- ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI
VỚI PHÁP LUẬT TRIỀU LÝ
-
- PHÁP LUẬT TRIỀU LÝ
- ( 1010 - 1225 )
Cách đây 10 thế kỷ, nước
ta dưới đời nhà Lý, về phương diện chính trị, đã giữ vững nền độc
lập. Bắc chống Tống, Nam bình Chiêm. Trong thời gian làm vua hơn 200 năm
(1010 - 1225), ngoài những chiến công rực rỡ ấy, nhà Lý đã hoàn toàn tổ
chức lại nội bộ. Lý Thái Tổ, năm 1010 đã thiên đô từ Hoa Lư ra La Thành
và đổi tên gọi La Thành là Thăng Long (Hà Nội bây giờ) kể từ đó. Năm
1054, triều Lý đặt quốc hiệu mới cho nước ta là Đại Việt (Năm 1164,
nhà Tống phải công nhận nước ta là một quốc gia riêng. Từ đấy, Trung
Quốc gọi nước ta là An Nam quốc).
Từ đời Lý trở đi, cơ sở chính
trị đã ổn cố, vững vàng và nhà Lý đã đường hoàng thiết lập các
triều nghi điển chế luật pháp.
Tuy nhiên, nếu về phương diện công
pháp, vấn đề nghiên cứu nền cai trị nội bộ ngày nay tương đối dễ
dàng (vì còn nhiều tài liệu) thì trái lại, sự nghiên cứu về nền tư
pháp triều Lý gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt, nếu không "trì
chí" thì khó mà vượt qua được.
Theo sử, vua Lý Thái Tông, năm Minh
Đạo Nguyên Niên (1042), có ban bố một bộ Hình Thư. Song khốn thay, sách
ấy ngày nay không còn nữa ! Theo bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của
Phan Huy Chú (Văn Tịch Chí) thì trong thời kỳ nhà Minh đô hộ nước ta vào
đầu thế kỷ thứ 15 (1407 - 1427), họ đã dã tâm tịch thu các sách vở của
ta đem về Kim Lăng, mục đích làm tiêu ma nền văn hoá cổ truyền của
dân Việt và do đó mưu giữ vững nền thống trị của họ bằng hai lợi
khí cực kỳ thâm độc, đó là : Chính sách ngu dân và đồng hoá. Ta
hãy nghe một đoạn trong chỉ dụ của vua Minh Thành Tổ gửi Trương Phụ
ngày 21 - 8 - 1406 :"Một khi binh lính đã vào nước Nam...thì hết thảy
mọi sách vở văn tự, cho đến các loại ca lý dân gian, các sách dạy trẻ
nhỏ...một mảnh, một chữ phải đốt hết. Khắp trong nước, các bia do
An Nam dựng thì phải phá huỷ tất cả, một chữ chớ để sót lại".
Chưa đủ. Chín tháng sau đó, một
lần nữa, Minh Thành Tổ lại gửi chỉ dụ thúc giục :"Nhiều lần
đã bảo các ngươi rằng phàm An Nam có sách vở văn tự gì, kể cả các
câu ca lý dân gian, các sách dạy trẻ và tất cả các bia mà xứ ấy dựng
lên, thì dù một mảnh, một chữ, hễ trông thấy là phá huỷ ngay lập tức,
chớ để sót lại" (Theo Minh Sử). Cũng theo Minh Sử thì, trong những
năm này, chỉ một viên quan hạng bét như Lưu Hiểu cũng đã lấy được
93 chiếc trống đồng đem về Tàu !
Trong số các sách vở đã bị tiêu
huỷ, bị tịch thu như vậy, có quyển Hình Thư nói trên. Như vậy, ta đã
mất một tài liệu quí báu nhất, để nghiên cứu rành rọt, chính xác về
nền pháp luật triều Lý.
Tuy, quyển Hình Thư của Lý Thái
Tông ngày nay đã thất lạc, song không phải vì vậy là mất hết hy vọng
nghiên cứu luật pháp triều Lý.
Ta có thể căn cứ vào các điều
đã ghi chép trong Sử và trong những sách khác để có được một ý niệm
tổng quát nhưng cũng không đến nỗi quá sơ lược về thời đại ấy.
