- CÚNG SAO GIẢI
HẠN
Hằng năm, cứ vào dịp đầu năm
Âm Lịch, nhất là tuần lễ thứ hai trong tháng Giêng mà cao điểm là ngày
Rằm, người Phật tử Việt Nam và Trung Hoa thường có lệ đi chùa dâng sớ
cầu an cúng sao giải hạn. Vì là ngày Rằm đầu năm nên các chùa ở trong
nước cũng như hải ngọai thường tổ chức lễ rất trọng thể nhằm đáp
ứng nhu cầu của quần chúng Phật tử. Hầu như chùa nào cũng có chương
trình cầu an đầu năm. Tuy nhiên vẫn còn một số chùa nhận ghi danh Phật
tử cúng sao giải hạn vào ngày Rằm tháng Giêng.
Đến thăm một ngôi chùa khá lớn
và nổi tiếng tại Hà Nội vào dịp đầu năm vừa qua, chúng tôi cũng thấy
chương trình cầu an đầu năm từ ngày mồng tám đến ngày Rằm, có cúng
sao giải hạn. Lễ Phật xong, chúng tôi vào phòng khách thăm thầy trú trì.
Trong phòng cũng khá đông Phật tử đến nhờ thầy xem tuổi, xem sao hạn và
ghi danh vào danh sách cần cúng sao giải hạn. Chúng tôi nghe thầy nói với
một Phật tử: "Phật tử năm nay sao Thái Bạch, vào hạn khánh tận,
thái bạch là sạch cửa nhà, phải dùng tám ngọn đèn hay tám ngọn nến
làm lễ hướng Tây, mỗi tháng cúng vào ngày Rằm, khấn đức Thái Bạch
Tinh Quân". Tới lượt Phật tử khác và cứ như thế, người vào
người ra mang trong lòng nỗi buồn vui đầu năm theo những vì sao đã an
bài cho đời mình trong năm.
Tôi rời chùa mà lòng như không
vui, tự hỏi ai đã đem tập tục cúng sao giải hạn vào nơi già lam, biến
chốn thiền môn nghiêm tịnh thành nơi thờ cúng Thần Tiên, cầu hên xui
may rủi cho con người và cũng thương thay cho những ai đặt lòng tin không
đúng chỗ, trao phận mình cho người khác sử lý qua việc khấn sao xin giải
trừ hạn xấu.
Thật ra, lễ Rằm Tháng Giêng, còn
gọi là lễ Thượng Nguyên là lễ hội dân gian ở Việt Nam, được du nhập
từ nước láng giềng Trung Hoa phương Bắc. Gọi thượng nguyên là cách
phân chia theo Âm lịch: thượng nguyên (Rằm tháng Giêng), trung nguyên (Rằm
tháng Bảy) và hạ nguyên (Rằm tháng Mười) của hệ thống lịch tính theo
mặt trăng. Theo một số sách Trung Hoa, như Đường Thư Lịch Chí, quyển 18
thì có chín ngôi sao phát sáng trên trời. Có sách nói là bảy sao, rồi về
sau có sách thêm vào hai sao La Hầu và Kế Đô. Chín vì sao đó là Nhật Diệu,
Nguyệt Diệu, Hỏa Diệu, Thủy Diệu, Mộc Diệu, Kim Diệu, Thổ Diệu, La Hầu
và Kế Đô. Có sách thêm sao Thái Bạch nữa thành mười sao. Chín vì sao
này hay còn gọi là Cửu Diệu là các sao phối trí theo các phương, sắp xếp
theo mười hai chi và ngũ hành. Theo sách này cho rằng thì hàng năm mỗi tuổi
âm lịch chịu ảnh hưởng của một vì sao gọi nôm na là sao chiếu mạng.
Do đó có năm gặp sao tốt, có năm gặp sao xấu. Hai sao La Hầu và Kế Đô
là sao xấu, là loại ám hư tinh vì hai sao này chẳng thấy được mặt trời.
