổ biến đến
quảng đại quần chúng Phật tử.
A- Nhận định về
các đường hướng Việt hóa Nghi thức hiện nay
5 Nghi thức được kể trên đây, của
Trúc Lâm Đà Lạt, Làng Mai, Trúc Lâm Paris, Tỉnh Hội Thừa Thiên -Huế, và
Nghi thức chùa Giác Ngộ có thể tiêu biểu cho các đướng hướng soạn thảo
và Việt hóa Nghi thức hiện nay. Tất cả đều hoàn toàn bằng chữ Việt
(ngoại trừ các Thần chú).
- Nghi thức của Trúc Lâm Đà lạt
không chú tâm đáp ứng những yêu cầu nghi lễ hàng ngày như tang, tế, cầu
an, cầu siêu... Chủ yếu, đây là một Nghi thức của Thiền Tông, dành cho
những vị tu trong các Thiền viện.
- Nghi thức của Trúc Lâm Paris, kết
hợp Việt hóa và Thống nhất Bắc Nam Tông, nhưng bỏ qua yếu tố Tịnh độ
Di Đà, cũng như yếu tố Mật Tông.
- Nghi thức của Tỉnh Hội Thừa
Thiên-Huế, chuyên về Tịnh Độ Di Đà, gần như không biết gì đến Nam Tông.
- Nghi thức của Làng Mai, có lẽ
khá đầy đủ, có đủ "Thiền-Tịnh-Mật" nhưng vẫn "quá mới",
hoàn toàn biệt lập với những nghi thức hiện có. Phương cách diễn dịch
về Tịnh độ chưa chắc đã thỏa mãn những Tăng sĩ theo Tịnh Độ Di Đà.
Thay thế chữ Phật bằng Bụt, dù có thể bàn cãi được, nhưng chưa dễ
được quần chúng Phật tử chấp nhận. Dù cho lúc đầu, chữ Phật có thể
đã do người Trung Quốc truyền vào xứ ta từ thời Minh, nhưng qua nhiều
thế hệ, chữ Phật đã hòa nhập vào văn hóa để biến thành một chữ của
ta. Chữ "Phật" ngày nay không phải chỉ là một "danh từ".
Nó cô đọng bao nhiêu lòng thành kính mến yêu, bao nhiêu hy sinh, kiên quyết,
của nhiều thế hệ Phật Tử. Viết lại lịch sử chắc cũng khó.
-Nghi thức chùa Giác Ngộ đủ yếu
tố Thiền, Tịnh, đầy đủ Bắc và Nam Tông nhưng gạt hẳn Mật Tông ra
ngoài.
Hầu hết các Nghi thức độc lập
với nhau, chẳng biết gì đến nhau. Cùng một kinh, mỗi Nghi thức phiên dịch
một cách khác nhau. Người Phật tử mừng vì có nhiều Nghi thức được
Việt hóa, nhưng ngược lại cũng rất lo ngại: Biết theo Nghi thức nào đây
? Nhiều quá cũng là một nguy cơ tương đương với không có gì cả.
Một câu hỏi khó trả lời nữa:
làm sao phổ biến những Nghi thức này ?
B - Phải Làm Sao
?
Tôi xin phép góp một số ý cùng chư
Tôn túc, Tăng Ni khi soạn nghi thức.
Đề nghị 1 : Việt hóa toàn bộ
nghi lễ
Năm đường hướng soạn thảo Nghi
thức kể trên cho ta thấy rằng việc Việt hóa toàn bộ nghi lễ có thể
làm được. Vấn đề chỉ còn đặt ra cho "bí mật thần chú".
Theo ý tôi, nên suy ngẫm lại việc hành trì "bí mật thần chú"
trong quần chúng Phật tử. Đến chừng mực nào là chính đáng? đến chừng
mực nào "sự không cho nghĩ, bàn" sẽ là cửa mở cho mê tín dị
đoan, phù chú bùa phép... để cầu may cầu lợi? Nên phân biệt rõ giữa
"Tu Mật" của các Mật Sư và "Tu Mật" của quần chúng.
Có lẽ chỉ các Mật sư trong các Mật thất, hay các vị chuyên tu mới đủ
niệm lực và định lực cũng như ý thức để tu Mật một cách đúng đắn.
Còn quần chúng tụng Chú phần nhiều do truyền thống, do thói quen.
Do đó, về lâu về dài, trong các
nghi thức hướng về đại chúng, nên thay thế các Chú bằng các Kinh có ý
nghĩa rõ ràng.
