Trong bài tham
luận ngắn này, người viết giới thiệu khái quát về truyền thống khất thực
như một pháp tu trong Phật giáo, thông qua đó phân tích hiện tượng khất
thực phi pháp của những kẻ ăn xin giả dạng người tu, làm hoen ố truyền
thống tâm linh của Phật giáo. Bên cạnh đó, người viết xin đề xuất phương
án ngăn chận tệ nạn này. Đồng thời, đề nghị giải pháp ngăn chận tình trạng
“khách không mời mà đến” làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng của các ngày kỷ
niệm tổ sư khai sáng các chùa và các lễ cúng dường trai tăng nói chung.
1. Khất thực: Bản
chất và tình huống
Trước nhất cần
phân biệt sự khác nhau giữa “ăn xin” và “khất thực.” Đối với những người
vô gia cư và không có phương tiện sinh sống tự nuôi thân, ăn xin là sự
mong cầu vật thực theo kiểu chén cơm túi áo. Ăn xin là ngửa tay xin tình
thương của người khác để nuôi thân qua ngày. Đây là sự lựa chọn bất đắc dĩ
khi hoàn cảnh éo le không làm cho người bất hạnh có sự chọn lựa khác tích
cực hơn. Cảnh đời bất hạnh đã làm cho nhiều người trở thành vô gia cư,
sống vất vưỡng nương vào lòng thương tưởng của người khác.
Cũng phát xuất từ
động tác tiếp nhận vật thực,
thuật ngữ “khất thực” trong Phật giáo không được hiểu là hành vi ăn xin,
mà là một hành động tiếp nhận phẩm vật cúng dường với lòng thành kính của
người gieo duyên với Tam Bảo.
Ăn xin và khất
thực khác nhau ở chỗ, một bên “nài nỉ” và thậm chí “van xin” người khác
“bố thí” cho chén cơm manh áo, và một bên thì lẳng lặng tiếp nhận “sự cúng
dường” như một động tác gieo trồng hạt phước cho đời,
với thái độ thong dong và vô
cầu.
Ngay trong ngày
đầu tiên trở về thăm và thuyết pháp cho vua cha, đức Phật đã không ăn cơm
tại cung điện. Ngài đã dẫn tăng đoàn 1250 vị đi từng bước chân thảnh thơi
khắp các nẻo đường của Ca-tỳ-la-vệ. Sự kiện này đã làm cho vua Tịnh-phạn
và các hoàng thân quốc thích bất bình, vì ngộ nhận rằng Phật đã mất thể
diện quốc vương và truyền thống Sát-đế-lợi của dòng họ Gotama. Đức Phật đã
giải thích rằng khất thực không phải là xin ăn, mà là phương pháp giáo hoá
tha nhân rất hiệu quả. Đây là sự hành trì truyền thống của chư Phật, nhằm
thiết lập cơ hội giáo hoá trong lòng cuộc đời, thông qua những bước chân
thảnh thơi và tâm an lạc của những vị tỳ-kheo thanh cao thoát tục.
Khất thực được
xem là pháp hành trì quan trọng, có truyền thống từ chư Phật quá khứ, đang
được tiếp nối ở hiện tại và sẽ được truyền thừa ở tương lai.
Bản thân đức Phật kể từ ngày giáo hoá đầu tiên đã hành trì pháp khất thực
cho đến ngày cuối cùng trước khi vô dư niết-bàn.
Một trong những
định nghĩa quan trọng của “khất thực” được sử dụng trong truyền thống Đại
thừa là “thượng khất chư Phật chi pháp, hạ khất chúng sinh chi thực” –
trên là xin và tiếp nhận chánh pháp của chư Phật, dưới là tiếp nhận sự
cúng dường của người phát tâm.” Theo định nghĩa này, khất thực không có
nghĩa đơn thuần là tiếp nhận phẩm vật thuộc về vật chất, mà quan trọng hơn
là tiếp nhận sự truyền trao chánh pháp và tâm tông giác ngộ. Nói cách khác,
nếu trong hành động khất thực, người tu sĩ chỉ tiếp nhận phẩm vật gieo
duyên cúng dường thì việc hành khất đó có thể trở nên phiến diện và chưa
đủ nghĩa. Ý nghĩa biểu tượng của vế đầu của hai câu kệ ám chỉ rằng tất cả
tu sĩ Phật giáo vận dụng truyền thống khất thực để tu tập và chuyển hoá
thân tâm trong từng bước chân hoằng hoá và gieo duyên với cuộc đời.
