-
Chương trình Hội Thảo
- Do
Hội Ái Hữu Phật giáo thành phố Milwaukee tổ chức
***
QUAN
ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
VỀ
HÀNH PHẠT TỬ HÌNH
Thứ bảy, ngày
28 tháng 10, năm 2006
4:00 - 6:00g chiều
Tại Chùa PHƯỚC HẬU
1575 W. Oklahoma Ave., Milwaukee
Điện thoại: (414) 383 1155
Các Diễn Giả:
Sư cô Giới Hương, Chùa Phước Hậu
Giáo sư John McAdams, Khoa Chính trị học, Trường đại học Marquette
Sư cô Tonen O' Connor, Trung tâm Thiền học Milwaukee
Ông Peter Newald, Trung tâm Thiền học Great Lake
Kính mời quý vị hoan hỉ tham gia! Cuộc hội thảo mở rộng này sẽ nêu lên các
quan điểm của Phật giáo dựa vào những lời dạy căn bản của Đức Phật và
những nhân tố căn bản, đa dạng, những viễn cảnh liên quan án tử hình và
cuối cùng là phần tham vấn với các diễn giả.
Để cho buổi thảo luận mỹ mãn hơn, xin mời quý vị thuộc mọi đức tin (tôn
giáo) đến chia sẻ, bày tỏ quan điểm riêng cũng như lắng nghe, tìm hiểu
những quan điểm của người khác.
Hãy cất lên tiếng nói của bạn cho cuộc bầu cử sắp đến (vào ngày 7 tháng 11
năm 2006 về việc có nên loại bỏ án tử hình tại tiểu bang Wisconsin này
không?).
***
- CÁC LỜI
DẠY CĂN BẢN CỦA ĐỨC PHẬT
- VỀ HÀNH
PHẠT TỬ HÌNH
Đạo Phật, đạo của từ bi
và trí tuệ, luôn luôn tôn trọng và đề cao cuộc sống của tất cả chúng hữu
tình. Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì muốn mang hoà bình và hạnh
phúc đến cho chư thiên và loài người.
Thực vậy, từ xưa đến nay,
Đạo Phật đã không bao giờ đem khổ đau cho bất cứ ai. Đạo Phật chỉ đưa ra
con đường chuyển hoá đau khổ cho những ai có tâm tìm hiểu và mong muốn để
đạt đến con đường đó.
Hôm nay, nhân dịp Hội Ái
hữu thành phố Milwaukee tổ chức cuộc nói chuyện với chủ đề Quan điểm
của Phật giáo về án tử hình, chúng tôi sẽ làm sáng tỏ đề tài này với
những ý tưởng như sau:
I. Năm giới
Các giới luật quan trọng
và căn bản hướng dẫn phát triển tâm linh rất quen thuộc với giới Phật tử
là thọ trì ngũ giới (Panca Sila):
1. Con phát nguyện vâng
giữ giới không sát hại sanh vật.
2. Con phát nguyện vâng
giữ giới không lấy của không cho.
3. Con phát nguyện vâng
giữ giới không tà dâm.
4. Con phát nguyện vâng
giữ giới không nói dối.
5. Con phát nguyện vâng
giữ giới không uống rượu say.
Trong ý nghĩa tiêu cực,
năm giới này là những điều răn cấm, nghĩa là không được phạm vào bất kỳ
tội lỗi hoặc tội ác nào. Bản chất của sự răn cấm này được thể hiện ở hai
phương diện:
(a) để ngăn chặn và phòng
ngừa tội lỗi hoặc tội ác, chẳng hạn như cấm uống rượu say vì nó có thể dẫn
tới tạo tội lỗi hoặc tội ác;
(b) để chấm dứt và không
tái phạm những tội ác đã làm, như giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối,
v.v… chính bản chất chúng là bất thiện.
Trong ý nghĩa tích cực,
giới đầu tiên giúp chúng ta tăng trưởng lòng từ bi. Giới thứ hai có thể
giúp nuôi dưỡng đức tính thành thật, tâm bao dung, không chấp thủ và chánh
mạng. Giới thứ ba giúp vun bồi khả năng tự kềm
chế, bảo hộ các căn và những cảm xúc, chế ngự lòng ham muốn trần
tục. Giới thứ tư làm cho phát triển niềm tin yêu, tâm chân thật, và đạo
đức chính trực. Và giới cuối cùng giúp chúng ta quay về chánh niệm, tỉnh
thức, và tuệ giác.
Bởi vậy, thực hành thuần
thục những giới luật Phật giáo sẽ giúp chúng ta sống một cuộc sống đạo đức,
thăng tiến đời sống tâm linh trong từng cá nhân đồng thời giúp thúc đẩy
việc chung sống hòa bình trên tinh thần hợp tác, tin cậy lẫn nhau trong
cộng đồng và đẩy mạnh tiến trình xã hội ngày càng phát triển.
II. Giới đầu tiên
Giới đầu tiên ủng hộ xu
hướng phản đối việc phá hủy sự sống. Điều này dựa vào nguyên lý của thiện
tâm và tôn trọng quyền sống của tất cả mọi loài.
Trong kinh Phạm Võng,
Đức Phật chỉ dạy cặn kẽ Giới Bồ tát đầu tiên là: “Đệ tử Phật không được tự
mình giết, hoặc bảo người giết, phương tiện giết, khen tặng sự giết, thấy
giết mà tùy hỷ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết, nhân giết, duyên giết, cách
thức giết, nghiệp giết.
Có năm điều kiện
kết thành hành động giết hại là:
(1) Có hiện hữu một chúng
sanh, con người hoặc loài vật;
(2) Nhận biết rằng chúng
sanh đó đang còn sống;
(3) Dự định hoặc quyết
định để giết;
(4) Dùng phương tiện
thích đáng để thực hiện hành động giết hại;
(5) Và có hậu quả đưa đến
sự chết.
