- Ôm lấy niềm đau sau
trận hải chấn
- Giảng tại Làng Mai Xóm Thượng, Chùa Pháp
Vân ngày 30 thang 12 năm 2004
Kính thưa đại chúng, hôm nay là ngày 30 tháng chạp năm
2004, chúng ta đang ở tại xóm Thượng.
Trong kinh Du Hành có chuyện một chú sa di đem tin tới
cho đức Thế Tôn là thầy Xá Lợi Phất mới qua đời. Vị sa di đó tên
là Cunda (Thuần Đà). Hồi đó Bụt đang ở miền Bắc sông Hằng tại
thành phố Vaisali. Thầy Xá Lợi Phất tịch ở quê hương của ngài. Chú sa
di Thuần Đà đợi cho lễ trà tỳ xong mới đem tro của thầy về
cho Bụt. Tro được để trong một cái bát. Chú nói: 'Đây là tro của thầy
con. Thầy con vừa mới tịch.' Trước khi chú sa di Thuần Đà được gặp
đức Thế Tôn thì chú đã được gặp thầy A Nan . Khi chú chỉ vào cái
bát và nói đây là tro của thầy Xá Lợi Phất thì thầy A Nan bủn rủn
tay chân và đứng không vững. Sau đó thầy A Nan đưa chú sa di lên thăm đức
Thế Tôn để báo cái tin dữ này. Đức Thế Tôn là một bậc giác ngộ
hoàn toàn. Nhưng chúng ta biết đức Thế Tôn cũng là một con người, và
nghĩ rằng khi nghe tin người đệ tử thương của mình tịch thì thế nào
đức Thế Tôn cũng buồn. Đức Thế Tôn đâu phải là gỗ đá ?
Có điều cái buồn đó không làm cho đức Thế Tôn bủn rủn
tay chân như thầy A Nan . Làm sao mình không buồn được khi mình một người
đệ tử thương vừa tịch ? Thầy A Nan bạch với đức Thế Tôn: 'Bạch đức
Thế Tôn, khi nghe tin sư anh con tịch thì tay chân con bủn rủn, con đứng không
vững.' Đức Thế Tôn an ủi thầy A Nan.
Có một hôm ở xóm Thượng, tôi nằm mơ thấy có hai vị
giáo thọ gởi đi dạy tại các nước Scandinavia , không biết vì tai nạn
nào mà chết ở bên đó. Nghe tin đó tôi khóc. Lúc này ở trong phòng có sư
chú Pháp Hữu, một sư chú Pháp Hữu trẻ hơn Pháp Hữu bây giờ. Tôi ôm
Pháp Hữu. Hai thầy trò ôm nhau khóc. Khi thức dậy tôi mừng quá, thì ra
hai vị đệ tử ấy còn sống. Nhưng mừng thì mừng, cái ấn tượng, cái
nỗi buồn ở trong giấc mơ cũng còn lãng vãng tới mấy ngày.
Mấy ngày nay chú nguyện cho các nạn nhân của trận động
đất sóng thần ở Đông Á, tôi thấy rằng trong giấc mơ mình đã may mắn
có Pháp Hữu để ôm mà khóc, có một người thân để mình chia sẻ niềm
đau nỗi buồn của mình. Có những người mà gia đình chết hết, thì niềm
đau nỗi khổ một mình mình chịu, không có ai để mà chia sẻ. Đó trường
hợp của nhiều chuyện xảy ra trong trận hải chấn ở Đông Nam Á. Trận
hải chấn ở Đông Nam Á xảy ra vào ngày 26 tháng chạp. Số người chết
từ Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, cho đến Miến Điện, con số đó
lên đến gần một trăm ngàn người. Chỉ trong vòng mấy ngày thôi. Và có
những gia đình chết hết. Có một em bé hai tuổi được sóng thần đưa lên
một nơi cao, còn sống, và người ta tìm ra được, nhưng ba má
và anh chị của bé đều chết hết. Động đất ở dưới biển gọi là hải
chấn. Sóng thần đã tràn lên bờ, quét sạch tất cả những làng mạc ở
các miền duyên hải. Ban đầu người ta nghĩ rằng có thể là chỉ khoảng
trên mười ngàn người chết, nhưng mà mỗi giây mỗi phút đồng hồ người
ta đều khám phá ra những cái thây chết. Hiện bây giờ đây con số đã
lên trên tám mươi ngàn (khi chép bài này ra, con số đã lên tới 155 ngàn).