Ngoài một số tình
huống ngoại lệ, tất cả những người xuất gia cần phải thực hành hạnh khất
thực như một pháp tu hiệu quả. Các trường hợp ngoại lệ không nên khất thực
bao gồm: a) suốt ba tháng an cư, b) Trong phạm vi các khu vực nguy hiểm
đến tính mạng như nơi có chiến tranh, thú dữ và giặc cướp. Việc hành khất
trong thời gian này không thuận lợi do vì sự trở ngại của mùa mưa. Quan
trọng hơn, suốt thời gian ba tháng an cư, tất cả các hành giả cần hội họp
một trú xứ để thăng tiến tâm linh sau chín tháng làm Phật sự và dấn thân.
Đối với khu vực nguy hiểm, việc hành khất trở nên vô nghĩa vì đối tượng
hoá độ ở đây không có.
Nói cách khác,
khất thực là để có cơ hội tiếp xúc và hoá duyên quần chúng. Đạo Phật thời
Phật và đạo Phật nguyên thuỷ phát triển mạnh là nhờ vào truyền thống khất
thực này. Hình ảnh các nhà sư với ba y và một bình bát thanh cao thoát tục
đã làm cho quần chúng biết đến sức sống tâm linh của người tu. Hoá độ
trong trường hợp này còn được gọi là thân giáo.
2. Khất thực là
một pháp tu
Bên cạnh việc
tăng cường thể lực và sức khoẻ cho tu tập,
khất thực trong Phật giáo còn được xem là một trong những phương tiện để
thực hiện hạnh “hiện pháp lạc trú” nhằm trải nghiệm sự an lạc hạnh phúc
trong qua việc thiết lập chánh niệm trên từng bước chân hành khất. Nhờ
phương pháp khất thực xa lìa sự xa hoa, người xuất gia có cơ hội thoát
khỏi đời sống hưởng thụ các dục.
Một vị tỳ-kheo trẻ thời Phật khi được một thiên nhân dụ dỗ từ bỏ đời sống
khất thực, để hưởng thụ các khoái lạc giác quan, đã trả lời rằng: “Không
hưởng thụ, ta sống khất thực/ Hành khất thực không uổng phí thời gian.”
Thiết lập chánh niệm trong khất thực là cách loại bỏ nỗi khổ niềm đau.
Việc làm như vậy chẳng những không uổng ích thời gian, mà còn làm cho thời
gian tu tập trở nên có ý nghĩa hơn nhiều.
Ngài Ca-diếp, người anh cả của giáo đoàn thời
Phật, nổi tiếng là nhà khổ hạnh, khi được hỏi về giá trị của khất thực đã
xác quyết rằng sống hạnh khất thực sẽ giúp hành giả chuyển hoá lòng tham
đắm, thấy sự nguy hại trong các dục và không rơi vào tình huống phạm tội,
nhờ đó, hướng đến đời sống trí tuệ. Nhờ hành khất thực, người xuất gia
sống trong hạnh phúc của viễn ly.
Ngài đã cảm tác bài thơ nói về bản chất của khất thực như sau:
Mỗi buổi sáng ôm bình đi khất thực.
Ðộ tín thí không phân chia sang cực.
Ðược vật ngon hay được vật thô sơ.
Ăn để sống tu cuộc đời trong sạch!
Của bá tánh không nhận nhiều giữ cất,
Qua ngày mai hay lưu lại về sau.
Từng miếng cơm nhai tâm tịnh nguyện cầu,
Cho nhân loại trầm luân mau thoát khổ!
