(Những vế, câu ở trong ngoặc kép “”, nhưng ngay trước và sau nó không nêu
xuất xứ, cũng là thơ của Mặc Giang )
Quan niệm, quan điểm về bản chất
hay nguồn gốc con người và vạn hữu, là thuộc triết học hoặc siêu hình học,
đã có những minh sư hiền triết trình bày dưới nhiều quan điểm và dạng thức
khác nhau. Tùy mức độ trí tuệ nhận thức của loài người, mà quan niệm đó
được nhìn nhận đánh giá thông qua những giá trị khác nhau.
Trong dòng sống không thể hình
dung đâu là khởi thủy này, sự xuất hiện mỗi tư tưởng, vừa được xem là sự
tiếp thu một cách sâu sắc, thông minh, biết phân tích và sáng tạo về triết
lí nhân sinh, nhưng cũng vừa là một tư tưởng đột phá tuyệt siêu. Tư tưởng
đại diện trong một thời đại nhất định nào đó, tuy được xem là sự thống
nhất hài hòa của xưa và nay, tiền bối và hậu bối ; thế nhưng giá trị sau
cùng vẫn chính tùy thuộc trí tuệ sắc sảo nhạy bén, biết suy tư và chiêm
nghiệm một cách thông minh, sắc bén, thuần chính. Từ góc độ này để nhận
định đánh giá một tư tưởng lớn, thì dù muốn dù không, cũng phải khẳng nhận
rằng, tư tưởng thơ Mặc Giang đã chiếm một vị thế ổn định sáng giá trong
dòng tư tưởng viên dung giữa triết lí hiện sinh và triết học tư biện.
Xuyên qua ngòi bút kiều diễm, lời thơ thống thiết, như đang chắp cánh bay
vào cuộc sống để cải tạo cuộc đời của ông, chúng ta sẽ có cơ hội có được
cái nhìn, cách nghĩ cuối cùng độc lập khách quan đối với tư tưởng thơ Mặc
Giang.
Qua thơ ông, ta thấy cái gọi là
vạn hữu vũ trụ có mặt từ thuở hồng hoang, hay kiếp sống con người lan trải
rộng dài trên vạn nẻo đường, luôn trong trạng thái diệt sanh,
sanh diệt nhanh hơn dòng thác lũ. Sống và chết, chết và sống là những cõi
đời vô định phiêu lưu.
Xưa nay, những biến cố hải chấn, địa chấn và bao tai họa khác, làm hàng
ngàn hàng vạn người “mới ngày nào những ân tình trìu mến, mới ngày nào
những bịn rịn chia xa” đột ngột đi vào cõi chết đến não lòng, thì ai cũng
sẽ thấy:
Sống và chết, không kịp chia
tích tắc
Có khi chết một cái ào, tím ngắt
Có khi chết một cái ào, im re
Có kinh chết, một cái ào nín khe
Thật mơ hồ, trông còn hơn mộng mị
(Mặc Giang, bảo vệ hành tinh
xanh)
Sự
biến chuyển từ mạch sống hân hoan trong dệt mộng ươm đời hạnh phúc, đến
cái chết kêu ông xanh không thấu, gọi bà dày không hay như thế, đúng còn
hơn cả chiêm bao. Trong thế giới đối đãi, mộng thì không phải thực, mà
thực thì không phải mộng, nhưng giờ thì không thể phân ranh xẻ giới. Vì
“chết thật tình mà nghe sao vô lí, …mới đó mà trôi về một cõi lãng quên,
mới đó mà lung linh mờ cát bụi”. Triết lí về vô thường biến hoại ở đây
khiến ta ý thức được, “trong hội ngộ đã sẵn mầm chia li…”. Đồng thời với ý
thức này, người ta càng thấu biết “trong tích tắc, biết bao nhiêu sự chết,
chứ đâu cần một đêm với một ngày, chứ đâu cần một tháng với môït năm…”
Hình ảnh thân thiết gần gũi sau chết chóc li tan, là một hiện trạng chua
chát phủ phàng, khiến con người thêm chán ngán về sức mạnh của vô thừơng,
là hình ảnh một chiều nào đó:
Đi trong nghĩa trang chợt nhìn nấm mộ
Nắp quan tài vỡ một lỗ tan hoang
Nhìn vào trong tôi rún rấy bàng hoàng
Một đầu lâu với xương khô vụn vỡ
…Nấm
mộ kia một thời nào kiếp trước
Nắm xương tàn còn sót lại phôi phai (Mặc Giang, vào cửa tử tôi tìm về cõi
chết)
Lối nhìn nhận, quan niệm sâu xa thống thiết về lẽ sống như thế, biết đâu