Như ta đã biết, nhưng nếu nhắc lại
cũng không đến nỗi quá thừa, khi hiểu được rằng : Luật pháp của mỗi
quốc gia phải phản chiếu trung thực (nếu không tuyệt đối trung thực) tất
cả các điều kiện xã hội (hiểu theo nghĩa rộng), có nghĩa là các điều
kiện chính trị, kinh tế, văn hoá..., cũng như các nguyện vọng của người
dân sống trong những điều kiện nói trên. Vì phải phản ảnh hoàn cảnh
của xã hội cũng như ý nguyện của nhân dân, nên nền pháp luật của bất
luận ở quốc gia nào cũng biến chuyển cùng với thời gian. Như vậy, nền
luật pháp của ta dưới thời nhà Lý đã có những sắc thái nào ? Có
phát huy được tinh thần cố hữu và bản sắc của dân tộc hay không ? Đó
là đối tượng và tinh thần nghiên cứu của môn cổ luật, trong đó có :
Luật pháp triều Lý.
(Cho dù đến như Đức Khổng Phu tử
khi muốn xem lại cái lễ chế nhà Hạ, nhà Ân, còn phải than rằng những
thứ còn lại ở nước Kỷ, nước Tống là không đủ để khảo cứu...:
Ta hồ ngô thánh nhân dục quan Hạ, Ân chi đạo, nhi thán Kỷ, Tống nhi bất
túc trủng...). Huống hồ là chúng ta ngày nay, thì cũng đành "hoan hỉ"
với những gì mình đang còn và đang có trong tay vậy. Và, ta hãy bắt đầu
bằng cách căn cứ vào các bộ Sử, như : Bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại
Chí (quyển 33) của Phan Huy Chú. Sau đó đem đối chiếu sách ấy với các
điều đã được ghi chép trong các bộ khác, như Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cương Mục, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư do Lê Văn Hưu soạn dưới đời
Trần (không cách thời Lý quá 3 thế kỷ) và sau lại được Ngô Sĩ Liên dưới
đời Lê hiệu bổ. Gần đây, còn có thêm sách Lý Thường Kiệt của Hoàng
Xuân Hãn cũng giúp ích nhiều chi tiết liên quan đến các hoạt động của
dân tộc ta thời Lý, về phương diện tôn giáo (nhất là về Phật
giáo).
Nhờ vào các tài liệu tản mác
trong sử cũ, ngày nay ta cũng có thể có một quan điểm tổng hợp về
tinh thần đặc sắc của luật pháp triều Lý; phản chiếu rõ rệt cá
tính độc lập truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hơn nữa, những tài
liệu ấy còn chứng minh rằng trên lập trường thực tế, dân ta tuy bị
vùi lấp trong chính sách ngu dân non một ngàn năm (Một ngàn năm nô lệ giặc
Tàu), song, chỉ cần một thời gian độc lập không đầy một trăm năm
cũng tiến đến một trình độ pháp lý hết sức rực rỡ, khả quan. Như
thế, lịch sử đã hùng hồn minh chứng là, dân tộc Việt Nam có đủ những
khả năng tiến triển về phương diện tinh thần, trí tuệ, nếu không hơn
hẳn, thì, cũng không thua kém bất cứ một dân tộc nào trên thế giới
này.
TINH THẦN ĐẶC SẮC CỦA PHÁP LUẬT
TRIỀU LÝ
Như ta đã biết, nền pháp luật
triều Lý không phải chỉ gồm vỏn vẹn có bộ Hình Thư của Lý Thái Tôn
mà thôi. Các triều vua sau, cũng có ban hành một số điều luật hiện còn
ghi chép trong Sử. Một đôi khi, những điều luật còn được phân tích
rành mạch và giúp ích nhiều cho sự nghiên cứu.
Ngoài ra, luật pháp triều Lý cũng
không thể nào không chịu ảnh hưởng của luật Tàu, nhất là bộ luật
nhà Đường (Đường Luật Sớ Nghị). Đến triều Lý, ảnh hưởng của bộ
luật này vẫn còn.
Chứng cứ đầu tiên là, đến những
500 năm sau, ảnh hưởng ấy vẫn chưa phai lạt, đó là : một phần lớn của
bộ Quốc Triều Hình Luật của nhà Lê soạn ra về cuối thế kỷ thứ 15
vẫn còn phản chiếu một phần nào các điều khoản của luật nhà Đường.
Ngay trong các điều khoản luật pháp
triều Lý (được ghi lại trong Sử) ta cũng nhận thấy ảnh hưởng này.
Trong luật nhà Lý chép rằng :"Các người già cả hay trẻ con niên
thiếu, phạm tội thì được xử nhẹ". Trường hợp giảm khinh này vốn
mượn trong luật nhà Đường. Các bộ luật Hồng Đức (nhà Lê) và Gia
Long (nhà Nguyễn) sau này cũng có quy định tương tự như vậy.
