Cư Sĩ Phật Giáo
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia.
Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có
ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia
nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các
vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến
ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia
và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
Duy Ma Cật
Người nổi tiếng nhất là cư sĩ Duy Ma Cật, cũng có khi được gọi là Tịnh
Danh, một vị trưởng giả, cùng thời với đức Phật Thích Ca, được ghi lại
trong kinh Duy Ma Cật. Kinh này kể: vì nhân thấy cư sĩ Duy Ma Cật có bệnh,
đức Phật chỉ định một số các đại đệ tử như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ðại
Ca Diếp, Tu Bồ Ðề, Phú Lâu Na ... cùng một số các vị Bồ Tát như Bồ Tát Di
Lặc, Ðồng Tử Quang Nghiêm, Bồ Tát Trì Thế ... đi thăm cư sĩ, nhưng mỗi vị
đều lần lượt từ chối, vì trước đó, mỗi vị đều đã có dịp gặp cư sĩ, và
trong khi đối đáp các vị thấy cư sĩ Duy Ma Cật đã đạt tới trình độ giác
ngộ cao hơn mình nhiều vì đã chỉ rõ cho từng người những sự thiếu sót trên
con đường tu tập. Sau khi các vị nói trên đã từ chối thì sau cùng có Bồ
Tát Văn Thù Sư Lợi, người thường được coi như tượng trưng cho trí căn bản,
trí vô phân biệt, bậc thượng thủ đại trí trong hàng Bồ Tát, mới dám nhận
trách nhiệm đi thăm cư sĩ Duy Ma Cật. Phần chính của kinh là phần đối
thoại giữa hai vị đó. Những câu đối đáp rất là thâm cao và cho chúng ta
hiểu ý chính của kinh là khi nào Tâm tịnh thì Độ tịnh. Kinh cũng còn chỉ
rõ là đâu cũng là đạo tràng, ở đâu cũng tu được, dù là ở nhà, chợ, ngay
trong những hoàn cảnh đối nghịch, không thuận tiện, cho nên những phật tử
tại gia cũng vẫn có nhiệm vụ tu tập, và vẫn có thể đắc đạo quả.
Phu nhân Thắng Man
Ngoài kinh Duy Ma Cật mà số đông chúng ta biết đến, còn có kinh Thắng Man
cũng nói về sự thâm hiểu pháp môn của một cư sĩ, và đặc biệt là một nữ cư
sĩ. Ðó là phu nhân Thắng Man, con gái của vua Ba Tư Nặc, sống cùng thời
với đức Phật. Kinh kể rằng sau khi bà trình bầy với đức Phật về những sự
hiểu biết của bà về thâm lý của Phật pháp thì được đức Phật ngợi khen là "ngươi
đối với Phật pháp thâm sâu". Ý chính của kinh là giảng về Như Lai Tạng,
nhưng nhờ đó cũng biểu hiện được tinh thần của Ðại Thừa về sự bình đẳng
trong việc hành đạo chứng đắc giữa xuất gia và tại gia, giữa nam và nữ.
Cư sĩ Thiền Tông
Sau đây là chuyện về các cư sĩ của Thiền tông. Nhưng trước khi nói về các
vị đó thì cũng nên nói rõ về Thiền tông vì danh từ Thiền thường được dùng
để chỉ rất nhiều đường lối tu tập khác nhau trong đạo Phật nên đã đem lại
nhiều sự hiểu lầm. Ngoại đạo cũng có nhiều môn Thiền, và ngay trong đạo
Phật cũng có những môn Thiền khác nhau. Chữ Thiền trong bài này chỉ nói về
môn Thiền Tông, là môn Thiền được truyền từ đức Phật xuống các Tổ Sư, theo
một đường lối tu tập riêng biệt, khác hẳn những môn Thiền của Nguyên Thủy
(Tiểu Thừa), tu theo nhân vô ngã, và Ðại Thừa, coi ngã, pháp đều không.