Có những người Âu châu sống sót trở về, họ báo cáo lại rằng họ thấy
cái thân phận con người trong hoàn cảnh đó còn tệ hơn thân phận của một
con kiến, con muỗi, không có nghĩa lý gì cả đối với các đợt sóng thần
kia. Sóng thần lên cao tới mười thước ! Nó phủ ấp vào, cuốn trôi đi
tất cả và kéo ra biển. Bây giờ biển trả lại những xác chết rất nhiều.
Bây giờ người ta chỉ có thể chôn tập thể xuống hố: 50 người, 100
người, 200 người. Không thể nào chôn riêng được ! Ngoài ra ta còn có những
sợ hãi rất lớn : những xác chết không chôn kịp rữa ra sẽ gây ra bệnh
truyền nhiễm: bệnh dịch, thương hàn... và có thể hàng triệu người sẽ
chết vì tai nạn này và đang có hàng năm bảy triệu người không có nhà
cửa, nước uống và cơm ăn. Tất cả các nước Âu châu, Mỹ châu đều
đã gởi máy bay chuyên chở người và phẩm vật về cứu trợ. Đây là một
cái tang lớn cho tất cả nhân loại. Hàng ngàn người Âu châu đã chết,
và nhiều ngàn người chưa biết được tin tức. Có những cặp vợ chồng
mới cưới đi tuần trăng mật ở miền ấy, không bao giờ gọi điện thoại
về nữa. Trong những ngày vừa qua, ngày nào tôi cũng niêm hương, niệm Bụt,
gởi năng lượng cho họ và thân nhân của họ. Thế giới đang chấn động
vì cái tai nạn lớn lao này ở tại Đông Nam Á. Indonesia và Sri Lanka bị nặng
nhất. Những đợt sóng thần đi qua tới bờ biển Phi châu, và hàng trăm
người ở bờ biển Phi châu cũng đã thiệt mạng.
Tuy đang ngồi đây, chúng ta cũng đã chết một phần
nào trong trái tim và trong cơ thể của chúng ta. Ở các miền Bắc Âu như
Thụy Điển có rất nhiều người đi về miền đó nghỉ lễ, đi tìm tới
những chỗ rất thanh tĩnh, rất trong lành, rất ấm áp, vậy mà chỉ trong
mấy phút đồng hồ của cuộc hải chấn đã mất mạng. Các nhà khoa học
nói rằng nếu những nước ở Đông Nam Á có hệ thống báo động thì đã
có thể giúp được cho một số người tránh được thảm họa. Họ nói rằng
có thể có tới bốn giờ đồng hồ để cho người dân trốn chạy. Nhưng
dầu có hệ thống báo động đi nữa, thì làm sao báo được cho dân
chúng: những người không nghe radio, không coi ti vi, những người đang làm
việc ở ngoài biển, những nông dân, những em bé.
