...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
- Lý thuyết và thực tế
T oàn bộ lý do vì sao phải học tập về
Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức
Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an
bình và hạnh phúc. Cho dù chúng ta học về các hiện tượng vật lý
hay tâm linh, tâm (citta) và các tâm sở (cetasika), chỉ khi
nào chúng ta lấy sự giải thoát khỏi mọi phiền não làm mục đích tối
hậu thì chúng ta mới đi đúng con đường, không
có gì ít hơn thế. Khổ não có nguyên nhân và điều kiện đã gây nên sự hiện hữu của nó.
Xin hãy hiểu thật rõ ràng rằng
khi tâm được tĩnh lặng, thì đó là tình trạng tự nhiên, bình thường
của tâm. Hễ tâm vừa khởi động lên, tức thì nó trở nên bị điều kiện
hóa. Khi tâm bị sự vật nào thu hút, thì tâm ấy bị điều kiện hóa. Khi
sự hiềm ghét khởi lên, tâm bị điều kiện hóa. Ý muốn di chuyển từ nơi
này đến nơi khác, cũng khởi lên do sự điều kiện
hóa. Nếu sự hay biết của chúng ta không theo kịp các sự biến chuyển
lay động của tâm linh, thì tâm tư sẽ đuổi theo các sự biến chuyển đó
và do đó mà bị điều kiện hóa vì chúng. Khi nào tâm chuyển động, vào lúc đó, tâm ấy trở thành
một thực tại qui ước.
Cho nên Đức Phật dạy chúng ta phải nên quán chiếu các sự
biến chuyển lay động đó của tâm. Mỗi khi tâm
di động, nó trở nên bất ổn và vô thường (anicca), bất
toại nguyện (dukkha, khổ não), và không thể lấy đó làm một tự
ngã được (anattā, vô ngã). Vô thường,
khổ, vô ngã là ba đặc tính phổ quát của tất cả
các pháp hữu vi. Đức Phật dạy chúng ta phải quan sát và quán chiếu các
biến động của tâm.
Đối với Lý Duyên Sinh (paticca
samuppāda), ta cũng nên học tập như thế: vô minh (avijja)
là nguyên nhân và điều kiện khởi sinh các hành nghiệp; các hành là nhân
và duyên khởi sinh các thức (viññāna); các thức là nhân và duyên
khởi sinh danh (nāma) và sắc (rūpa); v.v... như ta đã từng học trong kinh điển.
Đức Phật đã tách riêng ra từng mấu chốt trong chuỗi dài mười
hai nhân duyên để chúng ta dễ học. Đây là
sự mô tả chính xác về thực tại. Nhưng khi tiến trình các sự kiện ấy
thật sự diễn ra trong đời sống, các nhà học giả không có đủ khả năng để theo dõi đúng vào lúc chúng xảy
ra. Cũng như ta đang từ trên ngọn cây cao bị rơi xuống đất. Chúng ta
không biết rõ được khi rơi xuống, chúng ta đã
xuyên qua bao nhiêu cành lá . Cùng thế ấy, khi tâm bất thần va chạm vào một
đối tượng, nếu có sự thỏa thích trong đó,
thì tâm liền bám theo và tạo trạng thái vui vẻ. Tâm ấy chỉ biết
đến sự vui vẻ đó mà không thể biết đến chuỗi
dài các nhân duyên đưa đến trạng thái vui
vẻ ấy. Tiến trình các sự kiện đã xảy ra đúng với những gì được
mô tả trong lý thuyết, nhưng đồng thời nó vượt quá giới hạn của lý
thuyết đó.
Không có gì cụ thể rõ ràng khi nói: "Đây là vô minh.