Thiếu bất kỳ một trong
các điều kiện này, hành động giết sẽ không cấu thành, mặc dù sự chết có
xảy ra. Điều đó chỉ được xem như sự cố tai nạn và không gây ra hiệu ứng
tội lỗi nào cho người làm hành động này.
Có sáu cách giết:
(1) giết bằng chính bàn tay của mình, (2) ra lệnh cho kẻ khác giết, (3)
giết bằng cách bắn, ném đá, đánh gậy, v.v…, (4) giết bởi việc đào những
hầm hố, v.v... để đánh bẫy chúng sanh, (5) giết bởi dùng thần lực, hoặc
các phương cách bí ẩn, và ( 6) giết bằng mật chú, hoặc khoa học huyền bí
nào đó.
Dù sử dụng công cụ nào để
giết hoặc phá hủy đời sống tâm linh của chúng sanh đi nữa thì kẻ đó đã
phạm vào sát sanh nghiệp đạo rồi.
Bởi vậy, một Phật tử chân
chánh không thể làm hoặc ủng hộ án tử hình bởi vì án tử hình đồng nghĩa
với việc tước đoạt hay chấm dứt đời sống con người với năm điều kiện và
bất kỳ một trong sáu cách giết nói trên.
III. Tâm từ bi
Ở giới đầu tiên trong
Kinh Phạm Võng,
Đức Phật dạy rằng “là Phật tử lẽ ra phải luôn có lòng từ bi, lòng hiếu
thuận, lập thế cứu giúp tất cả chúng sanh. Mà trái lại, tự phóng tâm nỡ
lòng sát sanh, Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội”.
Do tuân thủ giới này
chúng ta biết cách vun bồi tâm từ và tâm bi. Nên thương yêu những người
khác như chính mình vậy. Cảm nhận được đau khổ của người khác như của
chính mình thì chúng ta sẽ sẳn sàng làm cách nào đó để có thể giúp họ vơi
bớt khổ đau.
Như vậy, chúng ta trau
giồi tâm từ bi và tăng trưởng tinh thần vị tha chính vì phúc lợi của người
khác, ý thức tôn trọng và bảo vệ cho tất cả chúng sanh.
Trong Kinh Từ bi, Đức
Phật cũng dạy:
Mong rằng
không có ai,
Lường gạt,
lừa dối ai,
Không có ai
khinh mạn,
Tại bất cứ
chỗ nào.
Không vì
giận hờn nhau,
Không vì
tưởng chống đối.
Lại có
người mong muốn,
Làm đau khổ
cho nhau.
Như tấm
lòng người mẹ,
Ðối với con
của mình,
Trọn đời lo
che chở,
Con độc
nhất, mình sanh.
Cũng vậy,
đối tất cả
Các hữu
tình chúng sanh,
Hãy tu tập
tâm ý,
Không hạn
lượng rộng lớn.
IV. Phật tánh
Một nguyên do khác mà giới Phật giáo không ủng
hộ án tử hình là vì Đức Phật có dạy rằng bản chất của mỗi chúng sanh (người
hoặc vật) là thanh tịnh; tinh tế hơn nữa là tâm thanh tịnh, mà cứu cánh
bản tâm đó chính là sự giác ngộ hay tính giác ngộ cũng gọi là Phật tính (Buddhata),
hoặc Tri kiến Phật.
Như Đức Phật xác nhận
trong Kinh Pháp hoa
“…Và Ta thấy hàng Phật tử, có đầy đủ giới đức, uy nghi không thiếu sót,
bản chất trong sạch như bửu châu để trở về tuệ giác”. Vì vậy, nếu nay con
người trở nên bạo lực có thể vì nhiều lý do, nhưng nhất định một trong
những lý do chủ yếu là do ác tư duy khởi lên, như hậu quả từ môi trường và
hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên, tất cả đều có tiềm năng để cải thiện cũng như
có khả năng quay về với bản tính chân thật hằng có của chính mình.
V. Không sát sanh
Như đề cập, tất cả chúng
sanh đều có Phật tính. Vì vậy, chúng ta không những không nên giết người
mà còn không nên làm hại cả loài vật nữa. Vả lại, trong vài trường hợp tùy
theo nghiệp lực, con người có thể tái sinh làm người và loài vật cũng có
thể được sinh lại làm người.
Có một nguyên tắc chỉ đạo
rất căn bản trong Đạo Phật để tu tập đạo hạnh đó là bất hại (ahimsa)
- tức ngăn cấm việc gây tổn thương hoặc chết chóc đối với mọi chúng sanh.
Vì chúng ta ước muốn sống,
chúng ta không nên giết người hoặc ngay cả chúng sanh khác. Hơn nữa,
nghiệp sát sanh phải được hiểu như cội rễ của tất cả khổ đau và nguyên
nhân căn bản của bệnh tật và chiến tranh, và những thế lực giết hại này rõ
ràng đồng nhất với ma quân.
Lý tưởng tối thượng và
phổ quát nhất của Đạo Phật là phụng sự không ngừng nghỉ cho đến khi nào
chấm dứt hoàn toàn vĩnh viễn khổ đau của tất cả chúng sanh, chứ không chỉ
riêng cho loài người.
Như trong kinh Phạm Võng,
Đức Phật nói: ‘Mỗi khi một Bồ tát
thấy có người chuẩn bị giết một con vật, vị ấy thường dùng phương tiện
thiện xảo để cứu chuộc và bảo vệ nó, giải phóng nó vượt thoát khỏi tình
trạng khó khăn và đau khổ đó...’
