- GÓP Ý VÀ TÌM HƯỚNG
GIẢI QUYẾT THEO TINH THẦN CHÁNH PHÁP
Vừa qua chúng tôi theo dõi báo
Gíac ngộ có đăng ba bài viết của ba tác giả đó là bài " Ở thất
– niềm vui và nỗi buồn" ( Phiêu Nhiễu ); "Nên có cái nhìn theo
tinh thần Phật giáo" ( Thích Thiên Hương ); "Nên suy nghĩ kỷ về
chuyện ở thất" ( Nhật Nguyệt ). Quả thật đây là 3 bài viết có
tinh thần cởi mở, thẳng thắn và xây dựng rất cao. Tuy nhiên bài của
tác giả Nhât Nguyệt chỉ nằm trong suy nghĩ vốn xưa nay bút mực đã từng
hao tốn. Điều đáng gây chú ý và đọng lại trong chúng tôi là hai bài của
hai tác giả còn lại.
Trước hết là bài "ở thất-
niềm vui và nỗi buồn" của Phiêu Nhiễu. Đọc bài này chúng tôi cảm
nhận đây là những lời rất chân thành. Những bộc bạch đã được kiểm
nghiệm qua một thời gian tiếp cận với sự thật. Điều đáng ghi nhận
và trân trọng là tác giả đã dám nhìn thẳng vào sự thật, nói lên tiếng
nói của người trong cuộc. Vì vậy, chúng tôi nghĩ mọi người đều thông
cảm chứ không ai có cái nhìn thiên kiến về những gì mà tác giả đã
nêu.
Bài "Nên có cái nhìn theo tinh
thần Phật giáo" thì ở tầm cao hơn. Bởi lẽ ngoài những tâm sự,
tác giả còn gợi mở để chúng ta tìm hướng giải quyết cho số phận các
ngôi tịnh thất như vậy.
Tới đây chúng tôi muốn nhìn lại
sự hình thành và phát triển các ngôi chùa ở Việt nam. Qua các tài liệu
sử sách cũng như cuốn danh bạ các ngôi chùa, tịnh thất, tịnh xá, niệm
phật đường của Giáo hội chúng ta ấn hành và xuất bản, đều có một
điểm chung là các ngôi tự viện ban đầu được xây dựng mang tính "
tự phát" ( ngoại trừ một số ngôi chùa được các vị vua chúa mến
mộ Phật pháp xây dựng trong các triều đại phong kiến). Các ngôi chùa đầu
tiên được xây dựng thường là một vị thầy hoặc cô. Vị thầy, cô
này thường đi tới một vùng đất nào đó, dựng lên một thảo am ở để
tu hành, dần dần lâu ngày hội đủ cơ duyên trùng tu và xây dựng, gắn
lên một tấm bảng hiệu để tiện cho tín đồ biết mà tìm đến. Nguyên
nhân thứ hai là các vị thầy, cô theo dòng di dân, dãn dân vào một vùng
đất mới, ban đầu cũng chỉ là am tranh, tượng giấy… và rồi theo
"cổ lệ" mà thành ngôi chùa. Một nguyên nhân cũng đáng chú ý,
là có một Phật tử tự xây dựng rồi khi có duyên với một vị thầy,
cô nào đó thì thỉnh mời và hiến cúng. Bằng khả năng, đức độ và phước
báu riêng của các vị kế nhiệm, ngôi chùa mỗi ngày được mở rộng thêm
và xây dựng hoàn thiện, khang trang hơn. Điều đó cho chúng ta thấy rằng,
sự tham gia đóng góp thành tâm, tích cực của mỗi cá nhân tạo nên một
tài sản khổng lồ cho Giáo hội và nó còn là nơi sinh hoạt tâm linh cho tất
cả những người muốn tìm về nguồn tâm của chính mình.
Chúng tôi may mắn được ở trong một
ngôi "Phạm vũ huy hoàng" nên đời sống tu học cũng tương đối
nhẹ nhàng. Ngôi chùa này được truyền thừa đến nay đã ba đời. Nhiều
lần nghe bổn sư chúng tôi kể lại những khó khăn, khổ cực gặp phải của
bậc tiền bối khi mới "ly sơn" để tìm đất tạo tự. Chúng tôi
mới thấm thía và mang ơn quá nhiều những gì mà cổ nhân đã cống hiến.