Đây là những hành nghiệp, và đó là thức,..." Tiến trình nhân duyên
không cho các học giả có cơ hội để đọc ra một
danh sách các sự kiện khi chúng xảy ra. Mặc dù Đức Phật đã phân
tích tỉ mỉ và giải thích rõ ràng các chập tâm, nhưng đối với tôi, tiến
trình đó giống với sự kiện từ trên cây bị rơi xuống. Khi chúng ta rớt
phịch xuống đất rồi, chúng ta không kịp phỏng
tính đã té cao từ bao nhiêu mét nữa. Điều mà chúng ta biết chắc
là thân ta đã chạm mặt đất, và đau quá!
Tâm cũng như thế ấy. Khi tâm rơi vào một sự việc nào
đó, điều mà chúng ta hay biết được là nỗi
đau đớn. Sự thống khổ, đau đớn, ưu sầu, và chán nản đó đã từ đâu
mà đến đây? Chúng không đến từ lý thuyết trong sách vở. Không
thấy có chỗ nào đã viết rõ các chi tiết của nỗi thống khổ chúng ta.
Sự đau khổ của chúng ta không liên quan chính xác với lý thuyết, nhưng cả
hai, sự đau khổ và lý thuyết, lại cùng đi chung
một con đường. Sự nghiên cứu qua sách vở không thể theo kịp với thực tại được. Vì lẽ đó, Đức Phật đã dạy
cần phải đào luyện sự hiểu biết thật rõ ràng về chính chúng
ta. Bất cứ điều gì khởi sinh lên, điều đó đều
khởi sinh trong sự hay biết đó. Khi sự hay biết này, đã hay biết được
đúng với sự thật, thì tâm và các tâm sở
được nhận ra rõ ràng rằng chúng không phải là của ta. Một cách
rốt ráo, tất cả những hiện tượng đó cần phải
được dẹp bỏ qua và vứt đi như rác rến. Chúng ta chớ nên bám
níu vào và gán cho chúng một ý nghĩa nào cả.
Lý thuyết và thực tế
Đức Phật dạy về t âm và các tâm sở, nhưng không
phải để cho chúng ta bám chặt lấy các ý niệm
đó. Ý định duy nhất của Ngài là giúp chúng ta nhận chân ra được
chúng (tâm và tâm sở) đều vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Rồi
thì hãy buông bỏ chúng, gạt chúng qua một bên. Hãy hay biết và hiểu rõ
chúng khi chúng khởi sinh. Tâm này đã bị điều kiện
hóa từ lâu. Tâm ấy đã được tập tành và chịu sự điều kiện hóa để quay cuồng và xa rời khỏi
tình trạng của sự hay biết thuần tịnh. Khi tâm ấy quay cuồng, nó tạo
nên các hiện tượng bị điều kiện hóa, rồi
các hiện tượng ấy trở lại ảnh hưởng đến tâm thêm nữa, khiến
cho sự biến chuyển cứ tiếp tục mãi. Tiến trình đó khởi sinh các điều thiện, điều ác, và các sự
vật khác nữa dưới ánh mặt trời này. Đức Phật dạy ta phải nên từ
bỏ chúng hết đi. Tuy nhiên, ngay buổi đầu, các bạn còn phải tập làm
quen với lý thuyết, rồi mới có thể buông bỏ nó vào một giai đoạn sau. Đó là một tiến trình tự nhiên. Tâm chỉ
là như thế đó. Các tâm sở cũng chỉ là như thế đó.
Hãy lấy một thí dụ, về Bát Chánh Đạo chẳng hạn. Khi
trí tuệ (paññā, bát nhã) quán sát sự vật
một cách đứng đắn với minh quán, Chánh Kiến khởi lên và đưa đến Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, và các
chi kế tiếp. Điều này có liên hệ đến các tình trạng tâm lý đã
khởi lên từ giác niệm thuần tịnh. Giác niệm đó
cũng như một ngọn đèn soi sáng trong đêm tối cho con đường phía trước.
Nếu sự hiểu biết đúng đắn, nghĩa là phù hợp với chân lý, nó
sẽ tỏa lan và soi chiếu cho mỗi bước đi khác trên đường Bát Chánh.