VI. Ăn chay
Tâm từ bi bao la đối với
tất cả cũng có nghĩa rằng chúng ta không những không giết hại con người và
loài vật mà còn cần phải tuân thủ quy tắc tự gìn giữ chính mình chẳng hạn
như thực hành ăn chay. Đây là những lời dạy tích cực và xác thực từ Đức
Phật liên quan đến sự phát triển hoàn hảo nhân cách của con người.
Tất cả các
chúng sanh –
Loài người
hoặc thú vật,
Rất tham
sống sợ chết.
Đều sợ hãi
con dao đồ tể,
Chặt thái
chúng thành từng miếng.
Thay vì tàn
bạo và hèn hạ,
Tại sao
không dừng giết hại và thương yêu cuộc sống?
Đức Phật khuyến khích
việc ăn chay hoàn toàn là một yêu cầu tự nhiên và hợp lý tương xứng với
giới không sát sanh. Giới Bồ tát cũng rõ ràng cấm hẳn việc ăn mặn.
Tôn giả Đại Ca Diếp hỏi
Đức Phật, “Tại sao Như lai không cho phép ăn thịt?” Đức Phật đáp “chính vì
việc ăn thịt sẽ cắt đứt hạt giống đại từ bi”.
Chúng ta không nên giới
hạn lòng từ bi của mình đối với loài vật hoặc những vật yêu thích, mà hãy
mở rộng đến toàn thể chúng sanh, ngay cả trong số đó có kẻ sai phạm. Lòng
từ bi làm nền tảng cho tất cả mọi quan hệ tương tác của chúng ta với người
khác, mà không cần lưu tâm đến quan điểm và hoạt động của họ là gì.
VII. Báo thù
Vì những lý do và mục
đích nào đó mà hệ thống pháp luật của xã hội đặt ra án tử hình. Án này
chính là dùng để trừng phạt các phạm nhân, ngăn chặn họ không lặp lại hành
động xấu ác đã làm và để răn đe những người khác.
Tuy nhiên, rõ ràng nó
cũng là một hình thức báo thù trong một ý nghĩa tinh tế hơn.
Chúng ta cần phải giảm
bớt sự sợ hãi, lòng thù ghét, và ý muốn báo thù bằng cách tra tấn và sát
hại.
Khái niệm báo thù hoàn
toàn xa lạ với giới Phật giáo. Án tử hình là một hình thức trừng phạt khắc
khe nhất với mục đích nhằm kết thúc vĩnh viễn một đời sống đang sống. Khi
phạm nhân bị xử tử hình thì người đó không còn có cơ hội nào nữa để thay
đổi, phục hồi hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra.
Liệu việc thực hiện án tử
hình đối với một kẻ giết người đã bị tuyên án sẽ khiến nạn nhân sống lại
được không?
Tất nhiên là không. Như
vậy, án tử hình đâu có lợi ích gì.
Đức Phật dạy rằng:
“Với hận
diệt hận thù,
Ðời này
không có được.
Không hận
diệt hận thù,
Là định
luật ngàn thu”.
VIII. Tâm lý học
Theo Đạo Phật, những điều
kiện cho đời sống kế tiếp (tái sanh) phụ thuộc vào những tư tưởng sau cùng,
tức trạng thái tâm thức cuối cùng của con người trước khi chết. Tâm thức
hay tâm lý của tội phạm chắc chắn không thể có được trạng thái an bình.
Buộc người đó nhận lãnh thi hành án tử sẽ càng làm cho trạng thái tâm trí
của người đó thậm chí còn trầm trọng hơn, chứa đầy lòng giận dữ và sợ hãi.
Kết quả là, người đó nếu được tái sinh làm người, họ có thể còn bạo lực
hơn lúc bây giờ. Khi lớn lên, kẻ đó tiếp tục phạm tội có thể còn tồi tệ
hơn những tội ác đã làm ở đời trước.
Trong Tiểu kinh Nghiệp
phân biệt (Kinh Trung Bộ, số 135),
Đức Phật nói điều này:
“Ở đây, này các tỳ kheo, có người đàn bà hay
đàn ông, phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói động đến một chút thời liền bất
bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do
nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng
chung, người ấy được sanh vào cõi dữ... Nếu sanh trở lại làm người thì
phải chịu hình hài xấu xí. Con đường ấy đưa đến xấu sắc, tức là phẫn nộ,
sân hận, bất mãn.
Bởi vậy, chúng ta cần nên
tránh dẫn đến trạng thái tâm lý bất an cho phạm nhân vì người đó sẽ phải
buộc giáp mặt cái chết một cách không sẵn lòng và miễn cưỡng.
IX. Luật Nghiệp Báo
Nghiệp hay hành động là
năng lực được phát sinh bởi tư duy, lời nói và những hành vi của con người.
Nó có thể là thiện, bất thiện hoặc quán tưởng, và có thể có hiệu ứng sâu
đậm lên sự tái sanh của mọi loài hữu tình chúng sanh.
Nghiệp bất thiện dẫn đến
sự tái sinh vào một trong ba ác đạo (là địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh);
nghiệp thiện dẫn đến tái sinh trong loài người, loài thần hoặc chư thiên
cõi dục; còn nghiệp quán tưởng thiền định sẽ tái sinh vào cảnh giới sắc và
vô sắc.
Trong kệ Telakatahagatha
nói rõ: “Ai phá hủy đời sống của bất kỳ chúng sanh nào, trong lần tái sinh
kế tiếp người đó có thể bị đột tử trong lúc đang sung mãn nhất, dù vị đó
đang có cuộc sống tiện nghi, giàu sang và đẹp đẽ, ...”.
Đức Phật đã dạy:
Ở đây, này các tỳ kheo,
có người đàn bà hay đàn ông, sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên
sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp
ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng
chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được
đi đến loài Người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải đoản mạng. Con
đường ấy đưa đến đoản mạng, này các tỳ kheo, tức là sát sanh, tàn nhẫn,
tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các
loài hữu tình.