có ai đó trong
cõi diêm phù ngộ tưởng là cái nhìn thiếu lạc quan, buồn tẻ thê lương. Sao
không
thả mộng hồn say phách tán cho chuỗi ngày hoan lạc dương gian, mà lại trầm
ngâm với nỗi buồn não nềâ cõi chết. Đâu không biết rằng, trốn chạy, phớt
lờ, không đủ nghị lực, không dám đối diện sự thật muôn đời, khiếp sợ đến
nỗi không dám nhìn, không muốn bàn, mất đi tiết khí chí dũng trong đời,
mới là bi quan. Tội nghiệp, và xót xa biết bao !!!…
Trong cái gọi là“sống và chết gảy cung đàn
bất tận” hay là “tử sinh hai nhịp vơi đầy, cung đàn sống chết còn đây vô
thường” ấy, là có cơ hội để con người tiếp xúc với triết lý trong dòng
sống chết luân lưu. Đó là tiếng chuông báo động về luân hồi. Ý thức, ý
niệm về luân hồi, là một trong những nét son về triết lí hiện sinh nổi bật
trong thơ Mặc Giang. Trình bày về triết lý này, Mặc Giang nói :
Khi dòng sinh đã bắt đầu
chuyển mạch
Thì dòng tử mở ra môït cõi
đi về
Hoặc
Khi cõi sinh hiện ra thêm
một vệt
Thì cõi tử lại trống mất
một ô
(Mặc Giang, Tôi bước đi
giữa đôi bờ sinh tử)
Ông chỉ ra, sống và chết
chẳng phải hai cõi riêng rẽ phân thù sai khác, mà tương quan
mật thiết, bất khả phân giữa hai chỉnh thể đối lập, thống nhất trong mâu
thuẫn. Nó là một vòng
tròn khép kín liên tục. Ngay khi mạch sống mới bắt đầøu hé nụ, thì mầm
chết đã kết trái trên cánh hoa tàn. Để có một chúng sanh thọ thai ở nơi
này, thì trước phải có một chúng sanh ở chỗ khác qua đời. Trong Vạn Hữu
Trường Ca, phần “ma quỷ thân thương”, Mặc Giang tả : “kìa em bé vừa sinh
ra đó, trên dương gian
bỏ xó một người. Em cười mở mắt sáng ngời, đã tan hồn phách của người trần
gian.” Em bé quỷ con mới sinh ra đó, không ai lạ, mà chính là tái sinh
thoát kiếp của một linh
hồn của kiếp người. Tác giả lại khẳng định thêm :
Sáu nẻo xuống lên là
chi nhĩ !
Bốn loài sinh tử tợ chiêm bao !
Xa xưa như mới hôm nào !
Ngày mai mờ mịt cớ sao
đón chờ ? ( Mặc Giang, Vạn hữu trường ca )
Trong mạch tử sinh luân hồi, là hình ảnh của những kiếp thác thai bất định,
hôm nay là người, nhưng mai kia là kiếp sống thay hình đổi dạng trong mạch
tương lưu giao cảm của kiếp hữu tình. Con người sau khi chết không nhất
định tái sanh trở lại làm
người, mà tái sinh xoay chuyển vào trong sáu cõi bốn loài, bởi con người
không phải là chúng sanh duy nhất. Do đó có thể kết luận, “tử là điểm
ngừng mà sinh là tinh ba xuất phát, linh tri đó ứng tùy một thân khác,
chiêu cảm cùng vạn hữu khứ lai ”, và vì khi “ đã đi thì không phải là hai,
nhưng khi đến là hai chứ không phải một, như một bản trường ca tương tục
âm thanh nhiều nốt…”. Chết chỉ là đánh dấu bước ngoặc chuyển tiếp trong
dòng sống luân lưu vô tận, còn linh tri hay linh hồn tiếp tục trong một
đời sống mới, như mặt trời tuy lặn nơi này, nhưng thực tế đang mọc ở nơi
kia. Thì ra, “giữa tử sinh có sợi dây vô hình kì diễm, như bản trường ca
sinh tử
vô cùng.”
Thế nên, chết là sự thể hiển nhiên đau thương ngàn đời hiển hiện, nhưng
chỉ là huyễn hữu như giấc mộng phù du, vì “lang thang từ kiếp luân hồi, mà
không thật có có luân hồi cưu mang, vẽ lên lối dọc đường ngang, lối dọc
biến mất lối ngang không về, tử sinh sinh tử lí hề ……” Cả nhân gian sinh
tử luân hồi thống khổ mà chỉ như một trò hề. Sau hiện tựơng sống chết ấy
là cái không từng sống chết.