Bất cứ điều gì mà chúng
ta thể nghiệm, điều ấy cũng khởi lên trong phạm vi của sự hiểu biết
này. Sự hiểu biết không thể có nếu tâm không hiện hữu. Tất cả là
những hiện tượng của tâm. Như Đức Phật có nói, tâm chỉ giản dị
là tâm. Tâm không phải là một chúng sinh, không phải là một người, một
tự ngã, hoặc là chính bạn. Tâm không phải là chúng ta, cũng không phải
là chúng nó. Pháp (Dhamma) chỉ giản dị là Pháp. Nó là một tiến
trình tự nhiên, vô ngã. Nó không thuộc về chúng ta, hay bất cứ ai khác.
Nó không phải là một vật. Bất cứ những gì mà một cá nhân thể nghiệm
đều rơi vào trong năm loại căn bản này (khandas, năm uẩn): sắc, thọ, tưởng, hành
và thức. Đức Phật dạy chúng ta nên buông bỏ chúng hết.
Sự quán chiếu cũng tựa như một thanh gỗ. Minh quán (Vipassanā) ở đầu này của thanh gỗ, còn An
chỉ (Samatha) thì ở đầu kia. Khi chúng ta cầm thanh gỗ lên, có phải
một đầu hay là hai đầu cùng được nâng lên? Dĩ nhiên, khi cầm thanh gỗ
lên thì hai đầu đều được cất lên cả. Đầu
nào là minh quán, và đầu nào là an chỉ? Chỗ nào là minh quán tận
cùng và chỗ nào là an chỉ bắt đầu? Cả hai đều
là tâm cả. Khi tâm trở nên an tịnh, thì sự an định sẽ khởi lên
ngay bước đầu từ nơi tịch tĩnh, an chỉ (samatha). Chúng ta gom và hợp
nhất tâm lại trong những trạng thái an định (samādhi).
Tuy nhiên, khi sự an bình và ổn cố của samādhi
phai nhạt dần, khổ sở sẽ khởi lên thay thế. Tại sao vậy? Bởi vì sự
an bình do thiền an chỉ đưa đến vẫn còn căn cứ
trên sự bám níu. Sự bám níu này có thể là một nguyên nhân gây ra
đau khổ. Tịch tĩnh còn chưa phải là bước cuối của con đường. Đức Phật đã nhìn thấy điều đó, do chính kinh nghiệm của Ngài, sự an định
của tâm như thế vẫn còn chưa phải là cứu cánh. Các nguyên nhân nằm
bên dưới tiến trình của sự hiện hữu (bhava) vẫn chưa được đoạn diệt (nirodha). Các điều kiện của sự tái sinh vẫn còn đó. Công
tác tâm linh của Ngài vẫn chưa đạt đến mức
toàn hão. Tại sao? Bởi vì vẫn còn khổ não. Do đó, căn cứ trên sự an định của tịch tĩnh, Ngài tiếp
tục quán chiếu, điều tra, và phân tích bản chất hữu vi của thực tại
cho đến khi Ngài đã giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc, ngay cả sự
ràng buộc vào tịch tĩnh. Tịch tĩnh vẫn còn là một phần của thế giới
hữu vi và thực tại ước định. Bám vào loại an định đó là bám vào thực tại ước định, và
cho đến khi nào chúng ta còn bám vào đó, chúng ta vẫn còn sa lầy trong hiện
hữu và tái sinh. Hân hoan trong sự an định của tịch
tĩnh sẽ đưa đến hiện hữu và tái sinh kế tiếp. Một khi tâm bất
an và chao động đã lắng dịu xuống rồi,
con người thường hay bám níu vào sự yên tịnh tiếp theo đó.