Nhưng ở đây, này các tỳ
kheo, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ
trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc
tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành
tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện
thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không
sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài Người, chỗ
nào người ấy sanh ra, người ấy được trường thọ. Con đường ấy đưa đến
trường thọ, này các tỳ kheo, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ
trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc
tất cả chúng sanh và loài hữu tình.
Như vậy với lý lẽ đã
trình bày ở đây, rõ ràng là việc giết hại kể cả tội bạo hành sẽ tạo ra ác
nghiệp cho kẻ đó, và giảm bớt khả năng có được một cái chết an bình cho họ.
X. Kinh tạng Phật Giáo
Bác bỏ án tử hình là một
chủ đề thường được nhắc đến trong Đạo Phật mà chúng ta sẽ nhìn thấy các
ngụ ý này ngang qua phạm âm của Đức Phật trình bày trong kinh tạng và luận
tạng của cả hai hệ thống Phật giáo Nguyên thuỷ và Đại thừa (ở đây tôi đề
cập chỉ vài trường hợp tiêu biểu) như sau:
A. Kinh Nguyên thuỷ
1. Pháp cú:
“Mọi người
sợ hình phạt,
Mọi người
sợ tử vong.
Lấy mình
làm ví dụ
Không giết,
không bảo giết.”
“Mọi người
sợ hình phạt,
Mọi người
thích sống còn;
Lấy mình
làm ví dụ,
Không giết,
không bảo giết.”
“Bỏ trượng,
đối chúng sanh,
Yếu kém hay
kiên cường,
Không giết,
không bảo giết,
Ta gọi
Bà-la-môn.”
2. Kinh Bổn sanh:
i. Tiền thân Nai
Banian
Trong Kinh Bổn sanh
có kể rằng vào một tiền kiếp nọ, Đức Phật sinh ra làm Nai chúa tên là
Nyagrodha. Ngài đã sẳn lòng thế mạng của chính mình cho một con nai đang
có thai sắp sinh phải đi nạp mạng cho nhà vua. Lại trong một tiền kiếp
khác, Đức Phật hy sinh mạng sống của mình để làm thức ăn cho một con cọp
đói và hai con của nó đang bị mắc kẹt trong tuyết.
Ngài cho rằng cứu được
mạng sống có ý nghĩa hơn là chỉ bảo hộ cho bản thân cá nhân mình. Thà mất
mạng của chính mình còn tốt hơn là giết hại chúng sanh khác.
Có nhiều câu chuyện kiếp trước của Đức Phật khi
còn làm bồ tát, ngài thực hành hạnh giữ gìn giới không sát sanh,
hy sinh chính
mạng mình để giữ tròn giới thể và tăng trưởng lòng từ bi.
Đức Phật đã nói rằng:
Hơn nữa, Ta quán sát như
vầy: “Từ quá khứ cho đến ngày nay, Ta đã bỏ thân mạng không biết bao nhiêu
lần. Đã có lần Ta sanh ra làm kẻ cướp ác tâm, làm chim muông, hoặc làm súc
vật mà nơi đó Ta đã sống đơn thuần cho mục đích làm giàu hoặc theo đuổi
những lợi ích dục vọng thấp hèn. Nhưng bây giờ Ta đã sắp bỏ mình để giữ
tròn giới thể. Ta không lẫn tiếc thân thể và xả thân mạng của ta để giữ
giới thì sẽ có muôn vạn lần ích lợi hơn việc bảo hộ thân mình mà phải vi
phạm những điều cấm. Trong cách suy nghĩ này, Ta quyết định là Ta cần phải
hy sinh thân thể để bảo vệ vẹn toàn các tịnh giới.
ii. Tiền thân Con trai của người hàng thịt
Câu chuyện này kể rằng: có một lần nọ, một vị
đã chứng quả Dự lưu
sinh vào trong một gia đình hàng thịt. Khi đến tuổi thành niên, mặc dầu
mong muốn theo nghề quản gia, nhưng Ngài không muốn giết hại súc vật. Cha
mẹ của Ngài một hôm đưa cho Ngài một con dao và một con cừu và bảo Ngài
“Nếu con không giết con cừu này, cha mẹ sẽ không cho con thấy mặt trời mặt
trăng và thức ăn nước uống để sinh sống”.
Ngài liền suy nghĩ, “Nếu mình giết con cừu này
thì mình sẽ bị tạo nghiệp ác này đến trọn đời. Làm sao mình có thể phạm
tội ác lớn này đơn giản chỉ vì lợi ích của bản thân?” Rồi ngài liền cầm
dao tự sát. Khi cha mẹ mở cửa nhìn vào thì thấy con cừu vẫn đang đứng một
bên, trong khi người con trai nằm đó đã tắt thở.
Ngay sau khi chết, Ngài được sinh lên cõi trời
do hoan hỷ buông xả, không lẫn tiếc mạng sống chính mình để giữ gìn vẹn
toàn các tịnh giới.
