- NỮ GIỚI VÀ GIỚI
LUẬT PHẬT GIÁO
Trong các xã hội phụ hệ Đông
phương, vai trò của nữ giới được xem là thấp kém hơn nam giới, nhưng
định kiến như vậy không thể chấp nhận trong một xã hội văn minh. Đức
Phật là bậc đạo sư đầu tiên đã nhận ra tiềm năng của nữ giới và
tạo nhiều cơ hội cho nữ giới phát huy khả năng tâm linh và hoạt động
xã hội của họ.
Chúng ta biết rằng sau khi giác ngộ,
lúc đầu Đức Phật cũng đã miễn cưỡng ngần ngại độ người, giai
đoạn đó gọi là giai đoạn "im lặng" của ngài. Nữ giới cũng
thế lúc đầu không được gia nhập tăng đoàn, Tôn giả A-Nan và Di Mẫu
Kiều-Đàm-Di (Mahapajapati Gotami) đã tha thiết cầu xin Đức Phật. Với sự
đãm bảo của tôn giả A-Nan, Di Mẫu Kiều-Đàm-Di (Mahapajapati Gotami) đã chấp
nhận tuân thủ tám kính pháp, Đức Phật đã chấp nhận cho bà cùng
với 500 cung phi mỹ nữ gia nhập vào tăng đoàn. Tám kính pháp như sau:
- Tỳ-kheo-ni dù cho thọ đại giới 100 năm cũng phải
cung kính chấp tay, đảnh lễ và xử sự đúng pháp đối với một tân tỳ
kheo dù mới thọ giới một ngày.
- Một tỳ-kheo-ni không được an cư nơi không có tỳ
kheo tăng.
- Mỗi nửa tháng tỳ-kheo-ni cần hỏi thỉnh chúng
tỳ kheo tăng ngày đến giáo giới.
- Sau mùa an cư kiết hạ, tỳ-kheo-ni cần phải làm
lễ tự tứ trước hai bộ tăng già để cầu thỉnh chỉ lỗi nếu có thấy,
nghe và nghi.
- Tỳ-kheo-ni phạm trọng tội, nửa tháng phải
hành pháp Ma-Na-Đoả trước cả hai bộ tăng già.
- Sau khi học tập sáu giới pháp trong hai năm, vị
ni ấy phải đến trước hai bộ tăng già cầu xin thọ cụ túc giới.
- Không vì duyên cớ gì, một tỳ-kheo-ni có thể mắng
nhiếc hoặc chỉ trích một tỳ kheo tăng.
- Tỳ-kheo-ni không được phê bình tỳ kheo, nhưng tỳ
kheo tăng có quyền phê bình tỳ-kheo-ni.
Trong quy luật thiền môn của ni
chúng những pháp này được tuân thủ nghiêm nhặt. Luật Dharmagupta (bản
Hán) so sánh tám kính pháp này như nhánh cầu bắt qua sông lớn để hành
giả có thể đi đến bờ bên kia giải thoát. Nhiều kinh nói rằng tất cả
500 tỳ-kheo-ni này đều đạt được an lạc giải thoát. Đức Phật cũng
đã chế giới bổn tỳ-kheo-ni và nghi thức truyền giới tỳ-kheo-ni cho ni
chúng. Điều này cho thấy rõ rằng ni chúng được làm giới tử thọ giới
và phải trải qua hai giai đoạn: đầu tiên thọ giới trong ni bộ, rồi sau
đó qua tăng bộ.
Ni giới có nhiều trách nhiệm và bổn
phận hơn khi họ phát nguyện thọ giới Tỳ kheo ni. Họ được phép bố
tát tụng giới tỳ-kheo-ni (Bhikkhuni Patimokkha) trong đó bao gồm các giới
điều và oai nghi của ni. Trong luật tạng Pali nói có 227 giới cho tăng,
trong khi có 311 giới cho ni gồm trong 7 phần. Giới bổn tỳ-kheo-ni được kết
tập tại Sravasti.