Đề nghị 2 : Hòa hợp hệ phái,
từng bước tiến tới vài quyển Nghi thức Lớn
Mục tiêu cần đạt tới là làm
sao cho người Phật tử, đi từ chùa này sang chùa khác, vẫn thấy mình
không quá bỡ ngỡ, không có cảm tưởng tham gia nghi lễ của các Đạo khác
nhau. Do đó, nghi lễ, kinh kệ của các chùa phải càng có nhiều điểm giống
nhau càng tốt.
Phải công nhận là soạn một
quyển Nghi thức chung cho mọi hệ phái là điều không thể thực hiện được
trong vòng đôi ba chục năm tới, vì có những kinh quan trọng của hệ phái
này sẽ không thể được chấp nhận bởi hệ phái khác, cũng như không thể
tìm được sự nhất trí trong cách đặt trọng tâm vào kinh Nguyên Thủy
hay kinh Đại Thừa. Chắc chắn sẽ có nhiều nghi thức tụng niệm được
soạn ra.
Vì vậy, phải tạo điều kiện để
cho tất cả những quyển Nghi thức, đã và đang được soạn ra, cùng đi về
một hướng, từng bước tiến tới, trong tương lai sẽ chỉ còn vài ba
Nghi thức lớn, cho những "nhóm hệ phái" lớn.
Trong điều kiện hiện tại, các hệ
phái mọc ra rất nhiều, Làng Mai cũng có thể coi là một hệ phái độc lập,
dù vị Tổ khai sơn vốn xuất phát từ dòng thiền Liễu Quán, cũng như các
vị trong Tổ Đình Tây Thiên, Từ Hiếu, Linh Mụ, Tường Vân, Trúc Lâm
Paris,... Sự "quy hợp" này có thể thực hiện được, nếu chỉ dựa
lên tiêu chuẩn chấp nhận Kinh này hay Kinh nọ hơn là bản dịch này hay bản
dịch kia. Ngày nay, nhất là đối với những Nghi thức mới ra, sự phân biệt
nhiều khi chỉ do cách phiên dịch kinh điển. Trúc Lâm thiền Viện Paris tụng
Kinh Từ Bi, Làng Mai tụng Kinh Thương Yêu, cả hai kinh chỉ là một, nhưng vì
phiên dịch biến thành hai. Đây là một trong rất nhiều thí dụ. Còn Kinh
Bát Nhã nữa, không biết có bao nhiêu bản dịch.Vẫn biết là bản phiên dịch
của một kinh có thể không được sự nhất trí chấp nhận của mọi người,
kẻ khen hay, người chê dở. Nhưng nếu nghĩ rằng tất cả chỉ là phương
tiện, mục đích là đưa ý kinh đến đại chúng thì văn hay văn dở cũng
trở nên bớt quan trọng. Không lẽ những đệ tử của Thiền tông, với
tinh thần bất chấp văn tự, lại "sính chữ " đến mức độ không
thể tìm được đồng thuận trên một bản dịch của Kinh "Sắc chẳng
khác Không, Không chẳng khác Sắc " ?
Tinh thần "vô ngã" và
"lục hòa" của Phật tử cần phải được thể hiện ở đây.
"Ta" dịch rất hay, tuyệt diệu, nhưng vì muốn hòa đồng với đại
chúng, "ta" tạm chấp nhận "bớt hay một chút". Do đó, một
bản "dịch hay" nên nhường chỗ cho một bản "được nhiều
người quen tụng".
Chư Tăng ni, khi soạn Nghi thức nên
cố gắng dung nạp những Kinh "có sẵn ", được nhiều người thường
tụng, nếu những Kinh này không đi ngược lại đường hướng của mình.
Điều khó khăn nhất là ở mức độ
tâm lý. Các nhà soạn Nghi lễ Việt hóa thường thường là những người
kiên quyết đạt đến "Chân-Thiện-Mỹ", nhưng nhiều khi vì quá
kiên quyết nên không thể chấp nhận kinh dịch "bớt hay một
chút", vì muốn "quá tốt" mà bỏ rơi đại chúng lại sau. Hơn
nữa, đối với những Nghi thức đã soạn, ai mà không gắn bó với tác phẩ⭠của
mình, bao năm tháng cưu mang. Tự mình sửa đổi lại quả là điều khó khăn.