Đó là theo tập tục dân gian
vốn có từ thời xa xưa mông muội, khi mà con người cảm thấy quá bé nhỏ
trước thiên nhiên, bị đủ loại bệnh hoạn mà chưa tìm ra thuốc chữa,
cho là vì các vị Thần trừng phạt, nên sợ sệt trước đủ mọi loại
Thần mà họ có thể tưởng tượng ra được, từ thần Sấm, thần Sét,
thần Cây Đa, cây Đề, thần Hổ, thần Rắn, thần Núi, thần Sông (Hà
Bá) v.v…
Nhưng căn cứ vào kinh sách liễu
nghĩa của nhà Phật, theo lời Phật dạy trong Pháp Tứ Y : "y cứ
theo kinh liễu nghĩa, chẳng y cứ theo kinh không liễu nghĩa", thì
chúng tôi thấy không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó
được phúc lợi hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi
là cúng sao giải hạn cho Phật tử cả. Tuy vậy, vẫn có một số ít
chùa, ở những vùng địa dư còn chịu nhiều ảnh hưởng truyền thống tín
ngưỡng dân gian đa thần, thì các vị tu sĩ Phật giáo cũng đành phải, gọi
là tùy duyên hóa độ, tùy theo niềm tin của đa số quần chúng sơ cơ học
đạo giải thoát, mà tổ chức các buổi lễ lạc, bên cạnh những nghi thức
thuần túy Phật giáo, mục tiêu cũng vẫn là dùng phương tiện để hóa độ
chúng sinh, từ từ chuyển tâm họ quay về bờ Giác. Ngoài ra, cũng có một
số chùa ở chốn thị thành, mặc dầu biết việc cúng sao giải hạn là
không phù hợp với chánh pháp nhưng vẫn duy trì, hoặc do nhu cầu phát triển
chùa cần sự trợ giúp của thí chủ, hoặc vì lo ngại Phật tử sẽ đi
nơi khác hay theo thầy bùa, thầy cúng mà tội nghiệp cho họ phải xa dần
Phật đạo.
Tại sao chúng tôi nói là
không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó được
phúc lợi hay mang tai họa và cũng không có một nghi lễ nào gọi là
cúng sao giải hạn cho Phật tử cả. Bởi vì tất cả họa và phước mà
con người có được đều là do nhân quả của chính người
ấy làm nên. Bảy ngôi sao, chín ngôi sao hay mười ngôi sao nói ở trên là
do chính con người đặt tên và vẽ cho mỗi ngôi sao mang một đặc tính, chứ đức Phật không hề nói về chúng. Ngài dạy
chúng ta về nhân quả. Ngài dạy rằng không có quả nào từ trên trời rơi
xuống, hoặc dưới đất hiện lên, mà đều do các hành
động qua tâm, khẩu và ý của con người tạo ra. Con người tạo nhân tốt
lành thì quả tốt lành nhất định đến. Thí dụ như chúng
ta muốn có cam ngọt thì chúng ta phải chọn giống hay chiết cành từ
cây cam ngọt, như cam Texas chẳng hạn. Thêm vào đó chúng ta phải
chăm sóc, bón phân, tưới nước đúng thời kỳ, thì thế nào chúng
ta cũng sẽ hái được cam ngọt.
Tương tự như vậy, mọi sự thành
công hay thất bại trong đời của mỗi người không phải do ai ban phát
cho, mà do những cái nhân chúng ta tạo nên từ trước, khi nhân duyên đầy
đủ thì quả thành. Những nhân duyên xấu do chúng ta tạo tác sẽ trổ quả
xấu, những nhân duyên tốt sẽ trổ qủa tốt. Nhà Phật có câu "muốn
biết thời quá khứ chúng ta đã gieo nhân gì thì cứ nhìn cái quả mà
chúng ta đang lãnh. Muốn biết tương lai chúng ta ra sao thì cứ nhìn cái
nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại"; Tuy nhiên, nhân quả
không đơn thuần mà rất đa dạng, trùng trùng, chẳng phải chỉ do trực
tiếp ở đời hiện tại mà lại có thể do ảnh hưởng từ nhiều đời
trong quá khứ, ngoại trừ những người tu hành liễu đạo, tới được trạng
thái "Tâm Không" thì: "Liễu tức nghiệp chướng bổn
lai không"(Vĩnh Gia Huyền Giác).