Trong luật tạng Pali có đề cập
305 trường hợp của tăng và 59 trường hợp của ni. Như vậy tỷ lệ trường
hợp nữ giới được đề cập là 16,2% trong tổng số nam giới. Điều này
có nghĩa là Đức Phật đã mở cánh cửa đón nhận nữ giới và nữ giới
hoan hỉ gia nhập đời sống phạm hạnh, nhưng thái độ của xã hội đối
với phụ nữ dường như biến chuyển quá chậm chạp và vị trí phụ nữ
vẫn bị coi là thấp và còn giới hạn. Mặc dù vậy một số lớn ni giới
trong thời Đức Phật đã tỏ ra rất xuất sắc trong nhiều lãnh vực khác
nhau.
Có ba nguồn tư liệu chính nói về
huyền thoại và các mẫu chuyện của nữ giới là kinh Apadana (tác phẩm thứ
13 của Tạp Bộ kinh), Tăng chi bộ kinh (Anguttara-Nikaya) và Trưởng lão ni kệ
(Therigatha). Trong đó, Trưởng lão ni kệ kể lại rất rõ các công hạnh
khác nhau của nữ giới, những người đã tự nổ lực tu tập để chứng
đắc Niết-bàn. Kinh Manorathapurani (thuộc Tăng chi bộ kinh) đề cập danh sách
các bậc trưởng lão ni, sa-di-ni và các cận sự nữ thanh tịnh và đức độ.
Được phép của Đức Phật cho thành
lập giáo đoàn ni, Di Mẫu Kiều-Đàm-Di đã tạo nhiều điều kiện tu tập
cho ni giới thậm chí ngay cả nhiều phụ nữ bất hạnh, đau khổ cũng đều
được giải thoát khỏi sự ràng buộc. Chẳng hạn trong một số kinh ở Tăng
Chi Bộ và Tương Ưng Bộ, Đức Phật đã tuyên bố như vậy:
"Này các con, nếu các con có thể
xuất gia sống đời sống không nhà, các con có thể trở thành như khất
sĩ ni Khema và Uppalavanna".
Nàng Khema (Khema có nghĩa là ‘an lạc’
hoặc ‘niết-bàn’) là một cận sự nữ thuần thành và ủng hộ Phật
pháp trong thời Đức Phật Padmottara. Trong thời Đức Phật Ca-diếp, nàng
là con gái của vua Kiki xứ Varanasi, tên là Samani, sống đời sống thanh tịnh
và đã xây một tịnh xá cúng dường cho Đức Phật. Kế tiếp trong thời
Đức Phật Tỳ-Bà-Thi, nàng đã thuyết giảng chánh pháp. Trong thời Đức
Phật Kakusandha và Konagarnana, nàng đã xây dựng nhiều đại tinh xá cúng dường
cho Đức Phật và chư tăng. Trong thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nàng sanh
ra trong hoàng tộc Sagala xứ Madradesa và là hoàng hậu của vua Bình-sa-vương
(Bimbisara), nước Ma-Kiệt-Đà (Magadha). Kinh kể lại rằng nàng không bao giờ
xuất hiện ở trước Đức Phật, bởi vì nàng nghĩ rằng Như lai không bao
giờ quan tâm đến vẽ đẹp phụ nữ. Nhưng vào một ngày nọ, vua
Bình-Sa-Vương thiết trai cúng dường Đức Phật và chúng tăng và đã mời
các ca nữ đến vườn thượng uyển Trúc Lâm. Lúc đó, nàng Khema xuất hiện
trước Đức Phật. Để giáo hoá lòng kiêu ngạo của nàng, Đức Phật thị
hiện thần thông biến ra một tiên nữ tuyệt đẹp đứng cạnh hầu quạt
cho ngài. Tiên nữ đột nhiên biến hiện, đầu tiên là một phụ nữ trung
niên rồi trở thành một bà lão da nhăn, răng rụng và tóc bạc khiến cho
Khema rất đổi kinh ngạc. Lòng kiêu ngạo về vẽ đẹp yêu kiều của
mình tan biến khi nàng nghe bài kệ sau:
"Ai nô lệ cho lòng tham dục
khát ái,
Như con nhện không rời mạng nhện
do mình tạo ra.
Người trí dứt trừ khát ái, lìa
xa trần tục, thoát khỏi lo âu, để lại đằng sau mọi sầu muộn".