Trong số những người Tây phương chết trong trận hải
chấn này, cố nhiên phần lớn là những người đi nghỉ lễ, trốn lạnh,
nhưng cũng có những người đi làm công việc thiện nguyện. Họ không phải
đi chơi, họ đi là để giúp đỡ, nhưng họ cũng chết trong trận hải chấn
này. Cái đau thương nó thúc đẩy chúng ta quán chiếu và suy nghĩ tới thân
phận của con người. Ở trong đạo Chúa, vấn đề này được đặt ra từ
lâu: tại sao Thượng Đế sinh ra thế giới muôn loài mà lại để cho những
thương đau như vậy xảy ra được ? Đó là một đề tài thần học có từ
ngàn xưa. Đạo Bụt nói về thuyết Nhân Quả, mình gây ra nhân gì thì
mình chịu quả đó. Nhưng có người hỏi: 'Tại sao những em bé mới có ba
tuổi, năm tuổi, đã gây ra những tội tình gì mà phải mất cha mất mẹ,
hoặc bản thân mình cũng chết ?' Làm sao cắt nghĩa được luật nhân quả
nghiệp báo ?' Chúng ta, dầu trong truyền thống Cơ Đốc giáo hay truyền thống
đạo Bụt, cũng có những câu hỏi được đặt ra. Tín đồ Cơ Đốc hỏi:
'Tại sao Thượng Đế nhân từ mà lại để cho những cái như vậy xảy ra
?' Phật tử hỏi: 'Tại sao những người đi làm thiện nguyện, những người
đi với một trái tim rất lành, những em bé đang còn ngây thơ, đã gây ra
nghiệp báo gì, tội tình gì mà phải chết như vậy ?'' Có những người nói
rằng, tuy trong kiếp này họ chưa gây ra nghiệp xấu, nhưng trong kiếp trước
có thể họ đã gây ra nghiệp xấu rồi. Chúng ta đi tìm những câu trả lời
tương tự. Thi sĩ Pháp tên là Victor Hugo vào năm bốn mươi mấy tuổi mất
đứa con gái. Cô con gái trên dưới hai mươi. Cô tên là Léopoldine. Thi sĩ
rất đau khổ và ông hỏi trời hỏi đất tại sao như vậy. Đứa con gái
chết cũng vì bị chết trôi. Một bông hoa mơn mởn đang nở như vậy mà bỗng
nhiên bị sóng vùi, gió giập. Lúc đó thi sĩ đã trở về quê của mình,
ở Villequier. Victor Hugo nói trong bài thơ A Villequier: Con người chỉ có thể
thấy được một mặt của sự thật, còn mặt kia bị chìm đắm trong một
màn đêm rất bí mật, rất hãi hùng (Nous ne voyons jamais qu'un seul côté des
choses. L'autre plonge en la nuit d'un mystère effrayant). Con người đã chịu đựng
những khổ đau, những tang tóc mà không biết được tại sao mình phải chịu
đựng (L'homme subit le joug sans connaitre les causes). Tất cả những cái gì con
người thấy, cảm nhận được, đều là ngắn ngủi, đều là vô ích, đều
là vô thường (Tout ce qu'il voit est court, inutile et fuxyant). Victor Hugo kêu Thượng
Đế : 'Thượng Đế ơi, con đến đây đặt trước chân ngài những mảnh
nát của trái tim đầy vinh quang của ngài, trái tim mà ngài đã đập nát
ra thành từng mảnh.' (Je viens à vous, Seigneur, Père auquel il faut croire. Je
vous porte, apaisé, les morceaux de ce coeur tout plein de votre gloire que vous avez
brisé). '' Con thấy rằng chỉ có ngài mới biết được cái gì ngài đang làm
thôi, còn cái thân phận con người chẳng qua chỉ là thân phận của một
cây sậy đong đưa trong gió, chẳng có nghĩa gì cả.'' (Je conviens que vous
seul savez ce que vous faites. Et que l'homme n'est rien qu'un jonc qui
tremble au vent). Con người bất lực, con người không có giá trị gì hết,
thân phận con người là như vậy, và chỉ có Thượng Đế biết là ngài
đang làm gì thôi, và chúng con không hiểu tại sao ngài làm như vậy. Và
các nhà thần học đã tìm cách để giải thích. Trong những lối giải
thích đó có kẻ nói rằng là nếu con người không đau khổ thì con người
không thể nào lớn lên được, vì vậy cho nên những tang tóc và đau khổ
đó là chính Thượng Đế muốn cho mình phải gánh chịu để cho mình học
hỏi và lớn lên. Có những người chấp nhận được cái lý luận đó, nhưng
có những người không chấp nhận được.
