Chúng ta đã được biết Đức Phật đã thành công rực
rỡ và xuất sắc trong sứ mệnh thuyết pháp độ sanh. Trong thời Ngài tại
thế, Ngài đã hóa độ cho hai chúng xuất gia và tại gia của Ngài, khiến
cho hàng nghìn, hàng vạn người chứng quả. Ngài còn nhiếp phục các ngoại
đạo và tà giáo, khiến họ chấp nhận giáo lý của Ngài và trở thành Phật
tử.
Ngài lại còn cảm hóa rất nhiều
vua chúa, đại thần, trăm họ. Cho nên luôn luôn Ngài được các vị Tỷ
kheo, các vị Tỷ kheo ni, các nam cư sĩ và các nữ cư sĩ, vua chúa, đại thần,
ngoại đạo sư, ngoại đạo đệ đoanh vây tôn trọng, hỏi pháp, cúng dường.
Điều chúng ta muốn tìm hiểu ở
đây là Ngài đã dùng pháp môn gì trong khi tiếp xúc với nhiều thành phần
như vậy, mà vẫn giữ phong thái giải thoát nhẹ nhàng của một vị "Đã
tịnh chỉ tất cả hành, đã chấm dứt mọi sanh y, đã diệt trừ khát
ái, đạt đến ly tham, đoạn diệt, Niết bàn". Như Ngài thuyết cho
chúng ta rõ, Ngài đã an trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất
động, như đã trình bày trong Kinh Đại Không, số 122, Kinh Trung Bộ.
Ngài nói : "Những sự an trú
này, này Ànanda, đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tức là sau khi
không tác ý tất cả tướng, chứng đắc và an trú nội không. Và này
Ànanda trong khi Như Lai an trú trong an trú này, nếu có nhũng Tỷ kheo, Tỷ
kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, quốc vương, đại thần, ngoại đạo đệ tử
đến yết kiến, trong khi ấy, này Ananda, Như Lai với tâm hướng đến viễn
ly, thiên về viễn ly, nặng về viễn ly, sống độc cư, hoan hỷ trong ly dục,
làm cho đoạn tất cả pháp, dựa trên ấy các lậu hoặc an trú, nói
lên tại chỗ ấy những lời thuần túy liên hệ đến khích lệ". Như
vậy Thế Tôn đã an trú nội không, và nhờ an trú nội không, nên đã an
trú rất nhiều. Và với kinh nghiệm bản thân như vậy, nên Đức Phật đã
dạy cho hàng đệ tử của mình phương pháp an trú nội không này rất kỹ
lưỡng và nhiều chi tiết như đã ghi rõ trong Kinh Đại Không.
Trước khi an trú nội không, vị Tỷ
kheo cần phải an định nội tâm, tức là cần phải tu thiền, chứng đắc
sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, chứng tỏ muốn
an trú nội không có hiệu quả, vị hành giả cần dựa trên sức mạnh của
thiền lực. Có thiền lực thời an trú nội không mới có kết quả.
Rồi người hành giả phải tự
quan sát mình, trong khi an trú nội không như vậy, tâm của mình có thích
thú, tịnh tín, an trú và hướng đến nội không, ngoại không, nội ngoại
không, và bất động hay không?
Nếu tâm mình chưa có hân hoan, thì
người hành giả cần phải an trú, an tọa, chuyên nhất và an định nội tâm
trên định tướng đã đề cập đến trước.
Sự hành trì này chỉ chấm dứt
khi vi hàng giả nhận thấy mình an trú nội không với tâm thích thú, hân
hoan, tịnh tín, an trú và hướng đến nội không. Người hành giả liên tục
an trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất động, vị ấy ý thức
rõ ràng như vậy.
Trong khi vị ấy đang an trú với an
trú này, nếu vị ấy hướng đến đi kinh hành, với tâm an trú rằng: "Trong
khi ta đi kinh hành, tham và ưu, các ác bất thiện pháp không được chảy vào".
Vị ấy phải tự mình ý thức rõ ràng như vậy.
Cũng vậy khi vị ấy đứng lại,
ngồi và nằm xuống, luôn luôn trong uy nghi. Cử chỉ nào vị hành giả cũng
giữ gìn không tham ưu, các ác bất thiện pháp chảy vào. Trong khi vị ấy
an trú này, nếu vị hành giả nói, vị ấy sẽ không nói đến các lời
nói phù phiếm vô ích.
Vị ấy không nói đến các câu
chuyện hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ
đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết bàn. Trái lại, vị hành giả có nói, thời nói đến
những lời khắc khổ, khai tâm, đưa đến nhất hướng yếm ly, ly tham đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn, như là thiểu dục luận,
tinh cần luận, tri, độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận,
túc luận, giới luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải
thoát tri kiến luận. Vị ấy nghĩ: "Ta sẽ nói những luận như vậy".