Lời bình trong Trưởng Lão Ni Kệ
nói thêm rằng khi Đức Phật nói kệ xong, nàng Khema liền chứng quả
Alahán. Nàng trở thành một trong các đại đệ tử xuất chúng về mặt
trí tuệ tinh thông.
Trưởng Lão Ni Kệ còn mô tả sự
giác ngộ chứng đắc của nhiều trưởng lão ni. Trong đó, các trưởng lão
ni này kể lại kinh nghiệm sống, tu tập và bộc lộ trạng thái hỉ lạc
của họ với niềm tin vào con đường giải thoát của đức Thế Tôn. Chẳng
hạn, nàng Uppalavanna trong nhiều đời là một vị ni thông thái, đức hạnh,
thường cúng dường thức ăn cho Đức Phật và nàng đã đạt được năng
lực thần thông do nỗ lực tu tập. Vào thời của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, nàng Uppalavanna sinh làm con gái của một trưởng giả ở Sravasti. Nàng
có tướng mạo xinh đẹp trong trắng như hoa sen xanh tinh khiết. Khi đến tuổi
cập kê, nhiều hoàng tử và vua chúa đã đến cầu hôn, nhưng vì lòng
chánh tín nàng muốn thế phát xuất gia. Một ngày nọ, người anh họ
Ananda đã bày mưu lừa gạt và cưỡng hiếp nàng trong rừng. Vì việc này,
từ đó nàng đã lánh xa nhà và sống một đời sống của nữ tu yên tĩnh.
Sư cô siêng tu thiền định dùng ngọn đèn làm đối tượng để thiền quán.
Sư cô đã đạt được bốn thiền (tejokasina) và Vô ngại Giải Đạo
(patisambhida), cuối cùng chứng được quả A-la-hán và trí tuệ (abhijana).
Tỳ-kheo-ni Sanghamitra là con gái của
hoàng đế A-dục cùng với anh nàng là tỳ kheo Mahendra đã giáo hoá vua
Tissa của xứ Sinhala (bây giờ là Tích lan) và sư cô Sanghamitra đã thành lập
giáo đoàn ni qua việc truyền giới cho hoàng hậu Anula và 500 cung phi mỹ nữ.
Vào thế kỷ thứ IV, công chúa Hemamala (con gái của vua Kalinga) và phò mã
Dantakumara đã mang răng xá lợi (danta-dhatu) của Đức Phật tới đảo
quốc này. Hoàng hậu Kumaradevi của vua Govindachandra, xứ Kanyakujia và
Varanasi đã trùng tu tượng Đức Phật (dharmacakrajina) và xây một đại
tinh xá rất trang nghiêm cho ni giới ở Sarnath. Điều này chứng tỏ Phật
giáo thịnh hành vào thế kỷ XI.
Giáo đoàn ni tồn tại suốt một
ngàn năm ở Tích lan và truyền thống này đã tiếp tục phát triển không
dừng, bởi vì được truyền thừa sang Trung quốc mà ngày nay chúng ta có
thể hồi sinh giáo đoàn ni ở Nam và Đông Nam Á và cuối cùng đã phục hồi
được giáo đoàn ni như một tổ chức năng động tại các nước như Tích
lan, Miến điện, Thái lan, Tây tạng, Triều Tiên, Trung quốc, Nhật Bản và
Việt nam...
Từ thời cổ đại cho đến thế kỷ
thứ XI, ni chúng đã tiếp tục tu tập và thực hành công hạnh bố thí
cúng dường, tạo tượng và xây chùa. Có nhiều tiểu sử của các bậc ni
và cận sự nữ sống đời sống thánh thiện, chói sáng thế gian với phạm
hạnh cao thượng của họ.
Chính trong thời Đức Phật Thích
Ca, chúng ta đã có nhiều thành tựu chứng đắc của các bậc ni như Di Mẫu
Kiều-Đàm-Di, Da-du-đà-la (Yasodhara), Khema, Uppalavanna, Kundalakesi, Kapilani,
Soma, Ubbiri, Rohini, Patachara, Anupama, Nandi và nhiều vị khác. Chúng ta cũng biết
trong biên niên sử Vamsa của Tích lan (Sinhala), có ghi lại sự xuất chúng
các các ni giới thời sau này như Sanghamitra, Dhammapala, Sudhamma, Malla,
Aggomitta, Uttara, Hema và nhiều phụ nữ khác. Các nữ cư sĩ ngày nay cũng đã
đóng vai trò quan trọng trong xã hội và phát triển tôn giáo. Chẳng hạn
ở Tích lan, bà Bandaranayike làm thủ tướng và con gái là bà Chandrika
Kumaratunga làm tổng thống.