Hạnh phóng sanh là một phương pháp tu tập trong
Phật giáo nhằm cứu thoát các loài vật, chim cá v.v… đã được trù định để
giết thịt hoặc bị giam cầm thường xuyên. Chúng được phóng thích như được
ban cho một đời sống mới. Việc tu tập này minh họa giáo lý căn bản của
Phật giáo về lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh.
iii. Tiền thân Janasandha
Câu chuyện này
do Đức Phật kể cho Vua xứ Kosala. Chuyện nói về hoàng tử Janasandha, con
trai của vua Brahmadatta xứ Ba la nại:
Khi hoàng tử Janasandha
đến tuổi trưởng thành, và sau khi hoàn tất việc rèn luyện tài năng ở
Takkasila trở về, vua đã đại xá cho tất cả các tù nhân, và phong cho hoàng
tử làm phó vương. Về sau khi vua băng hà, hoàng tử lên nối ngôi, liền cho
xây dựng sáu trại chẩn bần... Ở đó, ngày lại ngày, vua thường hay phân
phát sáu trăm đồng tiền và khuyến khích toàn dân thực hành bố thí; cửa nhà
tù mở vĩnh viễn và không còn những nơi hành hình tội nhân...
iv. Tiền thân Muga Pakkha
Chuyện này
do Đức Phật kể cho chúng Tỳ kheo, giải thích rõ rằng việc trừng phạt có
thể tác động đến cả người thừa hành lẫn người trực tiếp bị phạt. Câu
chuyện kể về một hoàng tử duy nhất của vua xứ Kasi tên là Temiya-kumaro (nói
gọn là Temiya).
Khi hoàng tử đầy tháng, ngài được ăn mặc thật
đẹp và bồng vào yết kiến vua. Nhìn đứa con yêu, vua liền ôm vào lòng chơi
đùa với con. Cùng lúc ấy, có bốn tên cướp được đưa đến trước mặt vua; một
trong bốn tên đó bị ngài xử phạt một ngàn roi quấn gai nhọn, một tên khác
phải bị gông cùm xiềng xích, một tên nữa phải bị đâm bằng giáo, và tên
cuối cùng bị đâm cọc xuyên suốt toàn thân. Bồ-tát (hoàng tử đầy tháng)
nghe vua cha nói, kinh hãi nghĩ thầm: “Ôi cha ta vì làm vua mà mang lấy
những ác nghiệp khiến cho người phải đọa địa ngục”.
Nhận thức rõ những hậu
quả của vua cha và sợ hãi điều đó sẽ xảy đến cho Ngài nếu sau khi lên nối
ngôi Ngài cũng làm tương tự như thế, cho nên Temiya quyết tâm giả bộ câm
điếc và què quặt suốt mười sáu năm (vì Ngài không muốn thừa kế ngai vàng).
Cuối cùng, Temiya đã mãn
nguyện khi Ngài trở thành một vị ẩn sĩ khổ hạnh lìa bỏ kinh đô và sau đó
ngài trở về giáo hoá tất cả hoàng tộc và rất nhiều người khác tu tập theo
Ngài.
Câu chuyện này tương tự
câu chuyện đời sống của Đức Phật Thích Ca lớn lên trong hoàng cung, nhưng
rồi từ bỏ thế gian để tìm cầu chân lý.
3. Kinh Trung Bộ
Kinh Angulimala (kinh
Trung bộ, số 152)
là một bản kinh nổi tiếng về năng lực phục thiện.
Có một kẻ cướp, sát nhân
cực ác tên là Angulimala (nghĩa là “Xâu chuổi ngón tay.” Xâu chuổi này làm
bằng ngón tay của những nạn nhân của y). Tất cả dân làng đều rất sợ
Angulimala là điều dễ hiểu. Vào lúc đó, Đức Phật cũng đang ở lại trong
làng này, nhất định đi một mình xuống con đường nơi tên sát nhân
Angulimala nghe nói đang trú ẩn ở đó. Với nhân cách tuyệt vời, Đức Phật đã
khéo léo cảm hoá Angulimala và thu nhận anh ta làm đệ tử.
Lúc đó, do vì dân chúng
thỉnh cầu, Nhà Vua đang chỉ huy binh lính để truy bắt Angulimala. Vua tình
cờ gặp Đức Phật và giải thích sự tình của mình. Liền đó, Đức Phật chỉ cho
nhà Vua thấy Angulimala đã hoàn lương và đang sống đời an lạc của một tăng
sĩ. Vua hoàn toàn sửng sốt bởi chứng kiến điều này. Ngài rất kinh ngạc làm
thế nào mà Đức Phật có thể giáo hoá được Angulimala như thế.
Điều này cho thấy ý niệm
phục thiện của Phật giáo. Dĩ nhiên, phục thiện và án tử hình là hai khái
niệm loại trừ lẫn nhau.
Dù sao, về phương diện
nghiệp báo, Angulimala vẫn còn có nghiệp ác lớn do trước đó đã giết nhiều
người, nên chắc chắn Angulimala cũng phải bị chết một cách đột ngột, đau
đớn bởi ác nghiệp này. Tuy thế, ý nghĩa phục thiện rõ ràng là nội dung
chính của bản kinh này.
Phục thiện có năng lực
giúp cho người tội phạm nhận thức được tội lỗi của mình và cố gắng tránh
tái phạm trong tương lai. Theo Phật giáo, một người tội phạm đã phục thiện,
thậm chí một kẻ sát nhân, sẽ vẫn nhớ được Phật tính của mình. Đối với xã
hội, cải tạo người phạm pháp có nghĩa là thu nhận lại một thành viên hữu
ích mà người này có thể đóng góp bằng cách nào đó cho phúc lợi công cộng.
B. Kinh điển Đại thừa
1. Kinh Hoa Nghiêm
(cũng gọi là Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa nghiêm)
Nghiên cứu về án tử hình trong kinh Hoa nghiêm
có tính chất biểu trưng và triết lý cao hơn.
Kinh kể rằng có một Bồ tát tên là Thiện tài
đồng tử (Sudhana Sresthidaraka) đang đi tầm sư học đạo. Một trong
những Đạo sư của ngài là vua Anala.
Vua Anala sống trong một lâu đài đẹp tuyệt vời
và rất xa. Để giữ cương mực trật tự trong xã hội, vua thường dùng phù phép
hóa hiện những tội nhân bị hành hình đau đớn khốc liệt, để ngăn chặn dân
chúng không phạm tội.
