- DI MẪU MA-HA-BA-XÀ-BA-ĐỀ
Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề được
xem là vị ni nổi bậc xuất chúng hoặc vị sơ tổ trong ni đoàn từ sự
kiện di mẫu là người đầu tiên thọ giới làm ni và là người thành lập
ni đoàn giới đức. Di mẫu được xưng tán về phương diện tuệ tri chứng
đắc bởi vì người là vị lãnh đạo nhóm nữ giới dòng Thích ca đầu
tiên, từ bỏ cuộc đời trần tục, sống đời sống viễn ly phạm hạnh,
tinh tấn tu tập giới-định-tuệ và chứng quả A-la-hán. Người cũng được
biết đã từng là hoàng hậu của vua Tịnh Phạn và là kế mẫu của Đức
Phật.
Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề sinh ở
Devadaha trong gia đình của vua Suppabuddha, là em gái của Hoàng hậu Maya (Mahamaya),
phu nhân của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Di mẫu có hai người con là
công chúa Nandà và hoàng tử Nanda. Về sau, cả hai cũng đều xuất gia theo
Phật. Bảy ngày sau khi bồ tát Sĩ-đạt-đa (Siddhattha) đản sanh, hoàng
hậu Maya qua đời, di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã gởi con ruột cho vú nuôi
để tận tay di mẫu chăm sóc bồ tát.
Sau khi thành đạo, Đức Phật về
thăm lại kinh thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu) và giảng kinh Trì Pháp
Túc Sanh Truyện (Dhammapala Jataka) thì di mẫu chứng được quả Tu-đà-hoàn
(Sotapanna).
Lúc vua Tịnh Phạn băng hà, Đức
Phật đang ở Tỳ-xá-ly (Vesali, còn gọi là Vaishali). Di mẫu
Ma-ha-ba-xà-ba-đề quyết định từ bỏ cuộc sống thế gian và đợi dịp
thuận lợi để xin phép Đức Phật xuất gia. Cơ hội này đã đến, khi Đức
Phật về viếng thành Ca-tỳ-la-vệ để hoà giải việc tranh giành quyền lấy
nước của sông Rohini giữa hai dòng tộc Thích ca và Koliya. Khi cuộc tranh cải
đang được dàn xếp ổn thoả, Đức Phật thuyết kinh Tranh luận (Kalahavivada),
liền đó năm trăm thanh niên dòng Thích Ca được cảm hoá và xin xuất gia.
Các bà vợ của họ, do di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề hướng dẫn cũng đến
cung thỉnh Đức Phật cho phép họ được xuất gia:
"Bạch Đức Thế Tôn! Thật là
một đại hạnh nếu người nữ được phép từ bỏ gia đình, sống đời
sống không nhà, theo pháp và luật của đức Như Lai tuyên thuyết".
Đức Phật từ chối liền mà
không nói lý do gì cả: "Thôi đủ rồi. Hãy đừng thỉnh cầu việc đó
nữa, này Ma-ha-ba-xà-ba-đề!"
Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề lập lại
lời thỉnh cầu 2, 3 lần như thế, nhưng Đức Phật một mực từ chối.
Sau đó, Đức Phật về lại Tỳ-xá-ly
và ngự tại Mahavana trong giảng đường Kutagara.
Với ý nguyện kiên cường, không nản
chí với lời từ chối của Đức Phật, di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề tự xuống
tóc, đắp y vàng cùng nhiều nữ quý tộc dòng Thích ca trải qua nhiều gian
khổ đi bộ từ thành Ca-tỳ-la-vệ đến Tỳ-xá-ly dài 150 dặm (khoảng hai
trăm cây số). Với đôi chân sưng vù, thân thể lấm đầy cát bụi, di mẫu
đứng bên ngoài của giảng đường Kutagara. Sự kiện này đã tìm thấy
trong Sự Thành lập Ni đoàn chương X của Tiểu Phẩm. Tôn giả A-nan
thấy di mẫu đang khóc lóc, đến hỏi nguyên do và sau đó vào bạch cùng
Đức Phật rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn! Xin hãy
nhìn xem di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề đang đứng ngoài cổng với đôi chân sưng
vù, mình lấm lem đầy cát bụi và trông rất buồn khổ. Kính xin Như lai
hoan hỉ cho phép người nữ được từ bỏ gia đình, sống đời sống không
nhà, theo khuôn khổ giáo pháp và giới luật mà đức Như Lai tuyên thuyết.