Đề nghị 3 : Thể hiện tinh thần
thống nhất Bắc Nam Tông: Nghi thức Bắc Tông nên thêm Kinh Nguyên thủy
Các Nghi thức Đại thừa nên có
thêm Kinh trích từ Tạng Nguyên Thủy vì hầu hết những Kinh này hoàn toàn
phù hợp với giáo lý "Đại thừa". Trong các buổi lễ lớn nên
có đọc Tam Quy và Ngũ Giới theo chủ trương của Hội Phật giáo Liên Hữu
quốc tế: "Phật tử nên tụng ba qui y và năm giới trước các buổi
lễ Phật và các cuộc hội họp". Trong phần cầu siêu, cầu an,
nên có thêm Kinh Tạng Nguyên Thủy như Kinh "Tù Bi ","Chơn Hạnh
Phúc", "Chuyển Pháp Luân", "Vô Ngã Tướng"....
Đề nghị 4 : Thành lập một Hội
Đồng Thẩm Định nghi lễ Tụng Niệm: Các nghi thức, tùy theo hệ phái, sẽ
lựa chọn Kinh tụng trong số những kinh đã được thẩm định
Các cơ quan có thẩm quyền của
Giáo Hội PGVN nên phối hợp với chư Tôn Túc của mọi hệ phái, Giáo Hội
lớn, để thành lập một "Hội Đồng thẩm định nghi lễ Tụng Niệm"
cũng giống như "Hội đồng chỉ đạo Phiên dịch và Ấn Hành Đại Tạng
Việt Nam". Hội đồng phải có đủ tính đại diện, đủ uy tín để
bảo đảm sự đồng thuận của mọi hệ phái.
Vai trò của Hội đồng này là quy
định Nghi Lễ và nhất là thẩm định những phiên bản Kinh điển chính sẽ
được dùng trong các Nghi Thức, từ phần vào lễ hay niệm hương, cho đến
phần chánh kinh và phần hồi hướng. Những Kinh được thẩm định có thể
là Kinh Đại Thừa, Kinh Nguyên Thủy, hay là Chú. Mục tiêu là định ra những
bản phiên dịch thống nhất để đưa vào các Nghi Thức.
Như vậy, những Nghi thức của các
hệ phái vẫn có thể "pha trộn", Nghi thức này có niệm Chú, Nghi
thức kia không, nhưng tất cả các bản kinh dùng chung, thí dụ như Kinh Bát
Nhã chẳng hạn, đều xuất phát từ những phiên bản đã được thẩm định.
Trong gia đoạn đầu, theo ý tôi, gấp
rút, chỉ nên thẩm định một vài Kinh chính thường được tụng niệm.
Đề nghị 5 : Phổ biến Nghi thức
một cách có hệ thống
Dựa lên các trường hạ, các trường
cơ bản Phật học hay sơ cấp Phật học để phổ biến các nghi lễ kinh kệ
đã được thẩm định. Khởi đầu đào tạo Tăng Ni, rồi từ Tăng Ni truyền
đến Phật tử, qua chùa chiền, qua các tổ chức khuôn hội, niệm Phật
đường, Gia Đình Phật tử... Về Nghi lễ, Phật tử thông thường thuận
theo Tăng Ni. Họ sẵn sàng tụng những kinh họ không quen nếu được Tăng
Ni hướng dẫn, rồi một thời gian sau những "kinh không quen" sẽ
thành những "kinh quen".
***
Rất bối rối khi tới một chùa phải
dán mắt vào quyển kinh, nhiều khi phải nhìn sang người bên cạnh khi kinh
không đủ, lúc đó thì chỉ còn "tụng chữ", nào phải "tụng
kinh". Với người đọc chậm, hay mắt kém lại còn buồn hơn nữa !
Trong các Tôn giáo lớn, Nghi lễ đều
thống nhất. Chỉ có Phật giáo mình là Nghi lễ các hệ phái như muôn hoa
đua nở, tranh hương tranh sắc, mỗi nơi mỗi vẻ.
- Rằm tháng 8, P.L. 2544
- Nguyên Đạo Lại Như Bằng
Chú thích
(1) " Phật giáo Việt Nam đã gắn
bó với dân tộc Việt Nam suốt hai nghìn năm thăng trầm của lịch sử, đã
có những đóng góp đáng kể vào kho tàng văn hóa và lịch sử dân tộc.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện tại đang tiếp nối bước đi truyền
thống đó và xác định vị trí của mình trong lòng lịch sử và văn hóa
dân tộc. Một trong những bước đi xác định là công tác phiên dịch và
ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam..."
"... Các nước bạn chung quanh
chúng ta như Lào, Kampuchia, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Triều Tiên, Nhật
Bản, Trung Hoa, Mông Cổ và Tây Tạng đã có Đại Tạng Phật giáo bằng quốc
ngữ từ lâu,..."
