Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
Học Đạo Và Hành Đạo

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật hiện đại đã nâng trình độ con người lên một tầm nhận nhức cao hơn. Trong đó, Phật giáo nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung cũng từng bước hoàn thiện về chất lẫn về lượng, nhằm thích ứng với sự phát triển của xã hội loài người. Đặc biệt ở Việt Nam, Phật giáo ngày càng hưng thịnh và phát triển bởi sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố văn hoá truyền thống và tâm linh Phật giáo. .

Bên cạnh sự phát triển là những vấn đề tồn tại, tuy không nói là biến tướng nhưng cũng có thể cho thấy sự lệch hướng về mặt tư duy, dù hình thức là sự phát triển. Ở đây có 2 mặt của một vấn đề cần phải được làm rõ, đó là giáo pháp và giáo đoàn. Nếu thiên về giáo pháp thì giáo lý của Phật sẽ được khai thác rốt ráo; còn ngược lại nếu thiên về giáo đoàn, thì sẽ phát triển về mặt giáo hội; hình thức tốt nhất là vừa phát triễn giáo lý và vừa phát triển giáo hội, nhưng điều này khó có thể thực hiện được vì đòi hỏi điều kiện ràng buộc khách quan của xã hội.

Ở việt nam, việc xiển dương chánh pháp thông qua đào tạo tăng tài đã được trú trọng từ việc nâng cao trình độ hệ thống tăng lữ đến việc phát huy các trụ sở Phật giáo. Chính nó đã làm cho trình độ lý luận về triết lý Phật giáo ngày càng trở nên sâu sắc và đa dạng bởi tính dung thông của giáo pháp nhà Phật.

Mặt phát triển nhất chính là ngôn ngữ trong Phật giáo. Ngôn ngữ vốn dĩ đa dạng và phong phú. Mỗi từ, ngữ của ngôn ngữ nhằm biểu thị một khái niệm của sự vật hiện tượng thông qua trực giác hay tưởng tượng của con người. Vì thế, ngôn ngữ đóng vai trò chính trong quan hệ xã hội và trở thành một phương tiện giao tiếp của con người. Và tất nhiên con người ngày càng phát triển thì ngôn ngữ cũng ngày càng hoàn chỉnh và thích nghi một cách tương xứng.

Tuy nhiên, đối với Phật giáo, ngôn ngữ có thể có hoặc không cần thiết tuỳ vào phương tiện giáo hoá của người truyền giáo. Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông không chủ trương thiết lập văn tự, vì chính bản thân văn tự lại không lột tả hết được bản chất của sự vật hiện tượng mà nó đang khái niệm, bởi sự hình thành của nó chủ yếu dựa vào sự đối lập của các sự vật hiện tượng. Vì vậy, một trạng thái (Chơn Như) không đứng trên quan hệ đối lập về mặt ngữ nghĩa thì không thể dùng ngôn ngữ để diện đạt được, mà phải nhờ vào sự quán chiếu của người hành đạo để triện ngộ về nó.

Ngược lại, ta thấy văn tự Phật giáo ngày càng trở nên sâu sắc và hoàn chỉnh bởi những lý luận dựa trên sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ của triết học, khoa học và Phật giáo. Điều này cũng nói lên được bản chất của " thế gian pháp là Phật pháp"

Hiện nay, các tăng ni thường vào các trường đại học trong và ngoài nước để theo học các ngành về triết học, xã hội học, văn hoá học, tâm lý học,...chính điều này đã tạo ra mặt bằng chung cho lý luận về triết lý của Phật Giáo ngày càng nâng cao. Cái hay nhất mà Phật Giáo làm được là hoá giải được sự bác bỏ của triết học duy vật đối với tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, đến lượt nó đã trở lại giải thích và làm sáng tỏ chân lý đạo Phật.