Cầu xin quả tốt lành mà
không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu xin ấy chỉ
là việc hoang tưởng. Phật giáo dạy rằng bất luận việc gì xảy đến cho chúng ta, đều do một hay nhiều nguyên nhân, chớ
không do ngẫu nhiên, thời vận hên xui hay số mạng an bài.
Đối với Phật giáo, không có
ngày nào xấu, mà cũng không có ngày nào tốt, mà cũng không có sao hạn xấu
tốt. Nếu ta đi coi xăm, bói quẻ, coi sao, coi hạn, thầy nói ngày ấy tốt
mà lại đi làm những chuyện không tốt lành, như ăn trộm, gây gỗ, đánh
nhau, giết người, chắc chắn chúng ta sẽ bị pháp luật trừng trị và
ngày tốt do ông thầy nói ấy trở thành ngày xấu ngay. Như vậy ngày tốt,
ngày xấu không có cơ sở, chỉ là do con người bày ra mà thôi. Lại thí dụ
có hai đạo quân giao tranh, đều chọn ngày tốt và giờ hoàng đạo ra quân,
vậy mà chỉ có một bên thắng, và cả hai bên, dù thắng dù thua, cũng đều
có tử sĩ và thương binh. Chọn ngày tốt mà làm việc giết người thì quả
trổ ra sẽ có chết chóc là vậy.
Đối với sự cúng sao giải hạn,
nếu chỉ mua sắm lễ vật mang lên chùa để xin thầy cúng sao La Hầu, Kế
Đô hay Thái Bạch gì đó để giải hạn xấu giùm thì nghịch lại lý
Nhân Qủa. Nếu vị thầy cầu xin đức Thái Bạch Tinh Quân, đức La Hầu
Tinh Quân, … tha tội, giải hạn xấu nổi thì những người giầu có cứ
tạo ác rồi sau đó xin thầy cúng sao giải hạn cho tai qua nạn khỏi, cho
khỏi bị tù tội, tạo nhân ác mà hưởng được quả thiện, thì toàn bộ
nền đạo lý xây dựng trên quan điểm về lý Nhân Quả mà nhà Phật rao
giảng phải sụp đổ sao?
Có người hỏi rằng, nếu chỉ
tin vào quy luật Nhân Quả thì có nên cúng bái Cầu Siêu, Cầu An
không?
Xin thưa, cúng bái Cầu Siêu, Cầu
An khác với cúng Sao giải hạn.
Trường hợp Cầu Siêu, đó
là một hình thức tưởng niệm người đã qua đời, với tâm thành ước
mong thần thức người quá vãng được sanh về nơi tốt đẹp.
Chuyện lời cầu có được đáp ứng hay không thì chưa ai chứng minh
bằng khoa học được. Nhưng lòng thương nhớ mà thân nhân dành cho người
quá vãng nếu được biểu lộ bằng những buổi lễ trang nghiêm, với niềm
tin tưởng thành kính, chí tâm cầu nguyện cho người quá vãng, thì nếu như
thần thức người quá vãng còn trong trạng thái thân trung ấm, sẽ có thể
có cảm ứng tốt mà vơi đi nỗi buồn rầu, lo sợ, sân hận,
có thể tạo được cơ hội cho nghiệp lành dẫn dắt mà tái sanh.
Ngay như những buổi cúng giỗ,
nếu gia đình người quá vãng có thể thiết lễ trên chùa, cùng nhau vì người
quá vãng mà tụng một thời kinh, dùng một bữa cơm chay tịnh, thì ngoài
biểu tượng của lòng hiếu thảo từ con cái hướng lên cha mẹ, hoặc
tình thương mến đối với người thân nhân đã qua đời, cũng còn là một
duyên lành của những người tham dự với nhà Phật khởi lên từ kỷ niệm
đối với người quá vãng.
Còn trường hợp lễ Cầu An
thì chúng tôi thiết nghĩ, nếu muốn có được kết quả tốt thì chính người
bệnh phải cùng với thân nhân tham dự buổi lễ. Mà phải tham dự với
tâm niệm chí thành. Người bệnh và tất cả thân nhân đều
đồng tâm chí thành tụng niệm, thì ngay trong những giờ phút chí
thành đó, tâm họ đã thanh tịnh. Nhà Phật quan niệm rằng
tất cả Thân và Tâm đều vô thường, cho nên khi Tâm chuyển thì nghiệp
chuyển, nghiệp chuyển thì bệnh chuyển. Bệnh là do Thân, Khẩu, Ý Nghiệp
xấu tạo nên.