Mục đích của khất
thực là nhằm thực hiện lối sống xa lánh hai cực đoan: hưởng thụ thái quá
và khổ hạnh ép xác. Theo Kinh An Lạc, thực hành khất thực mang lại
nhiều lợi ích sau đây: a) Chuyển hoá lòng kiêu mạn, b) Nuôi lớn tâm tuỳ hỷ
và hành xả, c) trừ diệt lòng tham đắm, d) gieo phước cho chúng sinh.
Trong bài kinh
Khất Thực Thanh Tịnh
đức Phật đã dạy về phương pháp khất thực thanh tịnh, theo truyền thống của
chư Phật. Khất thực thanh tịnh là cách thức thiết lập sự an trú vào “không
tánh” trong từng bước chân trên cuộc đời và đặc biệt là trong lúc tiếp
nhận phẩm vật hiến tặng của tha nhân. Trên đường khất thực, vị xuất gia
phải xây dựng chánh niệm khi các giác quan tiếp xúc với các đối tượng của
chúng, không để cho thái độ tham đắm, sân hận và si mê khởi lên trong tâm.
Vị hành giả khất thực phải tận dụng cơ hội để làm phát sanh tâm hoan hỷ
với đời sống giản đơn nhưng thanh cao, ngày đêm tu học các pháp thánh, từ
bỏ một cách vĩnh viễn năm dục lạc có khả năng làm cho hành giả đắm chìm
trong khoái lạc giác quan. Với những bước chân thảnh thơi trên những nơi
thành thị, làng xã, tụ lạc, hay những cánh đồng, vị tỳ-kheo khất thực tháo
gỡ được năm trói buộc tâm, thấu rõ được bản chất chấp thủ năm nhóm nhân
thể (năm thủ uẩn), tu tập hoàn thiện 37 phẩm trợ đạo, đầy đủ chỉ và quán,
chứng đạt được giác ngộ ngay trong hiện tại.
3. Khất thực phi
pháp: ngươi là ai?
Đối tượng khất
thực phi pháp không ai khác hơn là những người vô gia cư nghèo khó, giả
dạng người tu, với chiếc y giải thoát trên thân, khai thác niềm tin tôn
giáo của quần chúng Phật tử, làm việc quyên góp tiền bạc, mưu cầu lợi ích
bản thân, làm hoen ố hình ảnh thanh cao và thoát tục của Phật giáo. Nhiều
Phật tử nhẹ dạ đã bị những vị khách không mời mà đến này vơ vét sạch sành
sanh tiền tài, dưới hình thức của sự cúng dường.
Kẻ khất thực phi
pháp thường ăn mặc lôi thôi, không đúng cách đắp y của người xuất gia, tâm
và tướng không tương dung, với những bước đi thiếu sự
quan sát giác quan và chánh niệm. Họ đặt may
hoặc mua y may sẳn ở những tiệm bán trang phục người tu. Họ khoác chiếc y
tại các nhà vệ sinh công cộng, gần các khu vực chợ. Họ bén mãng những nơi
đông đúc, có kẻ qua người lại để chìa bát xin tiền, như những kẻ ăn xin
chuyên nghiệp. Họ ngồi dọc theo các chùa bà, chùa ông, hoặc đi đứng trong
khu vực chợ búa. Họ sẳn sàng gỏ cửa những gia đình giàu có, dưới hình thức
của một kẻ bán nhang, để rồi lừa niềm tin và lừa tiền. Họ đi xin bất kể
ngày hay đêm. Họ nhận tất cả, không loại trừ tiền bạc, vì mục đích chính
của họ vừa là thực phẩm vừa là tiền.