Thật là đại hạnh, nếu người nữ được từ bỏ gia đình, sống đời
sống không nhà".
"Đủ rồi, A-nan, Như-lai không
thể chấp nhận cho nữ giới xuất gia!"
Mặc dù, A-nan cố van nài 2, 3 lần,
nhưng Đức Phật vẫn mực từ chối. Ngài A-nan kính cẩn bạch: "Bạch
Đức Thế Tôn! Người nữ có khả năng đạt được thánh quả Tu-đà-hoàn
(Sotapanna), Tư-đà-hàm (Sakadagami), A-na-hàm (Anagami) and
A-la-hán (Arahant), nếu họ có thể tiến bước từ bỏ gia đình, sống
đời sống không nhà, theo khuôn khổ giáo pháp và giới luật mà đức Như
Lai tuyên thuyết?"
Đức Phật trả lời rằng người
nữ có đủ khả năng để thành tựu các thánh quả.
Khi nghe câu trả lời ấy như được
thêm niềm khích lệ, ngài A-nan liền thiết tha kính bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, nếu vậy,
người nữ cũng có khả năng đạt các thánh quả. Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề
đã có công lớn đối với Đức Thế Tôn. Người vừa là dì ruột và vừa
là mẹ nuôi. Người đã nuôi Đức Thế Tôn bằng chính sữa của mình và
thương yêu ngài thay cho mẫu hậu. Thế nên, bạch Đức Thế Tôn, hãy từ
bi cho các người nữ được phép từ bỏ gia đình, sống đời sống không
nhà, theo khuôn khổ giáo pháp và giới luật mà đức Như Lai tuyên thuyết."
Cuối cùng Đức Phật trả lời rằng:
"Này A-nan, nếu di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề có thể chấp nhận tuân giữ
Tám kính pháp này thì ta sẽ đồng ý cho Bà xuất gia và thành lập giáo hội
ni".
Tám kính pháp như sau:
- Tỳ-kheo-ni dù cho thọ đại giới 100 năm cũng phải
cung kính chấp tay, đảnh lễ và xử sự đúng pháp đối với một tân tỳ
kheo dù mới thọ giới một ngày.
- Một tỳ-kheo-ni không được an cư nơi không có tỳ
kheo tăng.
- Mỗi nửa tháng tỳ-kheo-ni cần hỏi thỉnh chúng
tỳ kheo tăng ngày đến giáo giới.
- Sau mùa an cư kiết hạ, tỳ-kheo-ni cần phải làm
lễ tự tứ trước hai bộ tăng già để cầu thỉnh chỉ lỗi nếu có thấy,
nghe và nghi.
- Tỳ-kheo-ni phạm trọng tội, nửa tháng phải
hành pháp Ma-Na-Đoả trước cả hai bộ tăng già.
- Sau khi học tập sáu giới pháp trong hai năm, vị
ni ấy phải đến trước hai bộ tăng già cầu xin thọ cụ túc giới.
- Không vì duyên cớ gì, một tỳ-kheo-ni có thể mắng
nhiếc hoặc chỉ trích một tỳ kheo tăng.
- Tỳ-kheo-ni không được phê bình tỳ kheo, nhưng tỳ
kheo tăng có quyền phê bình tỳ-kheo-ni.
Tám kính pháp này phải tuân giữ
trọn đời, phải tôn trọng, kính nễ, không được thay đổi.
Khi nghe ngài A-nan tường thuật lại,
di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề rất đổi vui mừng và chấp thuận ngay tám kính
pháp này. Do vậy, di mẫu được xuất gia và thọ cụ túc giới.
Vào một ngày nọ, bà đã đích
thân đến Đức Phật hỏi về việc phân rõ vị trí đối với nữ giới
dòng họ Thích ca. Đức Phật cho triệu tập chư tăng và công bố rằng tăng
có thể truyền giới cho ni, nhưng chư ni thì không thể truyền giới cho chư
tăng. Bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề một lần nữa nhờ ngài A-nan thỉnh xin Đức Phật
liệu điều khoản đầu tiên của tám kính pháp có thể được bỏ hoặc
thay vào đó bằng việc cung kính đảnh lễ đối với chư tăng và chư ni
tuỳ theo hạ lạp. Lời thỉnh cầu này đã bị Đức Phật từ chối vì
các bậc trưởng lão và chư tăng luôn ở vị trí cao hơn ni. Điều này
giúp cho chư ni tu tập hạnh hạ ngã và khiêm cung.