Chúng tôi cũng có cơ duyên quen được nhiều vị thầy, cô đang ở các tịnh
thất. Cho nên chúng tôi thật sự hiểu và thông cảm cho quý thầy, cô. Phải
chăng tất cả đều do quy chế chưa thông thoáng của Giáo hội? Hoặc do
cái nhìn chưa có tính tổng quát? Hoặc do chúng ta đã không tiên liệu đúng
quá trình vận hành hình thành và phát triển các ngôi tự viện cho 50 năm
sau? Hoặc có những nguyên nhân nào có sức thuyết phục hơn? Tất cả quý
thầy, cô đều làm theo "cổ lệ" nên chẳng có chuyện đúng hay
sai gì ở đây cả. Bằng những cuộc tiếp cận thực tế, nên chúng tôi
thấy có những ngôi tịnh thất xây dựng, thiết kế, tổ chức tu học
khá bài bài bản hơn một vài ngôi chùa nhỏ. Có những ngôi tịnh thất diện
tích rộng hơn các ngôi chùa ở nội thành. Chỉ một điều thua duy nhất là
không có bảng hiệu và không được sự công nhận của Giáo hội. Cái
nhìn của Phật giáo là cái nhìn của trục hệ luận "NHÂN – DUYÊN -
QUẢ" ba đời. Vì vậy nên chúng ta phải thật bình tĩnh mới nhận diện
nó đúng một cách trọn vẹn. Mỗi vị thầy, cô đều có nhân duyên với
một số Phật tử nào đó. Họ đã là quyến thuộc từ nhiều đời nhiều
kiếp. Nay hội ngộ họ trở thành thầy trò của nhau. Phật tử chấp nhận
qui tụ tu học và hộ trì các vị thầy ở thất cũng phát xuất từ tinh
thần Phật giáo.
Cần phải nói thêm rằng, bên cạnh
đó cũng có một vài ngôi tịnh thất, một vài Tăng Ni chưa đạt được
tiêu chuẩn như đã nêu ở trên. Điều này đã làm hao tốn không biết bao
tâm lực cho chư Tôn đức lãnh đạo, đồng thời khiến cho nhiều người
nhìn và hiểu không đúng về việc " ly sơn" của các vị Tăng Ni
khác. Nhưng không vì vậy mà chúng ta có thành kiến hoặc phát biểu thiếu
tôn trọng, để rồi vàng thau lẫn lộn. Thiết nghĩ các nhà lãnh đạo Giáo
hội nên có phương thức hợp lý, tạo điều kiện để quý thầy, cô an
tâm tu học. Khi danh chính ngôn thuận, những nơi ấy chính là cơ sở và
tài sản của Giáo hội như bài viết trước đó đã nêu. Còn những ai chưa
hoàn thiện cũng cần được xây dựng và cảm hoá bằng cái tâm của người
con Phật. Tạo điều kiện để họ quy hướng về Tăng đoàn, sự chuyển
hoá nhuần nhuyễn bao giờ cũng đem lại một kết quả thánh thiện.
Người xưa thường nói đất lành
thì chim đậu. Cái hồn của đất luôn đãi những ai cần cù, siêng năng,
tinh tấn…. Từ cái nôi đồng bằng sông Hồng, bằng những cuộc di dân của
người xưa đã cho chúng ta có được dải đất hình chữ S như hôm nay. Nếu
ai đó bảo chúng ta quay về nơi xuất phát thì có hợp với quy luật phát
triển của tự nhiên không?. Quý thầy, quý cô cũng nằm trong quy luật tự
nhiên đó.
Tìm hướng giải quyết trong ôn
hoà, trong tình xây dựng và đúng với tinh thần chánh pháp là một việc
làm rất cần thiết. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay số lượng tịnh thất
đã tự thành lập cũng "khá nhiều". Nên chăng Giáo hội cần có một
văn bản chính thức nhằm hạn chế đồng thời đưa ra một số tiêu chí
để những người sau suy nghĩ kỷ lại trước khi " ly sơn" để thành
lập những tịnh thất theo ý mình?!