4. Khất thực phi
pháp: dây tùm gửi trên cây bồ-đề
Có hai loại khất
thực phi pháp. Loại thứ nhất chỉ chung cho giới xuất gia thực hành hạnh
khất thực không đúng với tinh thần thanh tịnh được đức Phật quy định như
sau:
a) Khất thực bình
đẳng, không phân biệt và không chọn lựa sang hèn.
b) Không dừng quá
lâu ở nhà này, và quá ngắn với nhà khác; theo thứ tự khất thực.
c) Với tâm trang
nghiêm định tĩnh, thiết lập chánh niệm trong từng bước chân từ tốn, nhẹ
nhàng và thanh thoát.
d) Mắt không được
ngó nghiêng trái phải, đặt niệm ở tầm mắt trong vòng 4 bước chân đi.
e) Không nhận
tiền bạc, không được nhận quá đầy bát.
f) Không được đi
sau giờ ngọ, g) Nhận vật thực để nuôi thân, gắn liền với hạnh hoá độ tha
nhân trong tương tác.
Những người xuất
gia bị tha hoá, bị lợi đắc, cung kính, danh vọng chi phối, khi hành khất
thực đã bị dính mắc vào hưởng thụ, vướng víu chỗ này hay chỗ kia, hãnh
diện trong hưởng thụ, khi so sánh với người khác, rơi vào bất hạnh lớn.
Những người như vậy đều được gọi là kẻ khất thực phi pháp.
Loại khất thực
phi pháp thứ hai không thuộc nội bộ của giới xuất gia. Họ là những người
đời, giả dạng người tu, lợi dụng vào sự tôn kính tăng bảo, làm việc phi
pháp, quyên góp tiền bạc, làm thương tổn niềm tin chân chánh, nhất là làm
cho người đời nhìn đạo Phật bằng một nhãn quan khinh miệt như những con
mọt kinh tế, tạo ra gánh nặng cho xã hội.
Trong vòng mười
năm trở lại đây, hiện tượng khất thực phi pháp đã làm chư tôn đức lãnh đạo
Phật giáo Việt
Nam phải lo lắng.
Nhiều ý kiến đã được đề xuất nhằm ngăn chận hiện tượng tùm gởi này, nhưng
đến nay vẫn không hề suy giảm, ngược lại có khả năng gia tăng. Một trong
những giải pháp được Thành Hội Phật Giáo TP.HCM triển khai trong chiến
dịch bài trừ nạn khất thực phi pháp là tiến hành thanh tra trong một thời
gian nhất định. Nhưng rất tiếc, kế hoạch đó đã được đăng tải trên báo Giác
Ngộ, vô tình đã bứt cây động rừng. Cho nên trong thời gian thanh tra,
những kẻ khất thực phi pháp đã không xuất đầu lộ diện, cho đến khi chiến
dịch hết hiệu lực ban hành. Bắt kẻ gian mà thông báo trước chẳng khác nào
treo chuông trên cổ mèo, chuột sẽ mừng vì được thoát hiểm.
Nếu khất thực
trong Phật giáo được sánh ví với cây bồ-đề, thì tình trạng lợi dụng chiếc
áo nhà tu trong việc khất thực phi pháp của một số phần tử bất chánh, được
ví như các dây tùm gửi, đã làm cho truyền thống này mất đi ý nghĩa xã hội,
đạo đức và tâm linh.
Mặc dù các nỗ lực
ngăn chận kẻ khất thực phi pháp là cần thiết, nhưng sẽ là một sai lầm nếu
vì muốn bảo vệ “danh dự của hệ phái khất sĩ và Phật giáo Thượng Toạ Bộ
Việt Nam” chúng ta đình chỉ truyền thống tốt đẹp này. Đừng vì những dây
tùm gửi mà chặt bỏ toàn thân cây bồ-đề. Cũng như đừng vì hiện tượng tai
nạn giao thông mà bỏ đi các phương tiện và các trục lộ giao thông. Vấn đề
chính yếu là làm thế nào để truyền thống khất thực chân chánh và thanh
tịnh được phục hoạt, để ảnh hưởng của đạo Phật đi vào cuộc đời.