Một chứng cớ thứ hai là, theo Sử,
bộ luật nhà Lý rất khoan hồng và cho phạm nhân được chuộc tội bằng
tiền (trừ khi phạm vào tội Thập ác). Đây cũng là một điều khoản mượn
ở luật nhà Đường (quyển 1, điều 14). Điều đáng nhớ là điều khoản
về tội Thập ác này, các bộ luật Hồng Đức và Hoàng Việt Luật Lệ
sau này cũng vẫn giữ.
Nếu muốn biết rõ, thì trong luật
nhà Đường, tội Thập ác gồm các trường hợp như sau :
- Mưu phản = lật đổ nền cai trị của vua.
- Mưu đại nghịch = phá đền đài, lăng tẩm nhà
vua.
- Mưu bạn = phục vụ nước địch.
- Ác nghịch = mưu giết hay đánh ông bà, cha mẹ,
tôn thuộc.
- Bất đạo = vô cớ giết ba (3) người cùng nhà.
- Đại bất kính = lấy trộm các đồ tế trong
lăng tẩm, làm giả ấn vua.
- Bất hiếu = cáo giác hay chưởi rủa ông bà, bố
mẹ hay ông bà, bố mẹ chồng. Không phụng dưỡng bố mẹ, tự ý bỏ nhà
phân chia tài sản, cưới xin khi có tang cha mẹ, vui chơi trang sức trong khi
tang chế, được tin bố mẹ, ông bà chết không chịu tang hoặc phát tang
giả dối.
- Bất mục = mưu giết hay bán các thân thuộc (cho
đến ngũ đại), đánh hoặc cáo giác chồng hay các tôn thuộc (cho đến
tam đại).
- Bất nghĩa = giết quan lại sở tại, hoặc thầy
dạy, không để tang chồng, ăn chơi và tái giá.
- Nội loạn = tức là tội loạn luân (thông dâm với
thân thuộc hay với các thiếp của bố hay của ông).
Cũng cần nói rõ thêm, tội Thập
ác ở Trung Hoa đặt ra dưới đời nhà Tề (479-502) và đến đời nhà Tuỳ
thì được bổ cứu. Song phải đến đời nhà Đường, tội Thập ác này
mới được quy định rõ ràng lần đầu tiên trong bộ luật Hình. Như thế,
đây là một chứng cớ minh xác rằng luật triều Lý còn chịu ảnh hưởng
của luật nhà Đường.
Tuy nhiên, ta cần nhấn mạnh rằng,
ảnh hưởng của luật nhà Đường đối với luật pháp triều Lý không
có nghĩa là một sự bắt chước triệt để (như trường hợp bộ luật
Gia Long đối với bộ luật nhà Thanh).
Một chứng cớ cụ thể là : Bộ
luật nhà Đường về hình thức gồm có 12 thiên. Trái lại, luật nhà Lý
(theo sách Đại Việt Thông Sử (Nghê Văn Chí) của Lê Quý Đôn và sách Lịch
Triều Hiến Chương Loại Chí) thì chia ra làm ba quyển. Lẽ tự nhiên, sự
dị biệt trong cách bố cục phải đi đôi với một sự thay đổi quan trọng
về nội dung. Qua các tài liệu rất hiếm hoi mà ngày nay ta còn tìm được,
tỏ rõ tinh thần đặc sắc của nền pháp luật triều Lý đã phát huy mạnh
mẽ, dã biểu lộ một trạng thái tân kỳ của dân Việt thời ấy, với một
nền độc lập mới được phục hồi. Ơí một thời đại mà nền văn hoá
Trung Hoa đang thịnh vượng đến cực độ khiến các nước trong khắp cõi
Viễn đông coi như một văn hoá khuôn mẫu, mà nền pháp luật của triều
Lý vẫn giữ được cá tính đặc thù riêng biệt đó, thực là một sự
kiện vinh dự hiếm có, đáng tự hào, cần được xiển dương, đề cao để
tỏ rõ tinh thần tự chủ của dân ta (vốn đã sẵn có) tự ngàn xưa :
"Quê hương ấy còn vang lời
ước thệ
Ai ngàn xưa non bể hẹn hò
nhau".
Đất nước và con người đã kết
hợp thật hài hoà qua một cuộc "hẹn hò" thật tuyệt diệu ấy.
Ngày nay nếu muốn thấy, ta có thể tìm trong các pháp luật của triều
Lý, về hai phương diện :
- Pháp luật triều Lý chịu ảnh hưởng của Đạo
Phật.
- Pháp luật triều Lý thích ứng với nhu cầu xã hội
Việt Nam.
ẢNH HƯỞNG ĐẠO PHẬT
Ơí Trung Quốc, như ta đã biết, về
phương diện pháp luật, một tranh luận đã diễn ra rất sôi nổi trên
lập trường lý thuyết giữa hai phái Nhân trị và Pháp trị chủ nghĩa.