Triết lý về sống chết của nhà thơ Mặc Giang, cho chúng ta hiểu rõ, hai bờ
sống chết
là trên cùng một mạch tương thông, mà ở đó đâu còn nghe tiếng gõ nhịp của
thời gian. Giá trị thời gian không thể thiết lập. Theo Mặc Giang, ý niệm
sanh và tử, chỉ
là danh từ của tương quan đối đãi, trong những giả định về thời gian.
Xuyên qua đó, nhà thơ cũng đã chỉ ra, trong hiện tại cũng có mặt xa xưa,
và trong xa xưa cũng vốn đeo bòng cái hiện tại sống động này đây, và tương
lai càng không thể thiết lập và minh định. Thông qua chuỗi luân hồi sáu
nẻo, Mặc Giang cho chỉ chúng ta nhận thức được triết lý về thời gian theo
Kim Cang Kinh , là “quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị
lai tâm bất khả đắc.” Ý thức được sự tương quan giữa ba khoảng thời gian
ấy, là cơ sở để chúng ta càng hiểu thức rõ :
Mồ hoang như ảnh ảo huyền
Thân như bèo bọt người thuyền phiêu du
Từ trong vũ trụ âm u
Em như điểm sáng thiên thu vẫn còn
(Mặc Giang, Vô tình tôi thăm Nấm mộ hoang Bé Thơ)
Em ơi ! buồn khóc mà chi, tiếc thương mà
chi ! Nấm cô mộ lạnh lùng đến tàn nhẫn ấy, nào phải hình hài đích thực của
em, nó chỉ là “ ảnh ảo huyền”. Em vẫn còn mãi giữa thuyền đời vô tận đó
nghe em, ! Tôi đã thấy rồi, em ra đi lang thang từ ngàn xưa, và cho đến cả
mai sau. Do đó nên biết, tuy là “đường sinh tử đã mòn lối cũ, nẻo
hợp tan đã phủ bao lần, bụi mờ rũ bóng phong trần” , nhưng mà em và tôi
vẫn chưa hề sống hay chết, vẫn là
“trăng sao chưa nhạt phù vân chưa nhòa.” Đây hẳn là sự
tương quan giữa cái hữu hạn và vô hạn, giữa hữu hình và vô hình, giữa vật
chất và phi vật chất. Trong sanh diệt, tồn tại cái không từng sanh diệt,
đó là chân thể bất biến, là linh tri vĩnh hằng. Sống và chết có mặt trong
nhau, là sự tương quan :
…Sông với nước chung đôi một
bóng
Nước với sông một bóng chung đôi
Trăm năm cũng chỉ
một
đời
Nghìn năm cũng chỉ một lời nước sông. ( Mặc Giang,
Vạn hữu trường ca )
Lìa sông thì đâu còn nước.
Không nước thì sao có thể thành sông. Sông nước chỉ là hai khái niệm được
thiết lập trên trục tương quan đối đãi. Thực chất là một quan hệ đẳng thức.
Trong sinh diệt có cái bất sinh diệt. Trong ra đi đã có sự hứa hẹn trở về.
Trong cõi đi về đã có sẵn ngày biệt li. Qua trình bày triết lý về dòng
sinh mệnh, Mặc Giang chỉ ra, không cần phải né tránh cái chết, và đi tìm
cầu sự sống, vì cả hai vốn có mặt trong nhau, vốn có quan hệ “sông với
nước chung đôi một bóng, nước với
sông một bóng chung đôi… sông đã có cớ chi nhớ nước, nước đã hòa một thể
cùng sông.” Hiện
tượng sóng đào bọt bèo phập phều của sông không vốn không tách rời bản
tánh bất biến của nước. Cái hạn hữu sinh diệt sinh diệt theo thời gian và
ý niệm, nào có cách biệt với cái bất sinh diệt.
Vậy nên, chớ khi sinh ra mới
bảo là có, chớ khi chết rồi mới nói là không, vì “có từ
thuở hồng hoang mờ ảo, tán từ thời tuyệt xảo lân tinh, mờ mờ ảo ảo dáng
hình, có không không có lưu linh vậy mà.” Nên nếu bảo rằng không, thì phải
không ngay lúc ra đời
. Nếu nói có thì phải ngay khi không. Ý niệm về “có- không”, không nên để
bị đánh lừa bởi thế giới hữu hình, vô hình, hay bởi kiến văn giác tri
thường thức. Mặc Giang còn chỉ rõ thêm, “sinh là lúc từ không ra có, tử là
thời từ có ra không, có không một
thể tương đồng, duyên còn ta có đến không ta về” .Vì “có không một thể
tương đồng”, nên chớ khi sanh mới nói là có, khi chết rồi mới nói là không.