Theo nhiều tác phẩm thì Thiền Tông còn có nhiều tên khác như: Như Lai Tối
Thượng Thiền, Như Lai Thanh Tịnh Thiền, Chân Như Tam Muội, Ðạt Ma Thiền,
Tổ Sư Thiền ... Nói vắn tắt thì Thiền Tông bao gồm trong hai câu : "Trực
chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật", tức là chỉ thẳng tâm người, thấy tánh
thành Phật.
Cư sĩ Huệ Năng
Trước hết nên nhắc về chuyện một cư sĩ Thiền Tông đặc biệt, vì vị đó tuy
sau này có xuất gia nhưng khi còn là cư sĩ vị ấy đã đắc đạo và được truyền
ngôi Tổ Sư Thiền. Ðó là chuyện Lục Tổ Huệ Năng (638-713) (tên Trung Hoa:
Hui Neng, tên Nhật: Eno). Khi ngài đến xin làm đệ tử với Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn
thì được giao cho nhiệm vụ là bổ củi, giã gạo. Suốt hơn 8 tháng trời tại
chùa, chưa được thọ giới nên ngài chỉ làm có công việc đó, không được bước
chân tới nhà trên, tức nơi các tăng tu tập. Hơn năm trăm tăng tại chùa
chẳng ai để ý tới người cư sĩ ốm yếu siêng năng giã gạo. Riêng Ngũ Tổ sau
mấy câu đối đáp khi Huệ Năng tới xin làm đệ tử đã sớm biết người cư sĩ đó
đã có những tri kiến khác thường. Sau đó vì có ý định kiếm người để truyền
y pháp cho làm Tổ thứ sáu nên ngài yêu cầu đệ tử nếu người nào thấy mình
đã hiểu đạo thì làm bài kệ trình lên để ngài xét trình độ. Trên năm trăm
tăng tại chùa chỉ có thầy giảng pháp là Thượng Tọa Thần Tú mới dám trình
bài kệ, mà trình một cách kín đáo (coi Kinh Pháp Bảo Ðàn). Sau đó thì Huệ
Năng cũng trình một bài kệ 4 câu. Ngũ Tổ đọc bài kệ đó thấy ngay là người
cư sĩ đó hơn ông giáo thọ rất nhiều nên đã hẹn riêng gặp và đem kinh Kim
Cang ra giảng. Khi thấy Huệ Năng đã đại ngộ, Ngũ Tổ mới nói rằng : "Chẳng
biết bổn tâm, học pháp vô ích, nếu biết được bổn tâm mình, thấy được bổn
tánh mình, tức gọi Trượng Phu, là thầy của Trời, Người, là Phật " và
truyền y bát và trao cho nhiệm vụ làm vị Tổ thứ sáu của Thiền Tông tại
Trung Hoa. Sau khi nhận y bát và sống ẩn danh được 15 năm, Huệ Năng gặp
ngài Ấn Tông tại chùa Pháp Tánh. Sau cuộc đối thoại, ngài Ấn Tông đã kính
phục và xuống tóc cho Huệ Năng và tôn thờ Huệ Năng làm thầy. Tới lúc đó cư
sĩ Huệ Năng mới chính thức thọ giới cụ túc. Trong lịch sử Thiền Tông thì
Tổ Huệ Năng giữ một vai trò tối quan trọng vì đã đặt ra một nền móng vững
chắc cho Thiền Tông. Ðiểm đáng lưu ý là khi còn là cư sĩ mà Huệ Năng đã
ngộ và được chấp nhận làm tổ, cho nên chúng ta thấy rằng việc ngộ đạo hay
không, không nhất thiết phải là có xuất gia rồi mới ngộ đạo được. Ngoài ra
còn nhiều các cư sĩ Thiền khác nổi tiếng, nhưng trong bài này xin ngưng
nơi đây và nói về cư sĩ Bàng Uẩn.
Cư sĩ Bàng Uẩn
Tiểu sử
:
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F.
Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là
Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808. Ông sống tại
Hành Dương với vợ và hai con: một trai tên Kenh-huo, một gái tên Linh
Chiếu (Ling-Chao). Tất cả gia đình tu theo Thiền Tông, và đều được coi như
đã ngộ đạo hết. Sau khi đốn ngộ, ông về nhà lấy thuyền chở của cải đem đổ
xuống sông, căn nhà thì cúng dường để xây chùa. ông cất một thất nhỏ để tu.