Thế nên Đức Phật mới quan sát các nguyên nhân và điều
kiện nằm bên dưới sự hiện hữu và tái sinh. Cho đến khi nào Ngài còn
chưa thấm nhập hoàn toàn vào vấn đề và hiểu rõ ràng được Chân Lý,
Ngài vẫn tiếp tục thẩm sát càng lúc càng thâm sâu hơn, với một tâm tư
an định, chiếu rọi vào tất cả mọi sự vật, an lành hay xáo động, mỗi
khi chúng khởi sinh lên. Ngài tiếp tục thẩm sát cho đến khi Ngài thấy thật
rõ ràng, minh bạch rằng, muôn pháp khi khởi lên hiện hữu thì cũng tựa
như một hòn sắt nóng đang nung đỏ. Năm uẩn (sắc,
thọ tưởng, hành, thức) của chúng sinh là hòn sắt nóng đỏ. Khi một
hòn sắt nung nóng đỏ, còn có chỗ nào cho ta cầm mà không bị phỏng tay
chăng? Có chỗ nào nơi hòn sắt nóng đỏ đó còn
dịu mát chăng? Thử sờ vào bên trên, bên dưới hoặc hai bên hông
mà thấy được một chỗ còn nguội lạnh chăng?
Không thể được. Hòn sắt nung đỏ đã hoàn toàn nóng cháy. Chúng
ta không thể nào bám vào sự an tịnh. Nếu tự đồng
hóa với sự an tịnh đó, rồi phỏng đoán rằng cũng có kẻ đang được
yên ổn và tịch tĩnh, đó là vô tình củng cố thêm ý nghĩ sai lầm
rằng có một linh hồn riêng biệt, một tự ngã độc lập. Ý tưởng về
tự ngã chỉ là một phần của thực tại qui ước. Khi nghĩ rằng, "Tôi
bình yên, Tôi xao động, Tôi tốt, Tôi xấu, Tôi
sung sướng, Tôi đau buồn", chúng ta càng bị vướng vào hiện hữu
và tái sinh. Lại càng thêm khổ sở. Khi hạnh phúc tàn phai, chúng ta đau khổ. Khi sự khổ sở biến mất, chúng ta có hạnh
phúc trở lại. Vướng mãi trong vòng lẩn quẩn đó, ta trồi lên thụt
xuống triền miên giữa thiên đường và điạ ngục.
Trước khi giác ngộ, Đức Phật nhận
thấy điều nà y trong chính tâm của Ngài. Ngài biết rõ rằng các điều kiện của sự hiện hữu và tái sinh vẫn
chưa tận diệt hết. Công tác của Ngài vẫn chưa hoàn tất. Chú tâm vào
tính duyên sinh của cuộc đời, Ngài quán chiếu: "Do nguyên nhân này
mà có sự sinh; do sự sinh này mà có sự chết, và tất cả các sự biến
chuyển này đến và đi." Thế là Đức Phật nắm
lấy các chủ đề đó để quán chiếu hầu thông hiểu Sự Thật về năm
uẩn. Tất cả mọi sự vật tâm linh hay vật chất, mọi sự việc được
quan niệm hay suy tư đến, đều do duyên sinh, không có một ngoại lệ
nào. Một khi Ngài đã hiểu rõ như thế, Ngài dạy chúng ta nên đặt chúng
xuống. Một khi Ngài đã hiểu rõ như thế, Ngài dạy chúng ta nên buông bỏ
chúng hết. Ngài khuyến khích mọi người nên thông hiểu cho phù hợp với
Chân Lý. Nếu không như thế, chúng ta sẽ khổ sở. Chúng ta không đủ khả năng để vứt bỏ các sự vật đó. Tuy nhiên,
một khi chúng ta thấy rõ Sự Thật về vấn đề
đó, chúng ta sẽ nhìn nhận rằng các sự vật đó làm mê hoặc
chúng ta. Như Đức Phật có nói, "Tâm không có thực chất, nó không phải
một vật nào cả."