Thật ra, Vua không có làm hại bất cứ ai, bởi vì
những tù nhân cũng như hình phạt đều chỉ là những thần thông biến hoá. Vua
giải thích với Thiện tài đồng tử rằng những ảo thuật này là phương tiện
của tâm từ bi cho dân chúng sợ hãi mà từ bỏ tội lỗi hay không dám phạm.
ii. Kinh Phạm Võng
Trong Kinh Phạm Võng,
Đức Phật nói: “Bất cứ khi nào Bồ tát thấy có người chuẩn bị giết hại sinh
vật, thì vị ấy nên dùng phương tiện thiện xảo để cứu chuộc, giải thoát cho
nó thoát khỏi tình trạng khốn khó và đau khổ...”
Và ngài cũng dạy thêm ở
giới Bồ tát thứ 20 rằng: “Nếu là Phật tử nên vì
tâm từ bi mà làm việc phóng sanh. Hãy quán rằng tất cả người nam là cha ta,
tất cả người nữ là mẹ ta. Từ nhiều đời ta đều thác sanh nơi đó. Vì lẽ ấy
nên chúng sanh trong lục đạo đều là cha mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn thịt
thời chính là giết cha mẹ ta, mà cũng chính là giết những thân cũ của ta.
Tất cả thân tứ đại đều là bổn thân, bổn thể của ta, cho nên thường phải
làm việc phóng sanh và khuyên bảo người khác làm. Nếu thấy người đi sát
sanh nên tìm cách cứu hộ cho chúng được thoát khỏi nạn khổ.
C. Luận Đại thừa
Rajaparikatha - ratnamala:
Ngài Long Thọ (thế kỷ 2
hoặc 3 sau TL),
một triết gia Phật giáo nổi tiếng miền Nam Ấn và cũng là tác giả của bộ
luận Rajaparikatha - ratnamala (Những lời khuyên quý giá dành cho Vua).
Nội dung luận phẩm này trình bày về nghệ thuật lãnh đạo theo tinh thần
Phật giáo. Ngài Long Thọ khuyên nhủ Vua Udayi (Triều đại Satavahana) về
rất nhiều vấn đề.
Trong đó, Ngài Long Thọ có đề cập về án tử hình như sau:
“Này Đại
vương, vì lòng từ bi Ngài cần nên luôn luôn
Phát khởi
thiện tâm cứu giúp tất cả chúng sanh,
Ngay cả
những ai đã phạm tội trọng.
Lại cần
quan tâm thật nhiều,
Đối với
những kẻ giết người, tạo tội ác lớn;
Quên mất bản tâm là nơi chứa đựng lòng từ bi vô
lượng
Sau khi
thẩm sát sự hung tàn của kẻ sát nhân và thấy rõ căn nguyên,
Chỉ nên đày
ải, chớ giết hoặc dùng đại hình”.
XI. Những vị vua Phật tử Ấn Độ.
i. Vua Phật tử (Bắc Ấn)
a) Vua A Dục,
một trong những nhà cai trị đầu tiên của Ấn Độ cổ đại, từ chối dùng quân
lực thay vì vậy là truyền bá triết lý bất bạo động và lòng tôn trọng đối
với mọi người.
Những sắc lệnh của Vua A Dục được khắc trên các trụ
đá, cho thấy Ngài là một vị vua có tư tưởng khác thường đi trước thời đại.
Dưới đây sẽ tóm tắt một số những sắc lệnh của Vua A
Dục như sau:
Những điều răn cấm:
- Không được dùng súc vật để tế lễ tôn giáo.
- Ngăn cấm mọi việc giết mổ súc vật và cầm thú.
- Vua sẽ không còn tổ chức các cuộc săn bắn nữa.
- Vua từ bỏ vinh quang các cuộc chiến xâm lược.
- Chiến thắng thiện pháp là chiến công oanh liệt nhất.
Những công trình công cộng:
- Xây dựng bệnh viện cho người và thú vật.
- Thành lập nhiều vườn tược dược thảo.
- Đào giếng, trồng cây xanh, và cất nhà nghỉ dọc theo
những đường lộ để tạo tiện nghi cho khách hành hương và thú vật.
Mối Quan hệ giữa Con người:
- Dân chúng cần phải vâng lời cha mẹ và các bậc sư
trưởng, thầy tổ tinh thần của họ.
- Người chủ không được ngược đãi những người hầu và
tôi tớ của họ
- Mọi người phải nên rộng lượng với các bậc xuất gia,
họ hàng, và bè bạn.
Tôn giáo:
- Các giáo phái tôn giáo “có thể trú ngụ khắp nơi”.
- Những người khác tín ngưỡng không được công kích
lẫn nhau khi “tìm hiểu các tôn giáo bạn”.
Phúc lợi cho người dân:
- Các quan chức triều đình phải quan tâm tới lợi ích
của người già, người nghèo, và các tù nhân.
- Các quan chức báo cáo công tác công cộng có thể
yết kiến trực tiếp với nhà vua mọi lúc, mọi nơi.
- Các quan chức phải đảm bảo việc điều hành quản lý
mang hữu hiệu lợi ích và hạnh phúc cho người dân.
Công lý:
- Các phán quan phải độc lập và hành xử nhất quán
trong thủ tục và xử phạt.
- Phạm nhân nên được khoan hồng càng nhiều càng tốt.
- Bản án tử hình nên được hạn chế áp dụng và việc kết
tội cần phải có ba ngày để tuyên án.
- “không sát sanh là thiện nghiệp”
Trong sắc lệnh cuối cùng, có lẽ được viết khắc vào
năm 242 trước Tây lịch, Vua A Dục đã viết: “Trong thế gian, có hai phương
cách đạt được thiện pháp là pháp luật và đức tin.