Cô Linh Chiếu thường theo hầu hạ, chuyên việc chẻ tre bện sáo bán để nuôi
cha. Người con trai thì lo việc trồng trọt để nuôi mẹ. Ông Bàng Uẩn thường
đi nhiều nơi để tham vấn các vị thiền sư nổi danh thời đó. Theo Thiền Tông
thì việc đi tham vấn là phương pháp cần thiết để học hỏi và trao đổi những
kinh nghiệm tu tập, các thầy còn khuyến khích trò của mình phải đi tham
vấn, chứ không có ngăn cản. Ông Bàng Uẩn đã gặp nhiều Thiền Sư nổi tiếng
như Thạch Ðầu, Mã Tổ, Ðơn Hà và đều được các vị ấy coi như ông đã chứng
đắc. Khi gặp Thạch Ðầu, Ông được coi như đã giải ngộ, nhưng sau đó được
gặp Mã Tổ thì ông mới thiệt triệt ngộ và ở lại với Mã Tổ hơn một năm. ông
có làm chừng ba trăm bài thơ về đạo và được truyền tụng rộng rãi. Ông có
dịp gặp vị quan châu Vu Công (Tr. Hoa: Yu Ti) và vị này nhờ ông mà được
ngộ đạo nên theo học ông cho đến khi ông chết. Nhờ vậy ông Vu Công đã ghi
chép những mẩu chuyện, những bài thơ và viết cuốn "Bàng Uẩn ngữ lục" mà đã
được dịch thành cuốn " A Man of Zen - The Recorded Sayings of Layman P'ang".
Sau đây là vài mẩu chuyện về cuộc đời của ông:
Ông có làm bài kệ:
"Có trai không cưới - Có gái không gả -
Cả nhà chung hội họp - Ðồng bàn lời vô sanh."
" Một hôm ngồi trong am, ông chợt nói:
Khó khó, mười tạ đầu mè trên cây vuốt.
Bà Uẩn đáp: Dễ dễ trên đầu trăm cỏ, ý Tổ sư.
Cô Linh Chiếu tiếp: Cũng chẳng khó, cũng chẳng dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ
khò. "
"Ông ngồi hỏi Linh Chiếu:
"Cổ nhân nói: "Sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư là sao?"
Linh Chiếu thưa: "Lớn lớn già già thốt ra lời ấy."
Ông hỏi: "Con thế nào? "
"Sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư"
ông bèn cười."
Ông có làm bài kệ:
"Tâm như, cảnh cũng như - Không thật, cũng không hư -
Có cũng chẳng quản - Không cũng chẳng cư -
Chẳng phải hiền, thánh - Xong việc phàm phu -
Dễ lại dễ -
Tức năm uẩn này có chân trí -
Thế giới mười phương đồng một thừa -
Pháp thân không tướng nào có nhị -
Nếu bỏ phiền não vào Bồ Ðề -
Chẳng biết nơi nào có Phật địa ? "
Câu chuyện về cái chết của ông rất là đặc biệt và được truyền tụng trong
nhiều tài liệu về sau.
" Sắp tịch, ông bảo Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng ngọ vô cho ông hay.
Linh Chiếu ra xem vào thưa : "Mặt trời đã đúng ngọ, mà có nhật thực.". Ông
ra cửa xem. Linh Chiếu lên tòa của ông, ngồi kiết già chấp tay thị tịch.
Ông vào xem thấy cười, nói :" Con gái ta lanh lợi quá !". ông bèn chậm lại
bẩy ngày sau mới tịch. Tin ông tịch đưa về nhà cho bà hay. Bà nói :" Con
gái ngu si, ông già vô tri, không báo tin mà đi, sao đành vậy ?". Bà ra
báo tin cho con trai đang làm ngoài đồng. Bà nói: "Long Công với Linh
Chiếu đi rồi con !". Người con trai đang bừa ruộng đáp: " Dạ !". Rồi lặng
thinh giây lâu bèn đứng mà tịch. Bà nói :" Thằng này sao ngu si lắm vậy!".