Ở Làng Mai, chúng ta đã học nhiều về luân hồi, về
tái sinh. Chúng ta biết rằng trong đạo Bụt bình dân, giáo lý về luân hồi
và tái sinh được dựa trên niềm tin về ngã: một người khi chết đi
sinh ra một người khác hay vật khác. Niềm tin là có sự tiếp nối, là
khi mình chết thì mình không mất hẳn, mình sẽ được tiếp nối dưới một
hình thức khác, đó là luân hồi sinh tử. Nhưng chúng ta đã học rất nhiều
lần rằng trong đạo Bụt thâm sâu, chúng ta phải hiểu luân hồi trong ánh
sáng vô ngã. Nền tảng của đạo Bụt là cái thấy vô ngã. Nếu chúng ta
hiểu luân hồi và nhân quả trên nền tảng hữu ngã thì chúng ta chưa tiếp
xúc được với cái sâu sắc nhất ở trong đạo Bụt. Vì vậy cho nên vấn
đề khổ nạn (the problem of evil) cũng phải được giải quyết trong ánh
sáng của vô ngã. Khi chúng ta đặt ra câu hỏi : 'Tại sao ta phải gánh chịu
tai họa, khổ đau trong lúc những người khác sống phây phây không hề hấn
? Tại sao những em bé đầu xanh chưa có tội tình gì mà đã gánh chịu những
cái tang thương quá lớn lao như vậy ?' Phần lớn các câu trả lời ta được
nghe đều đã căn cứ trên cái ý niệm hữu ngã. Chúng ta biết rằng nếu
chúng ta còn căn cứ trên quan niệm hữu ngã thì chúng ta chưa tìm được câu
trả lời đích thực của đạo Bụt. Và vì vậy các vấn đề
nhân quả, nghiệp báo và luân hồi phải được giải quyết trên nền tảng
vô ngã. Trong Duy Biểu học, chúng ta đã học về nghiệp. Chúng ta thấy có
biệt nghiệp và cộng nghiệp. Những người ở Đông Nam Á, sinh ra ở đó,
lớn lên ở đó, làm ăn lập nghiệp ở đó, thì họ chết vì trận hải
chấn này đã đành rồi, nhưng tại sao hàng chục ngàn người ở Tây phương,
mắc mớ gì mà đi về đó để cùng chết ? Hiện bây giờ có hàng ngàn người
ở các nước Tây Phương vẫn chưa biết sống chết thế nào, mà mỗi giờ
trôi qua như vậy thì cái hy vọng càng bớt đi. Khi một chiếc máy bay nổ,
rơi xuống, có thể là phần lớn những hành khách đi trên chiếc máy bay
chết hết, có chừng một hay hai người sống sót, chúng ta hỏi: Tại sao vậy
? Tại sao không chết hết mà còn một hai người sống ? Khi quán sát như vậy,
chúng ta thấy nghiệp có hai mặt: biệt nghiệp (nghiệp riêng) và cộng nghiệp
(nghiệp chung). Khi ta tìm ra được nguyên tắc biệt nghiệp cộng nghiệp
thì chúng ta đã có thể bắt đầu giải quyết được một phần rất quan
trọng của các vấn đề rồi. Nếu chúng ta đi về hướng của tuệ giác
vô ngã thì chúng ta sẽ từ từ tìm ra những câu trả lời xác đáng. Trong
cuộc chiến Việt Nam, đất nước cũng như con người Việt Nam bị tàn hại
rất nhiều: trên hai triệu người Việt đã chết trong cuộc chiến tranh. Tại
sao hai triệu người đó chết, còn những triệu người khác không chết ?
Nhìn cho kỹ, chúng ta thấy rằng những người không chết cũng đã chết,
và chết ở những mặt khác. Chúng ta thấy rất rõ rằng khi có một người
thương chết, thì chính người đó ít đau khổ hơn những người còn sống.