Nhưng trong hai điều này, hình như pháp luật tỏ ra ít
có hiệu quả hơn đức tin. “Những quan chức được huấn luyện đặc biệt, gọi là
dhamma-mahamattas (Đại quan chuyên trách truyền giáo) thường đi kinh lý để
tìm hiểu quan điểm của dân chúng và hướng dẫn họ về thiện pháp.
Điều này dễ dàng cho chúng ta nhận ra rằng Vua A Dục
ủng hộ tinh thần bất hại (ahimsa) và không thích áp dụng án tử
hình.
Ngài là một Phật tử thuần thành siêng tu thiện pháp
và vì thế Ngài không thể cho phép việc hành hình này xảy ra.
b) Vào thế kỷ thứ sáu, có hai nhà sư chiêm bái người
Trung hoa là Sung Yun và Hui Sheng đã hành hương đến đất Ấn và viết như
sau:
Chúng tôi vào nước
Ouchang (Oudyana). Phía bắc của nước này tiếp giáp núi Thông Lĩnh; phía
nam tiếp giáp với Ấn độ… Vua nước này rất sùng đạo và thực hành hạnh ăn
chay … Sau bữa trưa vua đích thân thân chăm lo công việc triều chính.
Giả sử có người phạm tội
sát nhân, người này không bị xử tử mà chỉ bị đày tới những hoang đảo, được
chu cấp thức ăn đủ để duy trì mạng sống. Sau thẩm định, hình phạt được
điều chỉnh tuỳ theo tính chất nặng nhẹ từng hoàn cảnh.
ii. Vua Phật tử (vùng Trung Ấn)
Pháp Hiền (337-422), một nhà sư chiêm bái người Trung
hoa tới Ấn rất sớm, có nhắc đến vị vua Phật giáo vùng Trung Ấn như sau:
Vua của vùng Trung Ấn cầm
quyền mà không có hành phạt chém đầu (tức án tử hình nói chung) hoặc
những hình phạt hành hình thân thể. Những tội phạm đơn giản chỉ bị phạt
tiền, nhẹ hoặc nặng tùy theo hoàn cảnh của mỗi trường hợp. Thậm chí trong
những trường hợp bạo loạn ngoan cố, họ chỉ bị chặt bàn tay phải mà thôi.
Khắp cả nước những người không sát sanh, không uống rượu say, cũng giữ cả
giới không ăn các loại hành tỏi nồng cay.
iii. Vua Phật giáo (vùng Trung tâm Ấn)
Vào thế kỷ thứ tám, có sư Hye Ch'o người Triều-tiên
đến chiêm bái Ấn Độ tương tự như sư Pháp Hiền, nhưng cách khoảng ba thế kỷ
về sau.
Sư cũng có mô tả những vị
vua Phật giáo vùng Trung tâm Ấn cai trị không có sử dụng tới án tử hình:
“Pháp luật quốc gia trong năm vùng của Ấn quy định không có gông cùm, đánh
đập hoặc nhốt tù tuỳ theo mức độ tội phạm. Không có bản án tử hình”.
iv. Vua Phật giáo (vùng Tây Ấn)
Sư Hye Ch'o nhận thấy một tình trạng gần như đồng
nhất trong vùng Tây Ấn: “Ở đây không có gông cùm, đánh đập, bỏ tù, tử hình,
hay những hình phạt tương tự”.
Vua của Nhật bản
Năm 724 sau Tây lịch, Nhật Hoàng Shomu (724-749), một
Phật tử thuần thành theo tông Kegon, xây dựng chùa Todai-ji rất nổi tiếng
đến nay vẫn còn ở thành phố Nara, đã cấm áp dụng án tử hình. Điều này diễn
ra vào cuối thời kỳ Nara (715-794). Tương tự, suốt thời kỳ Heian
(794-1185) rất ít thi hành án tử hình.
Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
XIII của Tây Tạng là Ngài Thubten Gyatso (1876-1933), tiền thân của Đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV hiện thời là Ngài Tenzin Gyatso (sinh năm 1935).
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba tranh đấu để hiện đại hóa Tây Tạng và duy
trì chủ quyền quốc gia chống lại Anh quốc và sau đó là Trung quốc. Ngài
cũng cải cách hệ thống pháp luật phong kiến của Tây Tạng. Một trong những
sự thay đổi đó là sự huỷ bỏ án tử hình vào khoảng năm 1920. Trước thời
điểm ấy, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường tránh can thiệp trực tiếp trong các
trường hợp kết án tử hình bởi vì vai trò tôn giáo của Ngài.
XII. Ứng dụng Thực tế
Một điều hiển nhiên rằng
con người ai cũng có một khả năng tiềm tàng nào đó, cho nên vấn đề huấn
luyện để khơi dậy tiềm năng ấy. Chúng ta không nên là nạn nhân của những
xúc cảm bất thiện hoặc bạo lực. Những giải pháp nhằm chuyển hoá tư duy của
người dường như thiết thực hơn là việc tạo ra đối đầu và va chạm.
Án tử hình không phải là
giải pháp tốt nhất để ngăn chặn những người làm điều ác. Nó chỉ là một
giải pháp có tính tạm thời để răn đe tội ác.
Tuy nhiên, nếu chúng ta
sử dụng giải pháp tử hình khắc nghiệt này để thực thi, thì đây chưa phải
là một hành động có ý nghĩa và thích hợp.
Việc này làm mất hết ý
nghĩa của tâm từ bi và lòng nhân ái trong chúng ta.
Hành động đầy ý nghĩa và
thích hợp phải nên làm là: khi một người phạm tội, hoặc bị bỏ tù hoặc bị
quản thúc tại gia, và đặt ra một thời hạn nào đó để cho đương sự sửa sai.