Đất nước Thái Lan
có số lượng Phật tử chiếm đại đa số. Đó là một quốc gia tôn thờ đạo Phật
như quốc giáo. Trong gần hai năm qua, khi nội loạn và bạo động diễn ra ở
miền Nam Thái, đặc biệt tỉnh Pattani, nơi đại đa số theo Hồi giáo cực đoan,
các nhà sư khất thực trên đường phố đã trở thành một trong những đối tượng
tấn công để gây khủng bố. Đứng trước tình trạng đó, thủ tướng và vua Thái
Lan đã tuyên bố cho cảnh sát bảo vệ các nhà sư khất thực. Đứng trước hiểm
hoạ khủng bố giữa làn tơ kẻ tóc của sống và chết, truyền thống khất thực
vẫn một mực được duy trì, hẳn không phải không có lý do. Đây là bài học
thiết thực, chúng ta có thể tham khảo.
5. Phương pháp
ngăn chận nạn khất thực phi pháp
Đã qua rồi cái
thời Nho giáo chụp mũ khất thực Phật giáo là con mọt của xã hội, dẫn đến
phong trào “một ngày không làm một ngày không ăn”
của Phật giáo Trung Quốc; cũng đã qua rồi cái thời nhà nước quan niệm việc
tu hành của tu sĩ Phật giáo là “hành nghề tôn giáo” và khất thực là cái
nghề ăn bám xã hội, Giáo Hội Phật Giáo nên mạnh dạn phục hoạt lại truyền
thống thánh chủng này, vì sự nhập thế của đạo Phật và vì sự lợi ích cho
quần chúng.
Để duy trì và
phát triển một truyền thống tâm linh trong Phật giáo, đồng thời để việc
khất thực đúng với tinh thần giới luật của Phật, làm lợi lạc cho nhân quần
và xã hội, trên cơ sở của những điều vừa trình bày, người viết xin đề xuất
phương án ngăn chận hiện tượng khất thực phi pháp như sau.
a) Giáo Hội Phật
giáo nên khuyến khích các truyền thống Phật giáo thực hành hạnh khất sĩ,
bằng chính sách và chủ trương cụ thể. Bảo vệ và hỗ trợ tích cực cho các
hành giả khất thực chân chánh, bằng cách tuyên dương công đức.
b) Giáo Hội Phật
giáo nên thành lập Ban Thanh Tra Khất Thực ở cấp Tỉnh Thành và Quận Huyện.
Ban Thanh Tra này sẽ thực hiện các chiến dịch thanh tra định kỳ ngắn hạn,
nhằm giám sát và đình chỉ kịp thời các hành vi khất thực phi pháp của
những kẻ lợi dụng.
c) Các hành giả
khất thực phải được cấp phát Thẻ Khất Thực, có đóng dấu nỗi để tránh giả
mạo. Các tự viện có hành giả khất thực phải đăng ký với Ban Đại Diện quận
huyện. Ban Đại Diện gởi danh sách lên Ban Tăng Sự Thành Hội rồi chuyển qua
Ban Thanh Tra Khất Thực duyệt và cấp phát thẻ khất thực. Khổ của Thẻ Khất
Thực bằng với thẻ chứng minh nhân dân, có hình để nhận dạng, với các chi
tiết: họ tên, pháp danh, tự viện cư trú, mã số thẻ. Mặc sau của Thẻ Khất
Thực ghi rõ các tiêu chí khất thực được Phật dạy trong Luật tạng, để nhắc
nhỡ hành giả khất thực làm tốt gương hạnh thanh cao này.
d) Các hành giả
khất thực phải đeo Thẻ Khất Thực phía trước ngực để góp phần giúp Ban
Thanh Tra Khất Thực và quần chúng nhận dạng được những kẻ khất thực giả,
vốn không có thẻ. Ý thức về cách đeo thẻ như là một phương tiện nhận dạng
người khất thực chân chánh, sẽ giúp cho công việc thanh tra và loại trừ kẻ
giả mạo được kết quả cao hơn.
e) Thông qua
chính sách của Giáo Hội và sự phối hợp giữa Giáo Hội và Nhà nước, Ban
Thanh Tra Khất Thực cần được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, đặc
biệt là các cảnh sát giao thông trong việc phát hiện ra kẻ giả mạo do
không có đeo Thẻ Khất Thực của Giáo Hội.