Tâm không phải sinh ra là thuộc về
một ai. Tâm không chết đi như bất cứ ai. Tâm ấy tự do, chiếu sáng rạng
ngời, và không vướng mắc vào bất cứ vấn đề nào cả. Lý do
các vấn đề khó khăn khởi lên là vì tâm
ấy bị che mờ bởi các sự vật bị điều kiện
hóa, bị vẩn đục vì quan niệm sai lầm về tự ngã. Bởi thế, Đức Phật dạy ta phải nên quan sát tâm ấy.
Ngay tại buổi đầu, đã có gì ở đấy? Thực sự, không có gì cả.
Tâm ấy không khởi lên cùng với các pháp hữu vi, và tâm ấy cũng không
diệt mất theo các pháp hữu vi đó. Khi gặp một sự việc gì thiện lành,
tâm ấy không thay đổi để trở thành thiện
lành theo. Khi gặp một sự việc xấu ác, tâm ấy cũng không xấu ác theo.
Tâm ấy như thế đó, khi có sự minh quán nhìn rõ ràng vào bản thể của
chính mình. Có sự thông hiểu rằng đây vốn là một tình trạng vô thực
chất.
Trí tuệ minh quán của Đức Phật
nhìn thấy muôn pháp đều vô thường, bất toại nguyện và vô
ngã. Ngài muốn mọi người chúng ta phải thông hiểu hoàn toàn theo
đường lối đó. Do đó, sự "hay biết" đã
biết thật phù hợp với Chân Lý. Khi sự "hay biết" đó biết đến niềm an lạc hay nỗi sầu bi, thì
nó vẫn giữ được sự thản nhiên, bất động. Tình cảm an lạc là một
hình thức của sự sinh ra. Khuynh hướng trở nên buồn bã là một hình thức
của sự chết đi. Khi có sự chết, tất sẽ có sự sinh; và những gì sinh
ra rồi sẽ chết đi. Khởi sinh rồi tận diệt, cứ mãi vướng vào vòng lẩn
quẩn của sự hiện hữu. Một khi tâm tư của hành giả đã đạt đến tình trạng hiểu biết như thế đó, thì
không còn sót lại chút nghi ngờ nào về sự trở thành và tái sinh nữa cả.
Không còn cần phải hỏi lại ai nữa cả.
Đức Phật thẩm sát đầy đủ hết
tất cả các pháp hữu vi và đã buông bỏ được chúng. Năm uẩn cũng được
buông bỏ, và sự "hay biết" chỉ đơn thuần là một quan
sát viên vô tư. Nếu Ngài thể nghiệm điều chi tích cực, Ngài không vì
thế mà trở thành tích cực. Ngài chỉ đơn thuần quan sát và tỉnh giác.
Nếu Ngài thể nghiệm điều chi tiêu cực, Ngài không hề trở thành tiêu cực.
Và tại sao lại như vậy? Bởi vì tâm tư Ngài đã giải thoát khỏi các
nhân duyên ấy. Ngài đã thấm nhập vào Chân Lý. Nhân duyên đưa đến tái sinh không còn hiện hữu nữa. Đó là sự "hay biết" chắc chắn và đáng tin cậy. Đó là một tâm tư thật sự hoàn
toàn an định. Đó là những gì không hề
được sinh ra, không già lão, không bệnh hoạn, và không hề chết đi. Đó cũng không phải là nguyên nhân hoặc hậu
quả, cũng không tùy thuộc vào nhân và quả; hoàn toàn độc lập đối với tiến trình duyên sinh. Các
nguyên nhân bấy giờ đã chấm dứt, và không còn sót lại một duyên nào
nữa. Tâm tư ấy vượt qua sự sinh và sự chết, vượt qua an lạc lẫn ưu
bi, cả thiện lẫn ác. Còn có thể nói gì hơn nữa? Nó vượt qua mọi giới hạn của ngôn từ để mô tả nó. Tất
cả các điều kiện hỗ trợ đã chấm dứt, và nỗ lực nào để mô tả nó cũng sẽ chỉ đưa đến sự bám thủ.