Lo thiêu con song, bà đi từ biệt thân thuộc rồi biệt tích. "
(Trung Hoa Chư Thiền Ðức Hành Trạng, tập 1)
Câu chuyện này đối với các vị Thiền sư thì không có gì lạ lắm, vì trong
các chuyện về đời các Thiền sư thường kể các vị đó khi sắp tịch đều biết
trước và khi ra đi rất là tự tại, thường đều sửa sọan trước, tới khi ra đi
đều ngồi kiết già, căn dặn các đệ tử xong xuôi mới tịch. Nhưng ở đây có
đặc biệt là chẳng những riêng ông Bàng Uẩn, mà con gái và con trai cũng ra
đi một cách rất an nhiên tự tại. Thái độ bình tĩnh của bà cũng đặc biệt
không kém vậy. Cả một gia đình mà đồng ngộ đạo như vậy thì là một chuyện
thật hiếm có. Người sau này nói ông đúng là một Duy Ma Cật.
Tu hành
:
Ông Bàng Uẩn đã đi tham vấn nhiều vị thiền sư , nhưng trong đó có hai vị
nổi tiếng nhất là Thạch Ðầu Hy Thiên (Tr. H: Shih-T'ou Hsi-ch'ien, Nhật:
Sekito Kisen) và Mã Tổ Ðạo Nhất (Tr.H.: Ma-Tsu Tao-i, Nhật: Baso Doitsu).
Hai vị đó nổi tiếng nhất thời đó và đều là đệ tử đời thứ hai của Lục Tổ
Huệ Năng. Sau đây là phần ghi về những cuộc đối thoại :
" Ông đến yết kiến Hòa Thượng Thạch Ðầu, hỏi :" Chẳng cùng muôn pháp
làm bạn là người gì?"
Thạch Ðầu lấy tay bụm miệng ông. ông bỗng nhiên tỉnh ngộ.
Một hôm Thạch Ðầu hỏi :" Từ ngày ông thấy lão tăng đến nay, hàng ngày ông
làm việc gì?". Ông thưa :" Nếu hỏi việc làm hàng ngày tức không có chỗ mở
miệng".
Ông liền trình bài kệ :
Hàng ngày không việc khác
Chỉ tôi tự biết hay
Vật vật chẳng bỏ, lấy
Chỗ chỗ nào trái bày
Ðỏ tía gì làm hiệu
Núi gò bặt trần ai
Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước, bổ củi tài.
Thạch Ðầu hứa khả, bảo :" Ông làm cư sĩ hay làm xuất gia ?".
Ông thưa :" Xin cho con theo sở nguyện, không cạo tóc xuất gia."
(Trích trong "Trung Hoa Chư Thiền Ðức Hành Trạng, tập 1")
Câu hỏi :" Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì ?" có ý nghĩa rất thâm
sâu trong Thiền tông. Pháp đây chỉ về mọi sự vật, vật chất cùng tâm linh
trong thế gian. Những phàm nhân như chúng ta, chưa phải là thánh, thì luôn
ham làm bạn với muôn pháp, rất thân thiết và không lúc nào rời các pháp.
Chúng ta làm thân với các pháp đến nỗi kinh điển gọi đó là "nhận giặc làm
con". Chúng ta chấp đủ thứ, cảnh đến là chúng ta nhận và khởi niệm phân
biệt, suy nghĩ, tính toán. Những niệm đó, do cảnh ở ngoài gây ra, tạo nên
cái "tâm" mà mỗi chúng ta coi là điều quan trọng nhất trong cuộc đời.