"...Mọi việc cần khởi sự
ngay từ đây, rồi các thế hệ tương lai sẽ tiếp nối, và sẽ tân tu khi
cần". ( Lời kêu gọi ủng hộ công tác Phiên dịch và Ấn hành Đại
Tạng VN của Thường trực TSTƯGHPGVN ngày 31/7/1990).
(2) - "Báo chí có điều kiện
phát triển mạnh mẽ hơn. Công chúng biết chữ quốc ngữ nhiều hơn, nhiều
nhà in được lập thêm... Số báo chí tiếng Việt tăng lên nhiều, thực
dân Pháp không thể độc quyền như trước nữa...Đến lúc này có nhiều
tờ báo xuất bản hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ. Trên báo chí có nhiều
khuynh hướng phức tạp. Nội dung của báo chí phong phú hơn trước."
(Hồng Chương: Báo chí Việt Nam - NXB Sự Thật, Hà Nội, 1985).
(3) . Thanh Quang, trong báo Đuốc Tuệ
số 178 (Bắc Kỳ) viết : "Đau đớn thay ! Xứ ta, những hạng người
xuất gia vào chùa phần nhiều chỉ học đặng vài bộ kinh, lo luyện hơi
cho hay, tập nhịp tán cho già, nay lãnh đám này, mai lãnh đám khác; cũng tràng
hạt, cũng cà sa, thử lật mặt trái của họ mà xem thì có khác nào người
trần tục". (Trần Văn Giàu, Sđd, trang 233).
(4) Nội dung Kinh Nhật Tụng chùa
Giác Ngộ: Gồm 3 phần: phần vào khóa lễ, phần kinh chính và phần
hồi hướng. Phần vào khóa lễ và phần hồi hướng có cấu trúc tương tự
với hai nghi thức cầu siêu và cầu an, duy chỉ khác nhau số lượng và nội
dung các bài sám nguyện. Phần kinh chính gồm 49 kinh thuộc hai truyền thống
Nam tông và Bắc tông được sắp xếp theo thứ tự sau đây: 1. Kinh Tiểu Sử
Đức Phật/2. Kinh Chuyển Pháp Luân/3. Kinh Người Áo Trắng/4. Kinh Pháp Cú/
5. Kinh Đức Tin/6. Kinh Từ Bi/7. Kinh Từ Tâm8. Kinh Phước Đức/9. Kinh Sáu
Pháp Vô Thượng/10 - Kinh Hiền Nhân/ 11. Kinh Quốc Gia Cường Thịnh/12. Kinh
Thiện Sanh/13. Kinh Hôn Phối/14. Kinh Dụ Ngôn Bẩy Loại Vợ/15. Kinh Người
Vợ Mẫu Mực/16. Kinh Giáo Hóa Người Bệnh/17. Kinh 10 Pháp Quán Niệm/ 18.
Kinh Quy Luật Cái Chết/19. Kinh Nhổ Mũi Tên Sầu Muộn /20. kinh Vô Thường,
Khổ Não,Vô Ngã /21. Kinh Cúng Thí Người Mất/22. Kinh Tệ Túc/23. Kinh Tỳ
Kheo Na Tiên/ 24. Kinh Sống Hòa Hợp/25. Kinh Thiền-Giáo Bình đẳng/26.
Kinh Bốn Mươi Hai chương/ 27. Kinh Chủ Trương Của Như Lai /28. Kinh Quán
Niệm Như Lai/29. Kinh Người Biết Sống một Mình/30. Kinh Pháp Ấn/31. Kinh Dụ
Ngôn Bọt Nước/32. Kinh Trung Đạo Nhân Duyên/33. Kinh Dụ Ngôn Người Bắt
Rắn /34. Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm/35. Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của
Các bậc đại Nhân /36. Kinh Bốn Thánh đế / 37. Kinh Bốn điên đảo/38.
Kinh Bốn điều Nương Tựa/39. Kinh Chỉ Bày Chân Tâm/40. Kinh Cúng Dường Pháp/41
-Kinh Hạnh Anh Nhi/42 . Kinh Hạnh Bồ Tát/ 43. Kinh Lục độ Tương Nhiếp/44.
Kinh Chỉ Bày Phương Tiện/45. Kinh Ý Nghĩa Bát Nhã/ 46. Kinh Kim Cang Bát
Nhã/47. Kinh "Vào Pháp Môn Không Hai"/48. Kinh Viên Giác /49. Kinh Giáo
Huấn Cuối Cùng.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/018-tungniem.htm
|
|