Ngôn từ được dùng bấy giờ chỉ trở thành một tràng lý thuyết
của tâm tư mà thôi.
Các mô tả lý thuyết về tâm và cách vận hành của tâm
tuy chính xác nhưng Đức Phật lại xem loại hiểu
biết đó tương đối vô dụng. Chúng ta dùng trí thức để hiểu biết một
điều gì, rồi tin tưởng vào đó, nhưng đấy
không có chút ích lợi thực sự nào. Kiến thức đó không đưa đến an định.
Sự hiểu biết của Đức Phật đưa đến sự buông bỏ. Kết quả là
sự từ khước. Bởi vì chính cái tâm đã dẫn ta nhúng tay vào cả hai, điều
phải và điều trái. Nếu khá khôn ngoan, chúng ta sẽ
chọn điều phải. Nếu quá khờ khạo, chúng ta sẽ dính dấp đến điều
quấy. Tâm ấy là tâm thế gian, và đức Thế
tôn đã dùng các sư vật của thế gian này để
quan sát chính thế gian đó. Biết được rõ ràng thế gian này đúng
như thật nó là như thế, Ngài được tôn xưng là bậc "Thế gian giải",
nghĩa là bậc đã hiểu được thế gian này rất rõ ràng và minh bạch.
Trở lại với vấn đề an chỉ ( samatha)
và minh quán (vipassanā), điều quan trọng nhất
là phải phát triển các trạng thái đó ngay trong chính tâm của chúng ta.
Chỉ khi nào chúng ta thật sự phát triển chúng nơi ta thì chúng ta mới
hiểu biết rõ thực sự chúng là như thế nào. Chúng ta cố tìm học những
gì trong sách vở nói về các yếu tố của tâm, nhưng loại kiến thức trí
năng này lại không có ích lợi chi cho việc cắt đứt hẳn các ham muốn vị
kỷ, sân hận và si mê. Chúng ta nghiên cứu lý thuyết về tham, sân, si, giản
dị chỉ mô tả các đặc tính khác nhau của các lậu
hoặc tinh thần đó: "Ham muốn ích kỷ có nghĩa là như thế này;
giận hờn mang ý nghĩa như thế kia; si mê được
định nghĩa như thế nọ." Khi chỉ hiểu biết chúng qua các đặc tính
lý thuyết đó, chúng ta có thể thuyết giảng về chúng, nhưng chỉ
trên bình diện này thôi. Chúng ta thông minh và hiểu biết như thế, nhưng
khi các lậu hoặc đó thực sự khởi lên trong tâm chúng ta, chúng có hoàn
toàn giống hệt như trong lý thuyết không? Thí dụ như, khi chúng ta gặp phải
việc gì bất như ý, chúng ta có phản ứng chống lại và trở nên cau có
chăng? Chúng ta có bám chặt lấy nó không? Hay là chúng ta buông bỏ, cho qua
đi? Nếu sự hiềm ghét nổi lên và chúng ta thấy được như thế, chúng
ta có còn ôm ấp sự hiềm ghét đó mãi chăng? Hoặc là khi chúng ta đã nhận diện rõ ra sự hiềm ghét rồi,
chúng ta có lập tức buông bỏ nó không? Nếu tự xét mình khi có điều không
vừa ý mà nổi lên sự hiềm ghét và cố giữ sự hiềm ghét đó mãi, tốt
hơn là ta nên quay về học tập lại nữa. Bởi vì sự cố chấp đó không
phải là thái độ đúng đắn. Sự thực tập vẫn
chưa được hoàn hảo. Hễ khi đã hoàn hảo rồi thì tự nhiên có sự
buông bỏ xảy ra. Các bạn hãy nhìn lại sự việc dưới ánh sáng này.