Ở đây vị ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Lại nữa, vị hành giả trong khi an
trú với an trú như vậy, tâm vị ấy khởi lên những suy tầm (Vitakka). Vị
ấy không suy tầm đến các tầm hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng
bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yểm ly, ly
tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn, như dục tầm,
sân tầm, hại tầm. Trái lại, vị ấy suy tư đến các suy tầm có khả năng
cầu tiến, hướng dẫn người suy tầm đến đoạn trừ hoàn toàn khổ
đau, như dục ly tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Vị ấy nghĩ: "Ta
sẽ suy tư như các loại tầm này". Ở đây vị ấy ý thức rõ
ràng như vậy.
Vị hành giả có ý thức nhận định
năm dục trưởng dưỡng (Kàmagunà), tức là sắc đẹp, tiếng hay, hương
thơm, vị ngon, xúc êm dịu. Nếu vị hành giả thấy rằng mình còn tham dục
đối với năm dục trưởng dưỡng, khả ái này, vị ấy ý thức rõ ràng
mình còn đang tham dục đối với năm dục trưởng dưỡng. Trái lại, trong
khi quan sát như vậy, biết rằng tâm mình không có tham dục đối với năm
dục trưởng dưỡng, thời vị ấy ý thức rõ ràng tâm mình không có tham
dục khởi lên đối với sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc
êm dịu. Vị ấy ý thức rõ ràng là như vậy đối với năm dục trưởng
dưỡng.
Còn đối với năm thủ uẩn, vị hành
giả cần phải tùy quán chúng để đoạn diệt chúng: Đây là sắc, đây
là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt. Đây là thọ, đây là thọ tập
khởi, đây là thọ đoạn diệt. Đây là tưởng, đây là tưởng tập khởi,
đây là tưởng đoạn diệt. Đây là hành, đây là hành tập khởi, đây
là hành đoạn diệt. Đây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức
đoạn diệt.
Trong khi vị hành giả an trú tùy
quán sự sanh diệt của năm thủ uẩn này, nếu có ngã mạn (asminàna) nào
khởi lên đối với năm thủ uẩn, ngã mạn ấy được đoạn tận. Sự kiện
là như vậy, thời vị hành giả tuệ tri như sau: "Phàm có ngã mạn
nào khởi lên nơi Ta, Ta sẽ đoạn tận ngã mạn ấy". Ở đây vị
ấy ý thức rõ ràng như vậy.
Cuối cùng Đức Phật nhắc lại
cho tôn giả Ànanda, những pháp ấy thuần nhứt, liên hệ đến thiện, thuộc
hiền thánh, siêu thế, vượt khỏi tầm của Ác ma. Đó là những pháp nằm
trong an trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất động. Chính nhờ
những pháp này, người hành giả y như tu tập hành trì, nhờ vậy, dầu
cho có được người đời tôn trọng, cung kính, cúng dường, cũng không rơi
vào đọa lạc.
Cuối bài kinh này, thế tôn nói
lên ba trường hợp khởi lên bất hạnh cho hàng đạo sư, cho hàng đệ tử
và cho các vị tu Phạm Hạnh.
Thế nào là sự bất hạnh cho vị
Đạo sư? Có vị Đạo sư (chỉ cho ngoại đạo) lựa một trú xứ xa vắng,
trong rừng, dưới một gốc cây. Trong khi sống viễn ly như vậy, vị ấy
được các Ba La Môn, cả thị dân và nông dân bao vây xung quanh, tôn trọng
cúng dường. Vị Đạo sư ấy sanh tâm phóng dật, khởi lên tham dục, rơi
vào dục vọng, khởi lên tham ái, rơi vào đời sống đầy đủ vật chất,
trở lui lại vào đời sống sung túc. Như vậy được gọi là sự bất hạnh
cho các vị Đạo sư, vì các ác bất thiện pháp, tạp nhiễm, dẫn đến tái
sanh, đáng sợ hãi, đưa đến khổ quả, dẫn đến sanh già chết trong tương
lai, các pháp ấy tấn công vị Đạo sư. Như vậy là sự bất hạnh cho vị
Đạo sư.
Thế nào là sự bất hạnh cho vị
đệ tử ? Vị đệ tử bắt chước vị đạo sư của mình, lựa một trú
xứ xa vắng, trong rừng núi thâm sâu. Khi sống viễn ly như vậy người đệ
tử được Bà la môn, gia chủ, cả thị dân, nông dân bao vây xung quanh để
tôn trọng cúng dường. Vị đệ tử ấy được bao vây như vậy, khởi lên
nhiễm tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lui lại đời sống
sung túc. Như vậy được gọi là sự bất hạnh cho hàng đệ tử, vì các
ác bất thiện pháp tạp nhiễm, dẫn đến tái sanh, đáng sợ hãi, đưa đến
khổ quả, dẫn đến sanh già chết trong tương lai, các pháp ấy tấn công
người đệ tử. Như vậy là sự bất hạnh cho người đệ tử.