Có câu: "Tâm
được tịnh rồi, tội (nghiệp) liền tiêu".
Vậy muốn Cầu An cho có kết
quả thì ngoài vị thầy, chính người bệnh và thân nhân phải cùng nhau
hành trì để cho Tâm được tịnh. Sự kiện thân nhân nên
cùng tụng niệm là để cho người bệnh được tăng trưởng
niềm tin khi thấy có bạn đồng tu, chứ nhân vật chính vẫn phải là
người bệnh. Còn như chỉ đưa tiền cho vị thầy để nhờ
thầy tụng niệm giùm, rồi xoa tay hoan hỉ về nhà chờ kết quả
thì trái quy luật nhân quả. Vị thầy tụng niệm thì Tâm thầy tịnh, người
bệnh không được ảnh hưởng, ngoại trừ chút hy vọng.
Đức Phật là vị đạo sư,
Ngài không làm chuyện bất công là ban phước hoặc giáng họa cho ai, đã dạy
chúng ta rằng phải tạo nhân lành để hưởng quả tốt trong Nhân Thừa. Rồi
Ngài dạy chúng ta con đường để thăng tiến trong năm Thừa của nhà Phật,
từ Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa,
rồi đi tới giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Quý vị tu sĩ trong đạo Phật
là Trưởng Tử Như Lai, hiển nhiên là phải nối tiếp bước chân của Đức
Phật mà soi chiếu Ánh Đạo Vàng cho Phật tử, dạy Phật tử những điều
Phật dạy trong kinh. Quý vị tu sĩ Phật giáo không phải là những người
môi giới giữa Thần Thánh và tín đồ như tu sĩ của một số tôn giáo
khác, tự nhận là có thể cầu xin Thần Thánh ban ơn giáng họa được. Chúng
ta cần dùng trí tuệ để hiểu rõ con đường Giải Thoát của nhà Phật.
Trong kinh Phật Giáo Nguyên Thuỷ
(kinh Trường Bộ), Đức Phật đã khuyên các thầy Tỳ Kheo, những người
đã thọ dụng sự cúng dường của tín thí Phật tử, không nên thực
hành những tà hạnh như: "chiêm tinh, chiêm tướng, đoán số mạng,
xem địa lý, xem mặt trăng, mặt trời, các sao mọc lặn, sáng mờ, … sắp
đặt ngày lành để đưa (rước) dâu hay rể về nhà, lựa ngày giờ tốt
để hòa giải, lựa ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để
đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để cho mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để
giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro, dùng
bùa chú để phá thai, dùng bùa chú làm cóng lưỡi, dùng bùa chú khiến
quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến người phải bỏ tay xuống, dùng
bùa chú khiến tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng thiếu nữ, hỏi
thiên thần để biết họa phước, …"
Ngoài ra, cũng trong kinh Nguyên
Thuỷ (Giải Thoát Kinh), Đức Phật đã dạy về giáo
pháp của chư Phật. Ngài dạy rằng:
"Ai hành trì chánh Pháp
Là cúng dường Đức Phật
Bằng cách cao quí nhất
Trong các sự cúng dường…"
Pháp mà Ngài dạy có thể tóm
lược trong ba điều, đã trở thành quen thuộc với mọi
người Phật tử:
"Không làm các việc ác
Siêng làm các việc lành
Thanh tịnh hoá tâm ý…"
Như vậy, nếu mỗi Phật tử
đều hành trì ba điều Đức Phật dạy kể trên thì giờ nào, ngày nào,
tháng nào hay năm nào cũng đều là giờ hoàng đạo, là ngày tốt, tháng tốt
và năm tốt cả; đâu cần phải đi nhờ thầy cúng sao giải hạn nữa. Và
hành trì như thế mới là cách cúng dường cao quý nhất trong các cách
cúng dường Đức Phật.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/cungsao.htm