Cả hai đều vần vũ có mặt trong nhau. Hiểu được vậy, cũng chính là lúc ta
huênh hoang hát lời ca
trên đồng hoang sinh tử:
Từ trong cát bụi tử sinh
Ta xin nhớ lại bóng hình của ta
Từ trong tỉnh mộng đêm qua
Ta xin nhớ lại quê nhà xưa
nay
(Mặc Giang, Ta đây, hiện hữu vô
cùng )
Do thông
suốt lẽ sinh tử, nên nơi đây, Mặc Giang đã chỉ rõ thêm, lặn hụp chơi vơi
trên
từng nhịp bước tử sinh như sự chuyển tiếp của sóng mòi, như cát bụi hư nát
phủ mờ
dòng sông, thế nhưng bản tánh chân thân chưa từng biến chuyển đổi thay. Ra
đi biền biệt trong dặm trường tử sinh, nhưng ta nào có ra đi, mà đã và
đang trở về với ngôi nhà chân thể. Thế nhưng trở về mà thật sự đâu có trở
về, vì có ra đi bao giờ đâu mà trở về. Ngôi nhà quê hương xưa ấy vốn ở
ngay trong mọi sinh linh. Từ đó, sẽ vang vọng “tiếng hát chưa tan” :
Tôi đi từ chỗ không đi,
Luân hồi không đến ngại gì có
không
Tôi đi pháp giới rỗng không,
Tôi về vạn hữu hằng còn hiện
ra
(Mặc Giang, Sắc không mỉm nụ vô cùng)
Tại đây, quan niệm về nhân sinh và vạn hữu
của thi hào Mặc Giang đã đưa chúng ta đi sâu thẳm hun hút tận cùng của lối
về tĩnh lự, để phóng cái nhìn sâu thẳm vào diệt sanh của dòng đời, vào hữu
hạn của kiếp người. Con người lù lù một đống ấy vì không thật có, nên nói
rằng sinh ra từ chỗ không sinh, mà chết đi cũng chẳng phải đi vào cõi lunh
linh ảo huyền. Đi hay về, sống hay chêát, chỉ trên cùng một mạch tương
thông lưu cảm, nào có ngại gì “có”ù với “không”. Pháp giới còn đó nhưng
lại hằng rỗng không, vạn hữu rỗng không nhưng không khi nào không hiện hữu.
Từ trong hữu thể mà thấu đạt vô thể, từ trong hữu cùng mà thấy rõ vô cùng,
nhà thơ lại dẫn chúng ta trên lộ trình đi về “nguyên sơ, còn đó bóng hình”
:
Vỡ toang, chấn động ba ngàn
Mười phương thế giới
chưa tràn chân lông
(Mặc Giang,Ta đây, hiện hữu vô
cùng )
Cả vũ trụ mênh mông, càn khôn
mười phương thế giới khôn cùng như thế, nhưng lại nhét chưa đầy một chân
lông. Theo chiều hướng tư duy thông thường, sẽ thấy thật qúa vô lý, nghịch
biện, làm cho choáng voáng, vo đầu bóp trán. Thế nhưng nhà thơ Mặc Giang
chẳng phải chỉ nói rõ sự thật muôn đời, chân lí vĩnh hằng đó sao. Ba ngàn
cõi nước và mười phương thế giới chỉ là có ở hiện tượng phù phiếm huyễn
hóa, như hoa đốm trong hư không, bởi lý thể nó là không. Nhờ “không” mà
thiên hà đại địa và con người có mặt. Lìa “không” thì ngay một vi trần
cũng không thể tựu thành. Pháp giới tuy thiên hình vạn trạng, nhưng thực
chất không thể nắm bắt và khái niệm. Do đó “mười phương thế giới chưa tràn
chân lông” chính là triết lý “sắc chẳng khác không, mà không cũng chẳng
khác sắc”. Tuy như thế, nhưng thực ra nhân sinh và thế giới quan của nhà
thơ chẳng phải dừng lại ở chỗ minh định sự không khác nhau giữa không và
sắc, mà chính đang triển khai tư tưởng biện chứng về mối quan hệ tương tức
tương nhập, mở ra một “ cõi đi về” trong vô thỉ vô chung, đó là “sắc tức
là không”, và “không cũng tức là sắc”. Đó chính là thông điệp của “pháp
huyền vi có mặt từ nhịp bước vạn đừơng… có với không thật ra chỉ một chữ,
không với có thật ra chỉ một lời” . Từ đây, nhân sinh quan của nhà thơ như
nhắn gởi cho nhân loại hiện tại này
và mai sau khúc ca chứng đạo bay vào cát bụi của kiếp người, là “đã không
thì mấy cũng vừa, có thì một điểm cũng thừa mà thôi”
Thông qua nguyên lí sắc không
ấy, nhà thơ đã mang lại cho con người cái nhìn triệt
để tận cùng huyền vi. Con người và vũ trụ vạn hữu chỉ sanh diệt còn mất
trong thế giới hiện tượng, còn bản thể thì chưa từng sanh hay diệt, đến
hay đi……. Chính nó tự tiêu dung trong những phạm trù khái niệm đối lập.