Như thế nào là sự bất hạnh của
các vị đồng tu Phạm hạnh? Ở đây, Như Lai xuất hiện là bậc A La Hán
Chánh Đẳng Giác. Ngài sống viễn ly tại một trú xứ xa vắng, được các
Ba la môn, gia chủ, thị dân, nông dân cúng dường cung kính. Ngài không khởi
lên nhiễm tâm, không rơi vào dục vọng, không khởi lên tham ái, không trở
lui lại đời sống sung túc. Có vị đệ tử của bậc Đạo Sư sống theo
hạnh viễn ly tại một trú xứ xa vắng. Trong khi sống viễn ly như vậy, các
Bà la môn, gia chủ, cả thị dân và nông dân đoanh vây vị ấy để cung kính
cúng dường. Được tôn trọng như vậy, vị đệ tử khởi lên nhiễm
tâm, rơi vào dục vọng, khởi lên tham ái, trở lại đời sống sung túc.
Như vậy gọi là bất hạnh cho các vị tu Phạm hạnh, vì các ác bất thiện
pháp, các pháp đáng sợ hãi, đưa đến sanh già chết trong tương lai tấn
công vị ấy. Như vậy là sự bất hạnh cho các vị tu Phạm hạnh.
Trong ba sự bất hạnh này, nguy hiểm
nhất là sự bất hạnh cho các vị đồng tu Phạm hạnh, vì trước hết là
có sự liên hệ trực tiếp đến Giáo hội Tăng già của Đức Bổn Sư chúng
ta. Sau nữa, vị đệ tử đã là đệ tử của Đức Bổn sư lại không
nghe lời giảng dạy của Đức Thế Tôn, không hành trì theo pháp môn an
trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất động, cuối cùng khởi
lên tâm uế nhiễm và tâm tham ái, rơi vào các dục vọng, và trở lại đời
sống sung túc của một vị tại gia. Tác động của người đệ tử này
đem lại nhiều tai hại cho người đồng tu Phạm hạnh, cũng như đem lại
nhiều bất hạnh cho bản thân. Do vậy cuối cùng Đức Phật khuyên các đệ
tử của mình nên đối xử với Ngài với tâm thân hữu, không với tâm
thù nghịch. Tâm thân hữu ở nơi đây, chỉ có bậc Đạo Sư vì lòng từ
mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, nói lên con đường đưa đến hạnh phúc
cho người đệ tử. Và đệ tử ở đây chịu nghe theo, chịu lắng tai,
không chú tâm vào hướng khác, và không ngượi lại đi xa lời dạy của bậc
Đạo Sư. Ở trong Kinh này đối xử với Ngài với tâm thân hữu là an trú
nội không, ngoại không, an trú nội ngoại không, an trú bất động. Chỉ có
an trú như vậy, người đệ tử khi được các Ba la môn, gia chủ, thị
dân và nông dân bao quanh tôn trọng cúng dường, vị đệ tử không có đổi
khác, không có rơi vào dục vọng, không khởi lên tâm tham ái, nhờ vậy
không có trở lui đời sống sung túc, không có hoàn tục.
? nơi đây, chúng ta chứng kiến tất
cả lòng từ bi thương tưởng của Đức Phật đối với chúng ta, các
chúng đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài. Không những Ngài đã an trú
nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất động không để giữ vững
trạng thái an nhiên giải thoát của một vị đã thật sự giải thoát,
Ngài còn giảng dạy pháp môn ấy cho các đệ tử của Ngài, để giúp đệ
tử khỏi rơi vào sự bất hạnh của các vị đồng tu Phạm hạnh. Nghĩa
chữ Không trong kinh này được trình bày thật rõ ràng. Tất cả những
cung kính cúng dường đoanh vây vị hành giả, vị hành giả đ?u quán với
nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất động, tức là vị ấy
hành trì hạnh viễn ly, hạnh độc cư, hạnh thiểu dục tri túc, và đoạn
tận các pháp, dựa trên ấy các pháp lậu hoặc có thể sanh khởi, vị
hành giả hoàn toàn đoạn tận các pháp ấy.
Như vậy là thật nghĩa chữ KHÔNG
trong kinh Đại không.
(Trích Tuyển tập "Hãy Tự
Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi", Saigon, 1990)
Chân thành cám ơn đạo hữu
Nguyễn Nhi đã giúp đánh máy vi tính và đạo hữu Bình Anson gởi tặng
cho ban biên tập Đạo Phật Ngày Nay