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật
là vị giáo chủ đầu tiên đã thành lập giáo hội ni với đầy đủ giới
và luật. Và Đức Phật cũng đã chỉ định tỳ kheo ni Khema và Uppalavanna
là trưởng ni trong giới ni, trong khi chỉ định tỳ kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên
là chúng trưởng trong tăng đoàn.
Sau khi thọ giới, tỳ-kheo-ni
Ma-ha-ba-xà-ba-đề đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và xin ngài ban pháp nhũ
để di mẫu có thể đạt mục tiêu tối hậu. Đức Phật liền dạy rằng:
"Này tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề,
cần phải tỉnh thức rõ ràng trong bất cứ giáo thuyết nào nếu có những
điều dẫn đến tham vọng – không dẫn đến an lạc, đến lòng ngạo mạn
– không dẫn đến tính khiêm cung, đến ham muốn nhiều – không biết đủ,
thích cảnh phồn hoa đô thị – không thích ẩn dật, thích hôn trầm lười
biếng – không nỗ lực, khó được thoã mãn – không biết đủ; nếu đúng
như vậy, thì giáo thuyết ấy không phải là chánh pháp, không phải là giới
luật, không phải là lời dạy của bậc đạo sư.
Nhưng cần phải tỉnh thức rõ
ràng trong bất cứ giáo thuyết nào nếu có những điều dẫn đến an lạc
– không dẫn đến tham dục, dẫn đến lòng tôn kính – không đến tính
ngã mạn, dẫn đến muốn ít– không tham nhiều, thích ẩn dật – không
thích phồn hoa đô thị, thích nỗ lực – không hôn trầm lười biếng, có
hạnh biết đủ– không đòi hỏi; nếu đúng như vậy, thì giáo thuyết
ấy hẳn là chánh pháp, là giới luật, là lời dạy của bậc đạo
sư".
Sau đó, di mẫu thực tập với
lòng tập trung cao độ, đã phát tuệ và chứng đắc A-la-hán trong khi năm
trăm vị đồng hành với di mẫu cũng chứng đắc quả vị này sau khi được
nghe bài kinh Nandakovada. Trong Trưởng-lão-ni-kệ có ghi lại tám thi kệ của
di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề. Bài kệ thứ hai đã bộc lộ sự giác ngộ, niết
bàn của di mẫu như sau:
Tất cả khổ đau Ta đã biết,
Khát ái nguyên nhân đã khô kiệt,
Ta đã nương theo Bát chánh đạo,
Con đường chấm dứt sự tử sanh.
"Sabadukkha parinnata hetu tanha
visosita,
Ariyatthangiko maggo nirodho phusito maya".
Một dịp khác, tại Trúc lâm (Jetavana)
giữa cả hai hội chúng tăng và ni, Đức Phật đã tuyên bố trưởng lão
ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã chứng đắc bởi giới đức, giới hạnh. "Etad
aggam bhikkhave mama Savikanam bhikkhuninam rattannunam yadidam Mahapajapati Gotami".
Sau khi thọ giới nhiều năm, Di mẫu
Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã nỗ lực tu tập, đấu tranh nội tâm, thanh lọc tâm
ý đưa đến giác ngộ, giải thoát.
Trong kinh kể rằng một lần nọ,
di mẫu đã may một tấm y rất quý và đẹp dâng cho Đức Phật. Nhưng Đức
Phật đã từ chối nhận và đề nghị tốt nhất là cúng cho chúng tăng.
Di mẫu vô cùng thất vọng, ngài A-nan vì lợi ích của di mẫu nên đã can
thiệp. Đức Phật giải thích rằng nếu giữ tâm bình đẳng cúng đều
cho chúng tăng thì công đức của di mẫu vô lượng vô biên vì ‘đức chúng
như hải’ và cũng là để làm gương cho những ai phát tâm cúng dường
tương tự trong tương lai. Nhân dịp đó, Đức Phật thuyết kinh Phân biệt
cúng dường (Dakhinavibangavada).
Vào một dịp khác, lúc di mẫu lâm
bịnh không có vị tăng nào đến thăm bởi vì giới luật cấm tăng không
được thăm ni bị bịnh, chính Đức Phật đã điều chỉnh lại điều khoản
này và đã đích thân đến thăm di mẫu.