Mặt khác, cái đặc sắc của đạo Phật là ở chỗ đột phá của tư duy vào tâm thức bằng sự quán chiếu nội tâm và tỏ ngộ, chứ không phải bằng sự lập luận chặt chẽ để tồn tại trước sự đã kích của các hệ phái khác. Cho nên, dù là lý luận có sâu sắc đến đâu thì cũng chỉ là hình thức thể hiện chứ không nói lên được bản chất của Phật giáo. Cái thiết yếu nhất là đừng lầm phương tiện với mục đích. Mục đích tu hành của chúng ta là thâm nhập tri kiến và giải thoát tri kiến, chứ không tạo lập một tri kiến. Lý luận chỉ là phương tiện, giải thoát tri kiến mới là mục đích. Nếu xem lý luận là mục đích phát triển của Phật Giáo thì lúc này Phật Giáo sẽ trở thành xiển giáo, sẽ trở thành lý luận hình thức để chứng tỏ đạo Phật là chân lý, là rốt ráo so với các tôn giáo khác, và như vậy Phật Giáo sẽ phát triển ở mặt lượng mà tàn lụi ở mặt chất.

Không ít thấy những trường hợp ở một số nơi đã hiểu theo cách này, thường dùng những lý luận của triết học, hay khoa học về tâm lý để giảng giải cho những nhu cầu vốn phức tạp trong cuộc sống của con người. Vì thế, có thể làm cho Phật Giáo lệch đi theo một hướng khác, một hướng phù hợp với thị hiếu con người mà không nhằm đưa con người vào chân lý tối thượng của nhà Phật. Chẳng hạn như các hình thức xem bói, xem tướng, xem phong thuỷ, hoặc đốt giấy tiền vàng bạc cho người chết,... là những hình thức không có trong kinh điển nhà Phật. Phải chăng sự phát sinh này là từ tinh thần nhập thế của đạo Phật hay từ những xuất phát trần tục của con người. Nếu nói từ kinh điển Phật Giáo, thì Phật Giáo đâu khác các hệ phái của các anh đồng, chị bống; còn nếu xuất phát từ tâm hồn trần tục của còn người, hay từ những nhu cầu của cuộc sống mà làm theo họ thì Phật Giáo chẳng khác nào một nhà kinh doanh chuyên thoả mãn thị hiếu người tiêu dùng, thông qua đó đạt được lợi nhuận, trong trường hợp này có cần thiết để theo Phật giáo hay không.

Người xưa thường nói “học đi đôi với hành”, hay trong triết học duy vật cũng đề cập đến lý luận và thực tiễn: "có lý luận mà không có thực tiễn kiểm chứng là lý luận suông, ngược lại thực tiễn mà không có lý luận là thực tiễn mù quán".

Vì vậy, dù là sự đời hay đạo đức thì sự "hành" cũng có tầm quan trọng đối với bản thân của mỗi con người. Cho nên, tuy học rộng hiểu nhiều mà không có sự hành thì cũng rỗng tếch, nhưng hành mà không nắm nguyên lý căn bán thì sự hành sẽ bị sai lạc.

Ngày nay, trình độ tri thức của các tăng, ni, Phật tử tương đối cao, đây là điều đáng mừng đối với sự duy trì chánh pháp. Nhiều chùa thường cho các tăng sinh trẻ tuổi đến học đời ở các trường đại học, bên cạnh là việc học chánh pháp ở các trụ sở Phật giáo. Việc đào tạo tăng tài là tất yếu khách quan trong sự phát triển giáo lý và duy trì chánh pháp. Nhưng vấn đề đặt ra là đào tạo như thế nào? Đào tạo theo kiểu liên thông giữa đời và đạo hay chỉ đơn thuần về mặt kiến thức phổ thông. Nếu không khéo kiểm soát sẽ làm cho việc đào tạo trở nên chệch hướng, tất yếu dẫn đến tình trạng tăng sinh có trình độ nhưng lại thiếu về mặt hạnh đức, mà một khi thiếu hạnh đức thì chẳng khác với người phàm phu. Người đời đôi lúc còn am hiểu về đạo Phật, sống đúng theo giới luật của Phật, ngược lại khi nhìn thấy hình ảnh của các vị tăng sinh trẻ tuổi buông lung trong giới hạnh, như nói cười, đùa giỡn, chát với bạn bè trên internet, sử dụng di động và xe gắn máy sành điệu,... thì người đời có kính trọng và xem mình là thầy về tinh thần nữa không, hay chỉ xem mình như một người bình thường mang lốt áo nhà Phật. Không nói cũng biết ảnh hưởng thế nào đến hình ảnh đạo Phật trong lòng mọi người, nhất là người ngoại đạo. Nếu nói những hoạt động trên chỉ là phương tiện thì đâu là oai nghi của Phật giáo; nếu nói là phá chấp để sống hoà nhập với mọi người thì cũng phải rõ đâu là hạnh đức cần giữ để tạo sức ảnh hưởng đến tâm linh mọi người.