Phương pháp chính yếu của Thiền Tông là "đối cảnh không sanh tâm", cảnh
đến ta không làm bạn, không chấp thì khi đó tâm sẽ không còn bị loạn động,
điên đảo nữa. Ðây cũng là điểm mà nhiều người hay hiểu lầm về phương pháp
tu của Thiền Tông. Phần đông chúng ta, khi nói tới thiền, là chỉ nghĩ tới
việc ngồi xếp chân, nhắm mắt để cố không nghĩ đến gì hết. Dĩ nhiên là một
khi giữ cho tâm mình không còn nghĩ ngợi bung lung nữa, bằng cách tập
trung tư tưởng, dù là tập trung tư tưởng vào việc không nghĩ gì, thì cũng
có điều tốt. Nhưng nếu cho rằng như vậy là thành công trong việc tu tập
thì quả là một sự hiểu lầm. Thiền Tông cũng có cho rằng tọa thiền là cần
thiết, trong bước đầu ai cũng phải qua giai đoạn đó, nhưng nếu cho rằng
như vậy là cứu cánh thì không đúng. Tu thiền là trong bốn oai nghi (đi,
đứng, nằm, ngồi) lúc nào cũng phải rõ vọng tâm và thấy được bản tánh của
mình. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dậy rằng :"Ðạo do tâm mà
ngộ, đâu phải do tọa." Thiền Tông, với phương pháp "chỉ thẳng tâm
người" (trực chỉ nhân tâm) muốn chúng ta phải tự tìm hiểu cái tâm đó một
cách rõ ràng. Câu chuyện về tổ Huệ Khả (Tr.H. Hui-k'o, Nhật: Eka), tức vị
tổ Trung Hoa thứ hai, cho thấy phương pháp độc đáo của Thiền Tông.
"Một hôm Huệ Khả tới bạch với tổ Ðạt Ma :"Bạch Hòa thượng, tâm con
chẳng an, xin Hòa thượng dạy con "pháp an tâm". Tổ Ðạt Ma nhìn thẳng bảo:
"Ðem tâm ra ta an cho". Sau một thời gian tìm tâm mà không thấy bóng dáng
liền bạch Tổ: "Con tìm tâm không được". Tổ bảo " Ta đã an tâm cho ngươi
rồi". Ngay đó Huệ Khả ngộ. "
Câu chuyện đó nghe qua thật là giản dị, nhưng đã chỉ rõ pháp tu rất
quan trọng trong việc tu của Thiền Tông. Thiền Tông đòi hỏi mỗi chúng ta
phải tự lực, sống với kinh nghiệm riêng của chính mình và tìm hiểu cái "tâm"
là gì. Nếu chúng ta, thay vì lúc nào cũng hướng ngoại, chạy theo danh và
tướng, bây giờ quay vào trong tìm hiểu tâm mình, và thấy được cái tâm lăng
xăng, duyên theo cảnh, biến đổi từng phút, từng giây, mà Thiền Tông gọi là
"vọng tâm". Lục Tổ Huệ Năng có nói rõ pháp môn của Tổ gồm có: Vô niệm, Vô
tướng và Vô trụ. Lục tổ chỉ rõ Vô niệm là "Trong các niệm tưởng của
mình, tâm thường lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh mà sinh tâm". Như vậy khi
ông Bàng Uẩn biết : " không làm bạn với muôn pháp ", tức là biết giữ cho
tâm lìa được cảnh, không còn chấp, chạy theo cảnh, thì khi đối cảnh, cái
vọng tâm chẳng thể sinh. Câu hỏi đó chứng tỏ ông đã thấu hiểu phương pháp
an tâm của Thiền Tông, nhưng ông muốn biết rõ là tới đó rồi thì đạt được
gì, nên hỏi người đó là "người gì ". Hòa thượng Thạch Ðầu lấy tay bụm
miệng ông, và ngay đó ông ngộ. Trong bài kệ nói trên, ông trình bày rõ
ràng những điều ông đã hiểu và đã thực hành. Câu "vạn vật chẳng bỏ, lấy"
tức là ông chẳng còn thấy có gì để thủ, để xả. Bước đầu của đường tu, như
chúng ta thường biết, là phải bỏ cái này, lấy cái kia như bỏ điều ác và
làm điều thiện, bỏ vọng theo chân, bỏ tà theo chính ... Ðó là giai đoạn
còn dùng phương pháp đối trị, dùng cái hay để trị cái dở, nhưng tới trình
độ cao hơn, lại bỏ luôn thiện, bỏ luôn chân ... Thí dụ như khi còn thấy
mình sống với các điều thiện, chân, tịnh ... và coi như mình đã đắc đạo,
thấy những người khác là vọng, uế, thì vẫn là còn chấp hai bên, vẫn còn có
cái phân biệt, tâm vẫn còn khởi niệm, vọng tâm vẫn còn đó. Ông Bàng Uẩn
biết "không cùng muôn pháp làm bạn" là ngoài không chấp cảnh, trong thì "vạn
vật chẳng bỏ lấy" là trong không còn chấp cái vọng tâm, tỏ ra ông xứng
đáng được Thạch Ðầu ấn chứng. Nhưng theo Thiền Tông, tới mức cao hơn nữa
tức là sau khi thấy mình không còn có trí phân biệt nữa, thì phải bỏ luôn
cả cái trí biết mình không phân biệt đối đãi ấy, và người này mới thật là
người "không tu, không chứng" mà đức Phật nói tới trong kinh "Bốn Mươi Hai
Chương" (chương 11): " Cúng một trăm triệu đức Phật, không bằng cúng
một vị không niệm, không trụ, không tu, không chứng" . Chúng ta nên
suy nghĩ về tại sao đức Phật lại nói một người "không tu, không chứng" lại
xứng đáng được cúng hơn cả một trăm triệu đức Phật.
