- Úc Châu, 19-02- 2005 (nhằm 11-01-Ất Dậu)
- Chùa Phật Đà, Môn hạ Tổ Đình
Kim Huê
Hởi ơi!!!
Ngày mùng bảy, tháng giêng, Ất Dậu, trăng sao
khiếm khuyết
Biển động, sông nghiêng, vô thường hoại diệt
Linh Sơn đạo thọ từ biệt chồi xanh
Sắc không tan hợp mong manh
Huyền Vi sáng đạo thiên xanh tủi sầu!
Kính lạy giác linh Hoà thượng:
Đất Ninh Thuận sản sanh trang hào kiệt
Miền Thuỳ Dương, Như Kế, giáng thế đấng tu
mi
Túc duyên xưa nhiều kiếp bất tư nghì
12 tuổi, xuất gia, Giải Đạo, Sắc Tứ Thiên Hưng,
cửa Từ bi đồng chơn nhập đạo
14 tuổi Thủ toà Sa di thật điều quý báu
Trí kim cang, liễu đạo cũng nơi này
Năm 20, thấu lẽ Huyền Vi, chơn tâm hiển bày
Bố ma, phá ác tại Đại Giới Đàn Tây Thiên Sắc
Tứ.
Kể từ đó:
Khắp Ninh Thuận, Phan Rang, nắng dầu, mưa dãi,
thuyền Bát nhã tuỳ duyên du hoá;
Rồi Nam Việt Ấn Quang Phật Đường,
lúc khổ, lúc vui, huynh đệ một nhà.
Ngày đêm nghiên tầm giáo điển, thể nhập Ba
la,
vui với đạo chứa chan tình pháp lữ;
Tháng năm phục vụ Phật pháp, gian truân, cực
khổ,
hạnh Như lai vẫn giữ không phai.
Lại có lúc:
Theo gót Phú Lâu Na; Nam, Trung khắp chốn,
gióng pháp cổ, xương minh pháp bảo;
Duy trì hạnh nguyện, Trưởng tử Như Lai,
Đông, Tây chẳng ngại, với người hiền ban bố
đạo thiền.
Bắt chước Quan Âm Bồ Tát, nơi hoạn nạn, tầm
thinh cứu khổ;
Học đòi Địa Tạng Minh Vương, đưa sanh chúng
vào đường giải thoát.
Thế rồi một ngày:
Lập nguyện truy nguyên căn cội,
Ấn độ thẳng bước lên đường;
Tâm tông vững lòng chờ đợi,
Đến kỳ đảnh lễ pháp vương.
Na-Lan-Đà đại học, cùng đệ huynh “Tìm Về Xứ
Phật"
Một mình, một bóng, viết cho cùng “Cuộc đời,
sự nghiệp Tôn giả Sariputta”.
Năm 75, lèo lái con thuyền Bát nhã
khi khai sáng Giáo Hệ Linh Sơn
Chiếc ca sa, nhiều lúc lấm lem màu sương gió
cũng vì đơn thân xông pha đây đó;
Trái cà chua, dưa muối hẩm hiu, tô cơm nguội,
lại do độc mã gánh vác nọ kia.
Khắp Năm châu đạo truyền muôn lối,
chùa, viện theo duyên hiện hữu;
Quanh Bốn biển đức toả ngàn trùng,
tăng, tục độ kẻ tu hành.
Mặc cho miệng thế mỉa mai khinh trọng,
đem đạo mầu lợi tha, tranh đấu cho quốc thới
dân an.
Mặc cho vinh nhục xuyên tạc oan khiên,
chẳng bận, chẳng phiền, như nhiên như tại
từ bi quảng đại, tuỳ duyên, tuỳ cảnh, tuỳ
tâm.
Ngài còn Việt hoá giáo lý thậm thâm, cho tất cả
vào đời,
mượn thơ ca tuỳ duyên độ thế;
Kiến tạo con thuyền bát nhã, mở học đường,
dắt kẻ mê vượt thoát sông mê.
Thật là:
Người đến đâu cũng mầm non tược mọc,
nghìn cánh hoa chen chân tiếp nối;
Người đi đâu cũng măng lên trăm cội,
vạn nụ hồng mở lối khai môn.
Công đức thượng diệu thay!!
Hạnh ngôn vi diệu thay!!
Nhưng giờ đây thì ôi thôi!!
Văng vẳng những lời châu ngọc,
sao nghe như giấc chiêm bao;
Dung hạnh uy nghi rạng rỡ,
mắt nhìn chẳng thấy Thầy đâu.
Có phải trời nghiêng, đất lỡ
cõi trần thế vỡ tan trăm mảnh;
Có phải trăng khuyết, sao tàn
lịch sử Việt nam Phật giáo đã san trang.
Giờ này:
Bao Tăng, Ni lệ khắp tam thiên,
cảnh đứt ruột, nát tan lòng vạn vật;
Nọ Phật tử đắm chìm bể khổ,
đạo đức suy vi, thui thủi dạ truân chuyên.
Hoa phiền, gió thảm, nỗi uất hận trào dâng niềm
ly biệt,
Trăng tủi, núi hờn, nước mây mỗi vẻ nhuộm
sầu riêng.
Hai hàng mi lệ đổ liên miên,
câu niệm Phật vẫn không tròn tiếng;
Tâm thành khấn nguyện,
xin Thầy về Tịnh độ an nhiên!
Thế mới biết:
Tám mươi (80) năm cẩn hành bi nguyện,
trọn đạo nghiệp hàm sinh bớt khổ;
Sáu mươi (60) giới lạp, tuỳ duyên chuyển tiếp,
khai thông pháp tánh rạng tâm kinh.
Nơi phương xa, chúng con nguyền:
Nương theo hạnh từ Hoà Thượng
Đem đạo hoằng truyền khắp chốn
Tuyên dương Phật đà giáo nghĩa
Tự giác, độ tha, nhiếp hoá, thực hành.
Hương lòng ngưỡng mộ,
cúi đầu xin tiễn bậc siêu phóng Tam thừa;
Tâm không cúc cung bái lạy,
ngậm ngùi kính tiếc bậc liễu thoát Tứ sanh!!!