Thế giới và nhân sinh vốn tồn tại từ vô thỉ, nhưng cũng chính là vừa xuất
hiện ngay trong đương niệm. Tất cả vạn hữu trải dài trong vô tận, không
ngằn mé, nhưng cũng chỉ là nhét chưa đầy chân lông cọng tóc mà thôi. Chúng
ta thấy rõ ràng, trong quan niệm về nhân sanh vạn hữu, nhà thơ Mặc Giang
đã vo tròn đơn vị không gian và thời gian thành một khối “nhất chân”,
không tìm đâu ra, nhưng không đâu mà không có. Không đâu không có nhưng
lại là mất hút tự ngàn xưa và chưa từng lên tiếng bao giờ.
Ngay khi nói, “sắc chẳng khác không”, là
trong thâm ý Phật Tổ đã mốn nói “sắc tức là không” rồi. Không phải ngẫu
nhiên nhà thơ lại đưa ra luận thuyết về sự tương quan giữa sinh tử và
không sinh tử, giữa hiện tượng và bản thể, hay nhân sinh là vô thường biến
chuyển, luân hồi, khổ đau, không thực có. Mục đích tối hậu mà nhà thơ Mặc
Giang, chính là muốn chỉ ra cho con người, muốn thắp sáng cho cuộc đời là
nguyên lí duyên khởi của sự vật, đó là một chuỗi móc xích liên hệ vô cùng,
cái này có nên cái kia có, cái này không thì cái kia không. Vì mang tính
chất duyên khởi, nên vô ngã vô thường khổ đau và luân hồi. Vì duyên khởi
nên tánh vạn pháp là không. Tánh của vạn hữu là không là vì duyên khởi.
Nhờ sự chiếu rọi của ánh sáng duyên khởi,
con người mới hiểu rõ, sinh tử sở dĩ có mặt là do sự khơi đôïng của sơ
niệm vô minh, là sự khơi ngòi cho của tiến trình luân hồi và khổ đau. Cho
nên nói rằng, vô minh, là cái bất giác đầu tiên trong tiến trình duyên
khởi của dòng sống. Mà những gì được vận hành dưới nguyên lí duyên khởi
thì không thật. Nên vô minh không có cái ngã tồn tại biệt lập, vì vậy có
thể chuyển hóa. Chỉ khi nào chuyển hóa hay chấm dứt vô minh, mới chấm dứt
mọi tiến trình sống chết. Vậy, đưa ra cái nhìn về sự tương quan giữa bản
thể và hiện tượng của dòng sinh mạng con người, nhà thơ Mặc Giang muốn
không những chỉ có chỉ ra cho con người hiểu rõ bản chất dòng sống là
duyên sinh, không có một cái ngã độc lập, mà còn muốn nói rằng, trần gian
là hoàn toàn có thể cải tạo chuyển hóa, khổ đau có thể chuyển thành an
lạc.
Từ những gì đã đề cập khái quát sơ lược
trên, chúng ta thấy nhà thơ Mặc Giang có cái nhìn thẩm thấu, trầm thống,
sâu sắc về những giá trị vĩnh hằng và khiếm khuyết của nhân sinh. Cái nhìn
này đương nhiên đã được sàng lọc qua sự phân tích hợp lý, thực nghiệm,
kinh nghiệm sâu dày của con tim và khối óc. Con tim đã từng rung lên từng
nhịp đập yêu thương cuôïc đời, khối óc đã bao kiếp rồi thẩm thấu liễu tri
những vụn vỡ thành hoại của dòng sống. Từ đó, cho chúng ta càng thấy rõ,
nhân sinh quan của ông hơn lúc nào hết, cần được tư duy phân tích một cách
chín chắn, siêu việt những giá trị khoa học thường thức, để đi đến tiếp
nhận như không khí và hơi thở. Nếu không, thì những giá trị quý báu chân
thực về quan niệm nhân sanh sẽ đi vào hư ảo méo mó, rỗng không và tụt hậu.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/nhansinhquan_thomacgiang.htm