Người đó có khả năng nhận ra hành động sai trái đã làm và từ đó sanh tâm
ăn năn hối cải. Vì con người là sinh vật có ý thức, cho nên người ác cũng
biết xấu hổ về hành động sai trái của mình. Muốn kẻ đó cải thiện hành vi
sai trái, chúng ta phải đặt nặng vào việc giáo dục, phát huy các giá trị
con người xuyên qua đạo đức tôn giáo hoặc những chương trình xã hội lành
mạnh để trợ giúp người đó. Chúng ta cần phải hỗ trợ nhiều hơn nữa cho giáo
dục và động viên ý thức trách nhiệm chung của mọi người. Chúng ta cũng cần
giải thích tầm quan trọng của việc thực hành tâm từ bi, lòng nhân ái vì
lợi ích của chính mình và cố gắng giảm thiểu tối đa những yếu tố nuôi
dưỡng mầm móng giết chóc, chẳng hạn như sự tăng cường chế tạo vũ khí trong
những xã hội chúng ta… Để trợ duyên cho người đó thực tập, chúng ta nên đề
nghị vài phương pháp cụ thể như dưới đây:
1/ Đương sự cần phải sống
riêng một mình trong thời gian khoảng một hoặc hai tháng, một hoặc hai năm
để nhận thức và hối hận về hành động sai trái của mình.
2/ Khuyến khích đương sự
cần phải làm một việc tốt giúp đỡ người khác.
3/ Đương sự cần phải thực
tập thiền quán hàng ngày để thay đổi hành vi bất thiện trở thành thiện.
4/ Đương sự phải tự xem
xét hành vi sai trái của mình bắt nguồn từ đâu.
5/ Hành vi sai trái có
thể bắt nguồn từ việc giết người, cướp của, tà dâm, dối gạt, sử dụng rượu,
ma tuý …
6/ Phương pháp để xử lý
những hành động sai trái là thực hành tám con đường chân chánh: chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm và chánh định.
7/ Đương sự sẽ có thể trở
thành là một người tốt như trước đây.
Đạo Phật là con đường
chuyển hoá khổ đau. Tất cả chúng ta có thể bị chi phối bởi các cảm xúc
tiêu cực và những tâm bất thiện quấy nhiễu hoặc không bị chi phối, có tội
hoặc không tội, nhưng nếu biết ứng dụng những phương pháp giáo dục nói
trên vào đời sống hàng ngày, chúng ta có thể thu hoạch được hoa quả của an
lạc và hạnh phúc ở ngay đây và bây giờ trong cuộc sống hiện tại. Giải pháp
tốt nhất vẫn là ngăn ngừa hơn là can thiệp. Và việc giáo dục cần nên thực
hiện trước khi đã bị trừng phạt. Bởi lẽ một nguyên nhân tốt thường sẽ tạo
ra một quả trái lành.
Đó là một sự thật xuyên
suốt khắp trong kinh điển Phật giáo. Đạo Phật có lập trường mạnh mẽ chống
lại việc giết hại nói chung, và trong vài trường hợp chống lại án tử hình.
Như vậy, Đức Phật hoàn
toàn không chấp nhận hành án tử hình. Không có người Phật tử thuần thành
nào ủng hộ án tử hình cả. Nhưng chúng ta nên hiểu rằng những lời dạy trong
Phật giáo không phải là giáo điều, mà chính là hoa quả của trí tuệ. Đơn
giản đó là những lời khuyên bảo từ Đức Phật với những giải thích rõ ràng
tại sao chúng ta không nên sát sanh …, phần lớn đặt trên nền tảng đạo đức
và liên quan đến luật nghiệp báo.
Lập trường Phật giáo
chống lại án tử hình dựa vào nền tảng triết lý Phật giáo và đồng thời
tương ứng với thực tế của xã hội.
Trước hết, có khả năng
rằng án tử hình trong hệ thống luật pháp các quốc gia ban hành có thể dẫn
đến sự thực hiện oan đối với người vô tội, và điều này hay xảy ra ở nhiều
nước tiên tiến, chẳng hạn như Hoa kỳ… Án tử hình, một khi đã thi hành rồi
thì không thể đảo ngược và cũng không thể sửa chữa được nếu bị cáo về sau
được chứng minh là vô tội.
Thứ hai, Đạo Phật cảm
nhận rằng tất cả mọi người về căn bản là chân thiện, và mục đích chính của
Phật giáo là giáo dục, chuyển hoá và cải cách chứ không hủy diệt. Nếu có
người bệnh, Đạo Phật cố gắng cứu chữa người đó khỏi căn bệnh hơn là tiêu
diệt người mang bệnh. Đạo Phật xem những tội phạm là những người đang có
vấn đề tâm thần kết hợp với sự không hiểu biết (vô minh).
Như thế, mục đích chính
của Đạo Phật là tận trừ gốc rễ sự không hiểu biết hơn là tiêu diệt người
ngu dốt. Điều này có thể được thực hiện thông qua hệ thống giáo dục,
chuyển hoá, cải cách đương sự, nói cách khác, giúp đỡ đương sự thấy đúng
như thật sự việc đang là.
Trong Đạo Phật, có một
câu nói: “Dẫu xây chín bậc phù đồ, chẳng bằng làm phước cứu cho một người”.
Tóm lại, dựa vào những
lời dạy cơ bản của Đức Phật từ kinh điển Phật giáo và tâm tư bao dung sáng
suốt của những vị vua Phật giáo trong lịch sử Châu á cổ đại như được đề
cập ở trên, chúng ta hoàn toàn đồng tâm ủng hộ lời kêu gọi tới những nhà
lãnh đạo các nước trên thế giới đang áp dụng án tử hình hãy bãi bỏ hình
phạt này trong tinh thần từ bi vô lượng vô biên của Đạo Phật.
Chùa Phước
Hậu, ngày 28 tháng 10, năm 2006
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/hinhphat_tuhinh.htm