Vào năm 280, giáo đoàn ni được thành
lập ở Trung quốc và Chen Chien là vị tỳ-kheo-ni đầu tiên. Năm 429, tỳ-kheo-ni
Devasara với bảy vị ni khác được vua Meghavanna phái tới Trung quốc và
giáo đoàn ni dần dần gia tăng số lượng. Trải qua nhiều thế kỷ, ni giới
Trung quốc đã tích cực đóng góp cho nền hoà bình và an sinh xã hội.
Trong lịch sử Việt nam, các tỳ-kheo-ni
như sư bà Đàm-soạn, Diệu-không, Hải-triều-Âm, Như –thanh, Huỳnh-liên…
là những bậc ni sư đại tài đóng vai trò tích cực năng động trong nhiều
lãnh vực như hoằng pháp, giáo dục, văn hoá và từ thiện xã hội… Trong
thời đại chúng ta, có nhiều nữ lãnh đạo Phật giáo trong các nước Tây
tạng, Nepal, Trung quốc, Triều Tiên, Nhật bản và Đài loan… đang tiến hành
xây dựng nhiều tu viện độ ni tu tập và trung tâm Nghiên cứu Phật giáo.
Có một sự khích lệ to lớn là nhiều phụ nữ trong các tổ chức ở
Châu Âu và Châu Mỹ đã bắt đầu thiết lập các tu viện cho ni giới. Những
vị này đóng vai trò quan trọng trong việc làm thăng bằng xã hội đang trên
đà suy đồi đạo đức mà những sự kiện này đi ngược lại lợi ích của
phụ nữ.
Vấn đề căn bản ngày nay là nam
và nữ làm thế nào thích ứng với sự phát triển trong trật tự xã hội
mới đang bị chi phối bởi sự lãnh đạm, bạo lực và bất an. Các ý tưởng
khoa học văn minh hiện đại đã khuyến khích tư duy phân tích, nhưng rủi
thay sự tự do phóng khoáng của xã hội mới cũng có thể là kết quả
đưa đến làm suy đồi giá trị đạo đức. Hậu quả là có một nhu cầu
bức thiết để tạo dựng cơ cấu xã hội hỗ trợ cho đời sống tinh thần,
chống đói nghèo, bảo vệ nhân quyền, đề cao giá trị đạo đức và phục
hồi các truyền thống văn hoá… Tất cả những điều này hiện nay chỉ
tạm thời cân đối thôi.
Vấn đề to lớn nhất hiện nay là
làm thế nào chuyển giao những giá trị tích cực cho thế hệ tương lai.
Để hoàn thành công việc này, điều thích hợp nhất là hiện thực hoá
quan niệm nam nữ bình quyền. Toàn thể nhân loại, nam và nữ đều có
trong chính mình tư chất cả nam lẫn nữ. Đức Phật đã không phân biệt
năng lực trí tuệ và tâm linh giữa nam và nữ. Mặc dù thái độ của Phật
giáo đối với phụ nữ đôi khi dường như mâu thuẫn hoặc thậm chí
tiêu cực, thái độ này đã thay đổi và dễ dàng thấy rằng ảnh hưởng
tích cực của phụ nữ đã hiện diện trong giới Phật giáo ngày nay, cụ
thể như năng lực của phụ nữ từ khắp mọi miền của trên 30 nước trên
thế giới đã tập trung ở đây, hiện diện ở đây trong Hội nghị Phụ
Nữ Phật giáo Thế giới Sakyadhita lần thứ VIII tại Đại hàn là một bằng
chứng rõ rệt.
Đó là nội dung bài tham luận của
tôi.
Kam-sa-ham-nida (Tiếng Đại hàn
nghĩa là cám ơn)
Song-bul-ha-ship-si-o (Nguyện cho
tất cả chúng ta đều thành Phật).