Riêng về hai câu chót rất là đặc biệt và được truyền tụng rất nhiều :
"Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước, bổ củi tài."
Hai câu đó nói rõ được sự độc đáo của Thiền Tông. Phần đông hiểu rất sai
lầm về việc tu hành của Thiền Tông. Nếu ta tu Thiền và khi gặp một người
nào thì câu hỏi đầu tiên của họ gần như chắc chắn là : "Tu có thấy được gì
chưa ?". Quan niệm chung là tu Thiền phải có thần thông, hoặc khả năng đặc
biệt nào đó. Những người tu mà bị đưa vào con đường tà đạo là tại ham thấy
những phép lạ, như thấy hào quang sáng rực, thấy gặp vị nọ, vị kia, biết
được những tiền kiếp hoặc tương lai của mình hay của người, biết được ý
nghĩ của người khác, điều khiển được hơi thở, tim, biết bay, đi trên mặt
nước ... Nếu chúng ta tin rằng những người đắc đạo là phải có những thần
thông như vậy tức là không hiểu rõ đạo Phật. Ngoại đạo, nhất là tà đạo,
với những phương pháp tu tập đặc biệt họ cũng có thể thực hành được những
thần thông đó. Chính vì biết những ưa thích đó của số đông nên ngoại đạo,
tà đạo và những người lợi dụng danh nghĩa đạo Phật đã thành công trong
việc dụ dỗ những người ham có những thần thông, phép lạ. Người hiểu rõ
giáo lý đạo Phật không bao giờ bị dẫn dắt lạc đường vì biết rõ rằng những
thần thông, phép lạ đó không có ích lợi gì cho việc tu hành cả. Ðức Phật
thường nghiêm cấm các đệ tử, dù khi tu hành mà có được những thần thông
nào đó thì cũng không được đem ra trình diễn hoặc phải từ bỏ đi, vì nếu
đem những điều đó để khuyến dũ người ta theo, tin đạo Phật là một việc
trái đạo.
Ðạo Phật là đạo giác ngộ, giải thoát chứ không phải giải trí. Ngoài ra
Thiền Tông quan niệm thần thông một cách rõ ràng và hợp với tôn chỉ của
đạo Phật. Tổ Lâm Tế chỉ rằng bất cứ lúc nào đối sắc, thanh, hương, vị, xúc
và pháp mà không bị dính mắc vào những thứ đó thì đó là lục thông. Người
đã "không làm bạn với muôn pháp" chính là người đã không còn bị những vọng
niệm lôi cuốn và như vậy mới thấy được bản thể như như, không động, của
mình. Người đó mới thực là an nhiên, tự tại trong mọi hành động. ông Bàng
Uẩn đã nắm vững và hiểu rõ đường lối của Thiền Tông nên ông nói thần thông
của ông là "gánh nước, bổ củi tài". Chắc đọc tới đây nhiều người sẽ thắc
mắc: nếu tu Thiền chỉ là để gánh nước, bổ củi tài thì ai chẳng làm được,
cần gì phải tu cho mất công, tu là phải có được những thần thông, biến hóa
hoặc ít ra phải có vài phép lạ để làm cho thiên hạ thán phục. Câu nói của
ông Bàng Uẩn không phải là một câu hài hước hoặc khiêm tốn, mà là một câu
chứng tỏ ông đã thấy đúng tôn chỉ của Thiền Tông vậy. Thiền Tông nổi bật
chính vì đã đi sát với đời sống thường ngày, thực tiễn, không phải là cái
gì huyền bí, xa vời. Chân lý của sự vật lúc nào cũng hiện ngay trước mắt
chúng ta chứ không phải ở nơi xa xăm.