Chúng ta phải thành thực nhìn sâu vào chính tâm của chúng
ta, nếu chúng ta muốn thể nghiệm được các lợi lạc của sự thực tập.
Cố gắng mô tả các tình trạng tâm lý, qua các tâm sở khác nhau và các
đặc tính của chúng, chưa phải là sự thực tập đầy đủ. Còn nhiều việc khác cần làm hơn thế
nữa. Nếu cần học tập các điều ấy, bạn hãy tìm hiểu chúng một
cách tuyệt đối, với sự sáng tỏ rõ ràng
và sự hiểu biết thâm sâu. Thiếu sự trong sáng của minh quán, làm sao ta
hoàn tất được việc học tập? Chúng ta không bao giờ học tập cho xong cả.
*
T hực tập Chánh Pháp vì thế mà quan trọng
vô cùng. Khi tôi thực hành, đó là tôi đang học tập.
Tôi không biết gì về các tâm sở, các yếu tố tâm lý của tâm cả.
Tôi chỉ quan sát phẩm chất của sự hiểu biết. Nếu một tư tưởng khởi
lên, tôi liền tự hỏi tại sao. Nếu một ý hờn giận nổi lên, tôi tự
hỏi tại sao. Nếu một ý yêu thương sinh ra, tôi tự
hỏi tại sao. Đó là phương cách mà tôi theo. Cho dù có đặt tên
các ý đó là tư tưởng, là tâm sở, là yếu tố tâm lý, là gì gì đi nữa,
thì cũng đã có sao? Chỉ cần đi thật sâu vào điểm
đó cho đến khi nào các cảm xúc thương hay ghét đó hoàn toàn biến
mất khỏi tâm. Khi tôi có đủ khả năng để chận
dừng sự yêu hay ghét, trong bất cứ trường hợp nào, tôi mới có
thể vượt thoát khỏi sự đau khổ. Rồi thì đâu cần việc gì xảy ra
thêm; tâm và trí đã được giải thoát và thoải mái. Không có gì còn lưu
lại. Tất cả đều dừng đứng lại.
Xin hãy thực tập như thế. Nếu có ai muốn thuyết giảng
về lý thuyết, thì đó là việc của họ. Nhưng dù có tranh luận đến bao
nhiêu đi nữa, thì sự thực tập cũng chỉ gom lại ở một điểm duy nhất tại đây. Khi sự việc nào khởi
lên, thì nó khởi lên ngay tại đây. Dù nhiều hay
ít, nó cũng bắt nguồn từ ngay nơi đây. Khi nó chấm dứt, sự chấm dứt
cũng xảy ra ngay tại đây. Còn chỗ nào khác nữa sao? Đức Phật gọi điểm tại đây là sự "hiểu biết".
Khi sự "hiểu biết" đó biết được sự vật chính xác, phù
hợp với Chân Lý, thì chúng ta thông hiểu được ý nghĩa của tâm. Sự vật
luôn luôn lừa gạt không ngừng. Khi ta học tập về chúng, chúng luôn dối
gạt ta. Tôi còn phải nói cách nào nữa đây? Mặc dù bạn biết chúng, bạn
vẫn bị mê hoặc vì chúng, ngay tại nơi bạn biết đến chúng. Đấy là thực trạng. Vấn đề là như
thế này: ý định của Đức Phật không phải là
muốn ta biết các sự vật được gọi tên gì. Mục đích giáo pháp
của Ngài là dạy ta hãy suy gẫm để tìm ra con đường giúp chúng ta thoát
ra khỏi các ràng buộc của vạn pháp, xuyên qua sự truy tầm các nguyên
nhân sâu xa nằm ẩn bên dưới.
Thiện Nhựt & Bình Anson dịch
Tháng 4-2005
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/lythuyet&thucte.htm
|
|