Thỉnh thoảng sau khi thọ giới rồi
trong lúc ở Tỳ-xá-ly, di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề nhận thấy rằng mạng sống
của người đã tàn, sắp chấm dứt. Trong Bách khoa Phật học cho biết rằng
ngài đã sống thọ đến 120 tuổi. Di mẫu đã đến cáo từ Đức Phật và
do Đức Phật yêu cầu người đã thị hiện thần thông để xua tan nghi ngờ
về sự chứng đắc của nữ giới. Điều này có ghi trong Apadana như sau:
"Thinam dhammabhisamaye ye bala
vimatim gata tesam ditthipahanattham iddhim dassehi gotami".
Cũng có nhiều điềm lạ trong tang
lễ của di mẫu. Như thế di mẫu là người duy nhất thứ hai (sau Đức Phật)
xuất hiện phép lạ sau khi đã tịch.
Nhiều sớ luận về huyền thoại
liên quan đến các Trưởng lão ni ghi rằng vào thời của Đức Phật
Padumuttara, di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã lập nguyện cầu chứng đắc trí
tuệ. Rồi ngài sanh vào một gia đình trưởng giả ở Mamsavati, và khi nghe
Đức Phật giảng đến ‘Rattannuta’ cho một vị ni nọ thì di mẫu
đã nguyện rằng cầu cho ngài sẽ được sự chứng đắc tương tự và
làm nhiều nghiệp lành.
Trong vài kiếp quá khứ, có vài lần
di mẫu được sanh ở Ba-la-nại và là người nổi bật nhất trong năm
trăm hầu nữ. Khi sắp đến mùa an cư, năm vị Bích chi Phật từ Nadamulaka
tới Chư Thiên Đoạ Xứ (Isipatana) tìm nơi trú ẩn. Di mẫu thấy họ
bị một trưởng giả từ chối không cho chỗ trú, di mẫu mới thuyết phục
những nữ hầu kia. Chồng của một số vị đó đã dựng năm túp lều
tranh và cúng dường tứ sự cho các vị Bích chi Phật. Cuối mùa hạ đó,
họ còn dâng ba y cho mỗi vị Phật. Sau đó, di mẫu tái sanh ở ngôi làng dệt
vải gần Ba-la-nại và một lần nữa cúng dường cho năm trăm vị Bích Chi
Phật….
Trong kinh Bổn sanh có đề cập tên
Ma-ha-ba-xà-ba-đề vài lần. Di mẫu đã từng là một con khỉ mẹ trong kinh
Culanandiya, nàng Canda trong kinh Culla-Dhammapala và Bhikkhadayika, con gái của
Kiki, vua xứ Ba-la-nại.
Có một câu chuyện về di mẫu
Ma-ha-ba-xà-ba-đề đã từng là vú nuôi sanh ở Devadaha. Người đã từ bỏ
cuộc đời trần gian với nhiều sầu khổ và bị quấy rối bởi tham,
sân, si suốt trong hai mươi lăm năm qua. Cuối cùng khi nghe được ngài
Dhammadinna thuyết giảng, người đã nhiếp tâm hành thiền, sống hạnh viễn
ly và thành tựu đạo quả A-la-hán.
Tóm lại, từ quan điểm lịch sử
ni giới, di mẫu là người phụ nữ đầu tiên quan tâm đến quyền lợi nữ
giới nếu không muốn nói là quyền con người. Giáo lý Đức Phật là
giáo lý duy nhất vào thời đó đã nhận ra sự bình đẳng tâm linh giữa mọi
giới tính. Đi theo đạo Phật là con đường duy nhất để thoát khỏi xiềng
xích nô lệ. Đạo Phật tôn trọng và đối xử tất cả mọi người một
cách bình đẳng. Di mẫu đã thuyết phục được Đức Phật cho nữ giới
xuất gia, vì lời thỉnh cầu của di mẫu là hợp lý với quan điểm này của
Đức Phật.
WUS University Hostel, Delhi 25-01-05
THAM KHẢO
- Encyclopaedia of Buddhism, Vol. VI, published by the
Department of Buddhist Affairs, Ministry of Buddhasasana, Sri Lanka, 2002.
- The Buddha and his Teachings, Narada, Buddhist Missionary
Society, Malaysia, 1977.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/dimau.htm