f) Áp dụng các
biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với
kẻ
giả
mạo,
để răn đe và giáo dục kẻ xấu từ bỏ ý định lợi dụng tôn giáo làm ảnh hưởng
phong hoá Phật giáo và xã hội. Kẻ giả dạng tu sĩ khất thực phi pháp khi bị
phát hiện cần được xử theo các khung hình phạt về tội lừa đảo và chiếm
đoạt tài sản nhân dân, được quy định trong Luật Hình Sự hiện hành. Không
nên xử lý dân sự, vì như vậy, kẻ lợi dụng sẽ không sợ và tiếp tục làm ảnh
hưởng đến uy tín của Phật giáo.
g) Giáo Hội Phật
giáo nên phối hợp với Đài Truyền Hình Thành Phố thực hiện các phóng sự về
gương hạnh của các hành giả khất thực gương mẫu, để người dân hiểu rõ về
truyền thống khất thực trong nhà Phật, song song việc cung cấp dữ liệu
sống, giúp cho mọi người phân biệt được đâu là kẻ khất thực phi pháp và
khất thực đúng chánh pháp.
6. Trai Tăng:
Khách không mời mà đến
Thành ngữ “khách
không mời mà đến” trong vòng mười năm qua được sử dụng trong Phật giáo, ám
chỉ cho những vị tu sĩ “tân tăng” không có thiệp mời thỉnh, vẫn nghiễm
nhiên đến dự trai tăng, nhân ngày giổ tổ hay khánh thành các ngôi chùa
Phật giáo. Một thành ngữ khác, không mấy hay lắm, đã được sử dụng để chỉ
cho khách không mời mà đến này là “Sư Tân-đầu-lô.” Tân-đầu-lô Phả-la-đoạ
là vị A-la-hán thời Phật có duyên tạo phúc cho các gia chủ, nên thường
được Tăng đoàn cử đi dự trai tăng tại các tư gia, đem lại sự hoan hỷ cho
nhiều người. Những vị khách không mời mà đến này không xứng đáng một phần
ngàn đức hạnh của ngài Tân-đầu-lô, do đó, không nên dùng từ “sư Tân-đầu-lô”
để ám chỉ họ.
Nếu như hiện
tượng “khất thực phi pháp” thuộc về những người giả sư, để xin tiền sống
qua ngày đoạn tháng, làm ảnh hưởng thanh danh của Phật giáo, thì ngược lại,
“khách không mời mà đến” phần lớn là những vị sư “bị biến chất,” ăn mặc
thiếu trang nghiêm, chỉ biết nhận tiền bạc, chứ không làm bất cứ điều gì
tạo ra phước báu cho người cúng dường. Trong số họ, có người ở trong các
ngôi chùa không thuộc Giáo Hội, hoặc các ngôi theo truyền thống tân tăng,
lập gia đình. Có người chỉ là người tu về hình thức, phẩm hạnh và đời sống
hoàn toàn là người thế tục. Họ thường liên kết với nhau thành từng nhóm,
có mặt ở các lễ trai tăng cũng theo nhóm, để tự chấn an bằng thế liên minh.
Trong đãi của họ thường có sổ tay ghi chép ngày giổ và lễ quan trọng của
các chùa trong Sài Gòn. Họ có điện thoại di động để nhắc nhỡ nhau về ngày
trai tăng gần kề, để cùng đi và cùng hưởng. Trước đây, chỉ có các sư biến
chất. Bây giờ có thêm hình thức các Sư cô tương tự. Có ngày, họ đi dự lễ
trai tăng hai ba lần. Điều đau lòng hơn, phần lớn họ là những người không
biết xấu hỗ, không có lòng hỗ thẹn, thích ăn trên ngồi trước, ở những chỗ
ngồi dành cho hàng thượng toạ hoặc ni sư. Ôi, thật là nỗi ô nhục cho Phật
giáo Việt
Nam.