Sau buổi đối thoại đó, hòa thượng Thạch Ðầu ấn chứng ông Bàng Uẩn đã ngộ
đạo và hỏi ông có ý định xuất gia không, nhưng ông từ chối vì chỉ muốn
sống một cuộc đời cư sĩ. Sau đó là câu chuyện việc ông theo học với Mã Tổ:
" ông đến tham vấn Mã Tổ, hỏi :" Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người
gì ?". Mã Tổ bảo :" Ðợi miệng ông hút hết nước sông Giang Tây, ta sẽ nói
với ông". Ngay câu nói này, ông ngộ được huyền chỉ. Ông dừng ở chỗ Mã Tổ
hai năm. "
(Trích trong "Trung Hoa Chư Thiền Ðức Hành Trạng, tập 1")
Ngay khi ngộ từ câu nói của Mã Tổ ông trình liền bài kệ:
" Mười phương đồng tử hội
Mỗi mỗi học vô vi
Ðây là nơi tuyển Phật
"Tâm không" thi đậu về "
(Trích trong "Ðại Huệ Ngữ Lục")
Tới gặp Mã Tổ, ông lại hỏi lại câu mà ông đã hỏi Thạch Ðầu, nhưng lần này
thay vì bị bụm miệng thì ông được trả lời. Tuy vậy đối với chúng ta, câu
trả lời cũng không chỉ rõ gì hơn vì cũng khó hiểu như trước. Nhưng đối với
ông thì câu trả lời đó rất quý báu vì đã giúp ông hoàn toàn ngộ đạo. Nếu
muốn thấy được ý nghĩa của cuộc đối thoại đó, chúng ta nên tìm hiểu Mã Tổ
hơn là suy nghĩ về câu nói đó. Sau này câu trả lời đó được dùng làm câu
thoại đầu (cũng còn gọi là công án) cho nên không phải là câu để tìm hiểu.
Mã Tổ là một vị tổ giữ vai trò rất quan trọng trong lịch sử Thiền Tông, vì
các đệ tử đời sau của ngài đã tạo nên những môn phái nổi tiếng. Sau đời Mã
Tổ Ðạo Nhất là các vị : Bá Trượng Hoài Hải (724-814), Hoàng Bá Hy Vận
(?-850) và sau đó là vị tổ nổi tiếng Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-867), vị đã lập
ra dòng Lâm Tế mà cho tới nay vẫn còn tiếp tửc tại Trung Hoa, Nhật Bản và
Việt
Nam. Ngài truyền đạo tại Giang Tây, và người thời đó coi Giang Tây như
trường thi Phật nên ông Bàng Uẩn nói :"Ðây là nơi tuyển Phật". Ðệ tử của
ngài rất đông và có tới 84 người ngộ đạo, một con số hiếm có. Câu giảng
dậy nổi tiếng của Mã Tổ là "Tức Tâm Tức Phật", ngài đã giảng như sau "Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật
không có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không
nương cậy". Chúng ta thường chỉ thấy cái tâm duyên theo bóng dáng sáu
trần, theo kinh điển gọi là "vọng tâm", chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ cái
vọng tâm đó thì mới thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Mã Tổ dạy rằng "Vọng
tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu". Chúng
ta cần hiểu rằng mỗi người đều có sẵn Chân Tâm, chứ không phải vì tu tập
đắc đạo rồi mới có. Mã Tổ muốn chỉ cho chúng ta thấy Tâm đó tức là Phật,
nếu đi tìm Phật ở ngoài Tâm đó là làm một điều vô ích mà các thiền sư nói
là "mang Phật đi tìm Phật". Mã Tổ còn dậy "Tâm bình thường là Ðạo. Sao
gọi là tâm bình thường ? - Không tạo tác, không phải trái, không thủ xả,
không đoạn thường, không phàm thánh".