Sự thật là như vậy. Vì vậy cái đau thương là cái đau thương chung, chứ
không phải là cái đau thương riêng. Victor Hugo, trong suốt cuộc đời làm
thi sĩ của mình, cũng đã tìm hiểu, quán chiếu, và vì vậy rất
nhiều bài thơ của Victor Hugo đã có tính cách quán chiếu. Những bài thơ
có tính cách quán chiếu của Victor Hugo được gom lại và in thành một tập
gọi là Les Contemplations. Contemplation là quán chiếu. Victor Hugo cũng đã tìm
ra được rằng số phận con người là số phận chung, và ông cũng đã
thoáng thấy được cái tính vô ngã của vạn sự vạn vật. Khi tai nạn xảy
ra cho một người trong gia đình, nó xảy ra cho tất cả mọi người trong
gia đình. Khi một tai nạn xảy ra cho một phần của đất nước, nó xảy
ra cho cả đất nước. Khi tai nạn đó xảy ra cho một phần của trái đất,
nó xảy ra cho cả trái đất, và chúng ta đều gánh chung tai nạn đó. Khi
chúng ta thấy được rằng niềm đau của họ chính là niềm đau của mình,
họ chết tức là mình chết, thì chúng ta đã bắt đầu thấy được cái
tính vô ngã. Khi tôi thắp hương và cầu nguyện cho những người chết ở
trận hải chấn, tôi thấy rất rõ là tôi không chỉ cầu nguyện cho những
người chết và cho thân nhân của họ mà cũng cầu nguyện cho chính tôi, tại
vì chính tôi cũng là nạn nhân của cuộc hải chấn đó. Chính chúng ta đã
chết chứ không phải chỉ có trên tám mươi ngàn người chết. Hễ mình
thương là mình thấy được rằng người kia cũng là mình, và nếu người
kia chết thì mình cũng chết. Tuy rằng mình đang ngồi đây, coi như mình
còn sống nhưng kỳ thực mình cũng đã chết. Cái đang xảy ra cho một phần
của cơ thể đã xảy ra cho cả cơ thể. Nhân loại, trái đất là một cơ
thể. Tôi có cảm tưởng rằng trái đất của mình đang đau khổ, và trận
hải chấn này như một tiếng gọi quặn đau của trái đất, như một tiếng
kêu than, kêu cứu, một lời cảnh cáo. Lâu nay chúng ta sống với nhau
không có từ bi, chúng ta tiêu diệt nhau, chúng ta làm khốn khổ luôn cả đất
mẹ. Vì vậy cho nên trái đất đã quặn mình, đã rên siết, đã khổ
đau. Trái đất là mẹ của tất cả mọi loài. Chúng ta làm khổ nhau và
chúng ta làm khổ mẹ. Những trận hải chấn như vậy là những tiếng
chuông chánh niệm. Sự đau khổ của một phần nhân loại là sự
đau khổ của cả nhân loại. Chúng ta phải thấy như vậy, chúng ta phải tỉnh
dậy !
Ngày xưa, mỗi khi có thiên tai, như lụt lội, hay động
đất, hay bệnh dịch, các vị vua chúa ở các nước Á châu cảm thấy đó
là cái lỗi chung, và họ tin rằng là những người trị nước, họ đã
không sống xứng đáng để cho tai họa thiên nhiên đổ ập xuống đất
nước và dân chúng. Thường thường các vị vua chúa ở Á châu, mỗi khi
có tai nạn thiên nhiên như vậy thì phát nguyện ăn chay, nằm đất, cầu
nguyện, và các quan trong triều cũng ăn chay, nằm đất, cầu nguyện theo
như vậy trong nhiều tuần lễ. Rất hay ! Truyền thống ấy hiện bây giờ
không còn nữa. Một ông vua phát nguyện ăn chay, phát nguyện không nằm
trên giường ngự nữa, đem chiếu trải xuống nằm dưới đất. Nó có nghĩa
là ông vua đó đã thấy được rõ trách nhiệm của mình, mình đã sống
như thế nào, mình đã cai trị như thế nào mà để cho những tai ương
như vậy xảy ra trong nước. Hành động ăn chay, nằm đất của vua, của các
quan trong triều đình là hành động của sự sám hối. Rất đẹp ! Các