Điều đáng nói là
họ có mặt ở bất kỳ chùa nào không có thái độ kháng cự dứt khoát và không
tương nhượng với sự có mặt của họ. Người viết đã từng chứng kiến họ có mặt
tại Tổ đình Ấn Quang, chùa Phổ Quang, Tân Bình, chùa Vĩnh Nghiêm quận 3 và
nhiều ngôi chùa lớn khác. Ngay cả ngôi chùa sư tỷ của Thượng toạ Phó
Thường Trực Ban Trị Sự Thành Hội Phật Giáo Thành Phố, họ cũng chẳng từ!
Vấn đề đặt ra là,
điều gì đã làm cho họ bạo dạn và mất hết lòng hỗ thẹn như vậy? Câu trả lời
là những vị trụ trì của ngôi chùa được “khách không mời mà đến” này đến
quấy nhiễu, đã không có biện pháp tích cực nào. Điều đáng nói hơn, vì hiểu
lầm tinh thần cúng dường bình đẳng, các vị trụ trì đã cúng bao thơ cho
khách không mời này, tạo điều kiện cho họ tiếp tục làm việc bất chánh.
Có ít nhất ba
cách thức loại trừ khách không mời mà đến. Xin trình bày sơ lược như sau.
a) Phương pháp
cấy đặt lòng hỗ thẹn: Trọng tâm của phương pháp này là dứt khoát và
không tương nhượng với khách không mời mà đến. Các vị tri sự hay tri khách
của các chùa phải mạnh dạn mời các vị khách không mời mà đến này ra khỏi
phạm vi của chùa, nơi đang có lễ giổ và cúng dường trai tăng đang diễn ra.
Sự “mời ra” phải được thực hiện trong tinh thần lịch sự, để không làm ảnh
hưởng đến không khí trang nghiêm của buổi lễ. Sự mời về dứt khoát này sẽ
làm họ ý thức về lòng xấu hỗ trước mặt mọi người, không dám tái hiện ở nơi
đó trong những lần sau.
b) Phương pháp
tạo ra sự lỗ lã: Nếu vì lòng từ bi, muốn bố thí không phân biệt, các
vị có chức trách trong những ngôi chùa đang cúng dường trai tăng cần phải
tách biệt các vị khách không mời mà đến này ra khỏi trai đường chính. Cho
họ ngồi ở những nơi không quan trọng. Dứt khoát không cúng dường bao thơ,
để họ hiểu được việc làm của họ không đúng, nhờ đó, hạn chế tình trạng lai
vãng trong tương lai. Bằng mọi cách làm cho họ thấy được sự tiếp tục đến
dự trăng tai mà không có được bao thơ này sẽ dẫn đến tình trạng lỗ tiền
xăng dầu. Do vì sợ lỗ và bị lỗ, các vị khách không mời mà đến sẽ biến mất.
c) Phương pháp
chống tái phát: Giáo Hội phải mạnh dạn xác quyết hiện tượng khách
không mời mà đến gây ảnh hưởng xấu đến truyền cúng dường trai tăng, tu
phước tạo đức và đền đáp ơn đức của các tổ sư. Áp dụng biện pháp chế tài
đối với những vị khách không mời mà đến này, bằng cách phân tích tệ nạn
của họ trên báo Giác Ngộ. Đảm bảo phương pháp này sẽ giải quyết vấn đề một
cách dứt điểm và nhanh chóng, không còn tình trạng tái phát và giây dưa
trong tương lai.
Trên đây là một
vài ý tản mạn đối với hai tệ nạn đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra trong
Phật giáo. Nếu Ban Tăng Sự không dứt khoát chửa trị hai căn bệnh này, niềm
tin quần chúng và xã hội về gương hạnh thoát tục của tu sĩ Phật giáo không
còn nữa. Để trị liệu tệ nạn này, cách “chữa lửa” tạm thời chắc chắn không
phải là giải pháp thích hợp. Kính mong chư tôn đức, bằng tuệ giác và lòng
từ bi, sớm tìm ra những giải pháp hữu hiệu và dứt điểm.
Kinh Trung Bộ: http://buddhismtoday.com/viet/kinh/pali/Trungbo27-127-30.htm