Những bài kệ ghi trên của ông Bàng Uẩn cho thấy ông đã tu hành y theo
đường lối của Mã Tổ và xứng đáng làm đệ tử đã ngộ của Mã Tổ vậy. Câu kết
của bài kệ là "Tâm không, thi đậu về". Sau khi đạt Tâm Không, ông đã thi
đậu ở trường tuyển Phật và trở về. Phải chăng tâm không là tâm trống rỗng,
chẳng có gì hết, trơ như gỗ, đá. Như vậy phải chăng là trái ngược với lời
dậy của Mã Tổ "Tâm bình thường là Ðạo", thì làm sao mà thi đậu ? Nhưng cần
hiểu là Tâm Không có nghĩa tâm không còn những vọng tưởng, tới đó mới đúng
nghĩa bình thường. Biết được "tâm không" cũng còn có nghĩa là thấy cái bản
thể của vọng tâm vốn nó là không, cho nên tổ Huệ Khả đã nói với tổ Ðạt Ma
"Con tìm tâm không được".
Qua câu chuyện kể trên chúng ta thấy quả ông Bàng Uẩn đã chứng ngộ trọn
vẹn. ông đã đi tham vấn rất nhiều thiền sư, những cuộc đối thoại với gần
hai mươi vị, cùng rất nhiều bài thơ, đều có được dịch ra Anh văn trong
cuốn "A Man of Zen", mà rất tiếc chưa được dịch từ Hán văn ra Việt văn.
Tấm gương sáng của cư sĩ Bàng Uẩn nhắc nhở chúng ta là dù ở trường hợp tại
gia, vì không hoặc chưa có phương tiện để xuất gia, chúng ta không nên
nghĩ là sống với gia đình, phải làm ăn sinh sống thì đâu có thể tu hành gì
được, thỉnh thoảng đến chùa cúng lễ, ráng tu một chút lấy phước đức là đủ
rồi. Chúng ta cho rằng việc tu hành là việc của các tăng, mình đâu có phần
mà tính tới. Những kinh điển Ðại Thừa đã chỉ rõ là ý kiến đó không đúng.
Riêng về Thiền Tông thì lại còn đánh đổ quan niệm đó một cách mạnh hơn nữa.
Trong cuốn "Sáu cửa vào động Thiếu Thất" tổ Bồ Ðề Ðạt Ma nói thẳng :"
Nếu thấy tâm mình là Phật thì không cần cắt tóc cạo râu (xuất gia), hàng
áo trắng (cư sĩ) vẫn là Phật. Nếu không thấy tánh, cắt tóc cạo râu, vẫn là
ngoại đạo". Nếu có đủ điều kiện thì việc xuất gia vẫn là hơn, nhưng
còn tại gia thì không phải là không thể tu hành được.
Tài liệu trích dẫn :
- A Man of Zen, the recorded sayings of layman P'ang, do Ruth Fuller
Sasaki, Yoshitaka Iriya và Dana R. Fraser dịch từ Hán văn.
- Kinh Duy Ma Cật.
- Kinh Thắng Man, Nhất thừa đại phương tiện.
- Kinh Pháp Bảo Ðàn.
- Trung Hoa chư Thiền đức hành trõng, tập 1 của TS Thích Thanh Từ.
- Sáu cửa vào động Thiếu Thất của tổ Bồ đề Ðạt ma, do Trúc Thiên dịch.
- Ðại Huệ ngữ lửc do TS Thích duy Lực dịch.
Xin đính kèm phụ bản gồm vài bài thơ của ông Bàng Uẩn, bằng tiếng Anh,
trích từ cuốn A Man of Zen để quý vị có thêm tài liệu. Rất mong vị nào có
khả năng sẽ dịch thẳng những bài thơ của ông Bàng Uẩn từ Hán văn, thay vì
dịch lại bản Anh văn có thể sẽ không diễn tả hết ý được.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/cusi_phatgiao.htm