nhà làm chính trị thời nay không thấy được như vậy. Chúng ta không phải
là những nhà chính trị, chúng ta không phải là những ông vua, nhưng chúng
ta thấy những đau thương khổ nạn xảy ra cho trái đất, cho nhân loại như
vậy, thì chúng ta cũng phải ăn chay, chúng ta cũng phải nằm đất, chúng
ta cũng phải tu tĩnh trở lại, tại vì cái nghiệp là cái nghiệp chung. Tất
cả chúng ta, dầu ít dầu nhiều, cũng đã đóng góp vào cái nghiệp chung,
và những tai họa xảy ra cho bất cứ một bộ phận nào của trái đất, của
nhân loại, thì dầu ít dầu nhiều chúng ta cũng phải chịu chung một phần
trách nhiệm. Và khi người ấy chết thì ta cũng chết, người đó đau ta
cũng đau, người đó tuyệt vọng ta cũng tuyệt vọng. Thấy như vậy là
cái thấy vô ngã. Trong cái thấy của Victor Hugo, người ta tìm ra được cái
ý hướng, cái nhận thức của sự vượt thoát cái ngã. Khi người ta thấy
được cái tính vô ngã của những hiện tượng thương đau như vậy, thì
người ta bắt đầu chấp nhận được và chịu đựng được những đau
khổ đó, và người ta không còn phản kháng nữa, phản kháng Thượng Đế,
phản kháng lại thân phận con người. Trong Đạo Đức kinh có câu:
Thiên địa bất nhân dĩ vạn vật như sô cẩu
Thánh nhân bất nhân dĩ vạn vật như sô cẩu
Có nghĩa là trời đất bất công coi muôn loài như là
con chó rơm, các bậc thánh nhân là bất nhân tại vì các bậc thánh nhân cũng
coi muôn loài như là con chó rơm. Con chó rơm, tức là thân phận tồi tàn,
không có nghĩa gì cả. Sanh ra muôn loài lại để muôn loài đau khổ và chết
chóc như vậy thì trời đất quả thật là bất nhân. Thánh nhân ở đây tức
là các vị vua. Những hiệu lệnh của vua gọi là thánh chỉ, những ý kiến
của vua gọi là thánh ý. Thánh nhân ở đây là các nhà làm chính trị.
Các nhà làm chính trị quyết định về số mạng của con người, họ quyết
định phải đi chinh phục, phải tạo chiến tranh, và vì vậy họ cũng bất
nhân như trời và đất. Đó là những câu phản kháng về số phận con người.
Lát nữa đây, chúng ta sẽ niệm danh hiệu của đức Bổn
Sư, danh hiệu của đức bồ tát Văn Thù Sư Lợi, danh hiệu của đức bồ
tát Phổ Hiền và danh hiệu của đức bồ tát Quan Thế Âm. Chúng ta như một
tăng thân hãy chế tác ra năng lượng của từ bi, của chánh niệm, chúng
ta ôm lấy hết cả trái đất, chúng ta cầu nguyện cho tất cả những nạn
nhân, chúng ta cầu nguyện cho gia đình của họ hiện bây giờ đang khóc,
người thì có người ôm lấy để khóc, người thì không có ai để ôm
mà khóc, và chúng ta cầu nguyện cho chính chúng ta, tại vì chúng ta cũng là
nạn nhân của trận hải chấn kinh khiếp vừa mới xảy ra. Xin đại chúng
quán chiếu. Đây là cơ hội để cho chúng ta lớn lên, để chúng ta hiểu
thêm. Dù quý vị đến từ truyền thống Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo, hay Phật
giáo, quý vị cũng phải quán chiếu. Cái chìa khóa của sự quán chiếu là
vô ngã. Victor Hugo là người Cơ Đốc giáo, ông đã tìm ra được sự vượt
thoát cái ngã. Chúng ta phải quán chiếu rằng người chết đó cũng chính
là ta, người mồ côi đó cũng chính là ta, em bé đó cũng chính là ta. Chỉ
như vậy chúng ta mới chấp nhận được, chịu đựng được những nỗi
đau thương quá lớn như nỗi đau thương hôm nay.
Xin đại chúng ngồi thẳng lên, chắp tay lại, để chúng
ta cùng hộ niệm..(chuông).
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/haichan.htm