Mặc khác, người xuất gia theo học chuyện đời là bình thường, nhưng người đời dạy đạo không biết có thường không. Ngày xưa, các bực vương tôn, chí sĩ hay đến Thiền lâm, tự viện để tham bái các vị cao tăng đại đức nhằm hành xử trong sinh hoạt thường ngày. Ngày nay thì ngược lại, các giáo sư ở các trường đại học đến các trụ sở Phật giáo để dạy đạo cho tăng, ni. Nếu xét ở giác độ chơn đế mà nói thì dù tăng hay tục nếu đại triệt đại ngộ thì vẫn có đủ tư cách trùng tuyên kim ngôn chỉ huấn của Phật. Chúng ta cũng từng biết thị giả A-Nan là bậc đa văn, có trí nhớ siêu việt. Nhưng ở đại hội kết tập kinh điển lần nhất ông không được vào động Thất Diệp, bởi vì đại hội chỉ chọn những bậc A-La-Hán vào động để trùng tuyên kinh điển. Vì chỉ có bậc A-La-Hán vô ngã, vô lậu, không còn chấp trước điều gì mới có đủ quyền năng tuyên dương chánh pháp của Phật. Đại hội đã gặp rất nhiều khó khăn vì không ai có thể nhớ hết lời Phật như Ngài A-Nan. A-Nan đã phải trải qua 7 ngày đêm mất ăn mất ngũ mới hiểu rõ ý chỉ tâm truyền của Ma-Ha-Ca-Diếp, cuối cùng Ngài cũng tỏ ngộ và đắt A-La-Hán để cùng với các chư vị kết tập kinh điển.

Qua điển tích này càng nói lên chánh pháp của Phật quan trọng như thế nào, dù A-Nan là em của Phật, là bậc đa văn nhưng chưa tỏ ngộ cũng không dám giảng giải kinh điển của Phật, chứ không phải ai nắm hết, thuộc hết kinh điển, hoặc là giáo sư thì có thể tuỳ tiện giảng nói kinh Phật được. Nếu hiểu biết kinh Phật mà không tỏ ngộ tự tánh thì mới chỉ là học giả nghiên cứu Phật học mà thôi. Khi nào vừa nắm giáo lý vừa hành đạo và liễu ngộ chơn tánh thì mới gọi là hành giả, và chỉ có hành giả mới giảng giải kinh điển đúng nghĩa được.

Người học giả giống như bệnh nhân chỉ biết đọc toa thuốc của bác sĩ một cách mạch lạc nhưng bản thân vẫn chưa hết bệnh, ngược lại người hành giả là người vừa nghe toa thuốc vừa uống thuốc, làm theo, uống theo và sẽ hết bệnh.

Cho nên, trong thực tế rất dễ thấy ai là hành giả, ai là học giả. Ngày nay học giả thì nhiều, hành giả thì rất ít. Mà đã là hành giả thì họ cũng ít chịu lý luận và cũng ít xuất hiện để thiên hạ biết. Những bậc này có lẽ đang ẩn nơi Thiền lâm, tự viện, quét dọn sân chùa, muốn tìm để học đạo âu cũng khó. Còn sách vỡ lý luận thì ở hiệu sách không thấy thiếu, chỉ sợ không đủ chi phí và thời gian cho việc tham khảo.

Tóm lại, Phật Giáo ngày nay tuy phát triển về mặt ngôn ngữ, về số lượng và hình thức nhằm phù hợp với những đòi hỏi của yêu cầu cuộc sống nhưng vấn đề về chất, về hành đạo, về hạnh nguyện thì chưa thấy có sự thống nhất giữa các quan điểm trong sự nghiệp chấn hưng Phật giáo. Suy cho cùng nếu không hành đạo thì không đạt được mục đích cứu cánh. Vì vậy, đã trú trọng nâng cao trình độ tri thức thì cũng phải phát huy năng lực hành đạo mới có thể duy trì chánh pháp của Phật phát triển ổn định và bền vững.

"Bởi chử tu liền với chữ hành

Hành bất chánh người đời mới nói"

http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/hoc&hanh.htm

 


Vào mạng: 1-11-2004

Trở về mục "Diễn đàn"

Đầu trang