- Quan niệm Nhân trị tin tưởng ở lòng thiện
thiên nhiên của nhân loại, nhà cầm quyền chỉ tài bồi cái tính thiện
ấy, săn sóc vấn đề tu dưỡng nhân cách thì mọi sự khó khăn trong xã hội
sẽ tiêu tan. Trọng ở Lễ khiến mọi người tu thân theo kịp đức độ của
người quân tử, chính sách Nhân trị sẽ coi luật pháp là thừa. Từ chổ
tu thân đến các vấn đề tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, chỉ có một
tiêu chuẩn và một phương pháp duy nhất là dùng Lễ và Nhạc.
- Trái với quan niệm Nhân trị, chính sách Pháp trị
rất bi quan về điểm tin tưởng ở bản tính toàn thiện của con người.
Để giữ trật tự trong xã hội, cùng thúc buộc các xu hướng vị kỷ và
hỗn độn của cá nhân, nhà cầm quyền phải dùng đến pháp luật. Luật
pháp càng đâỳ đủ, càng nghiêm khắc và công minh, lòng người càng sợ
hãi và không dám làm điều càn rỡ. Hạnh phúc của xã hội loài người
không phải căn cứ ở Lễ, mà căn cứ ở Luật.
? nước ta, trong hai quan niệm Nhân
trị và Pháp trị, quan niệm nào đã làm giềng mối cho luật pháp nhà Lý
?
Phần đông các nhà khảo cứu, mãi
phân tích cuộc tranh luận gay go và đầy hứng thú giữa hai thuyết trên,
đã quên rằng ngay từ đời Lý cách đây cả ngàn năm, nước ta đã phát
huy được một nền pháp luật có một tinh thần tự chủ đặc sắc. Không
hẳn là Nhân trị mà cũng không phải là Pháp trị.
Luật pháp triều Lý đã chọn được
một phương pháp chiết trung nhờ ảnh hưởng của Đạo Phật.
- NGUYÊN NHÂN PHÁT TRIỂN ĐẠO PHẬT.
Khái quát, có hai nguyên nhân :
- Yếu tố thứ nhất là chính sách ngu dân của người
Tàu áp dụng tại nước ta một cách triệt để trong 10 thế ky íđô hộ.
Vì thế đến triều Lý, Nho học (của Tàu) vẫn còn ở thơì kỳ rất
phôi thai mãi đến đời Lý Nhân Tông, năm Ất mão (1075) mới có kỳ thi
Tam trường tuyển người văn học ra làm quan.
Kỳ thi đầu, chọn được hơn 10
người, thủ khoa là Lê Văn Thịnh.
Xem như vậy, quan niệm của Nho giáo
như Nhân trị và Pháp trị chưa thể có ảnh hưởng gì rõ rệt và mạnh mẽ
đối với pháp luật triều Lý được.
Sau này, vào đời Trần-Lê có sự
phát triển của Nho học trên đất Việt, là một sự kiện hoàn toàn do
ở ý chí của dân Việt, chứ không phải là kết quả trực tiếp của nền
Bắc thuộc.
- Yếu tố thứ hai là Đạo Phật đã được truyền
bá sang Việt Nam từ lâu, trước cả ở Trung Quốc.
Sách Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục
(viết dưới đời nhà Trần), đã ghi chép một câu chuyện giữa Thái hậu
Linh Nhân (tức Ỷ Lan, vợ vua Lý Thánh Tông, mẹ vua Lý Nhân Tông) với một
vị sư uyên bác là Tri Không :
- Ngày rằm tháng hai năm Hội phong thứ 5 (1096), Thái
hậu đặt tiệc chay ở chùa Khai Quốc, thết các Tăng và đàm luận về Đạo
Phật với các vị sư già học rộng. Về nguyên lý của Đạo Phật , sư
Tri Không trong cuộc luận đàm này đã cho ta biết là sự truyền bá không
phải do Trung Quốc mà do Ấn Độ trực tiếp truyền sang nước ta.
Để chứng minh lời nói trên, sư
Tri Không đã viện lời của Pháp sư Đàm Thiện : Vua Tề Văn Đế (479-483)
vốn dĩ mộ Đạo Phật , đã cho xây dựng chùa chiền khắp trong nước Tề
và ngỏ ý với sư Đàm Thiện muốn đem Đạo Phật sang truyền bá ở Giao
Châu :"Xứ Giao Châu tuy nội thuộc nhưng chỉ là một xứ giàng buộc
mà thôi. Vậy ta chọn các Sa môn có danh đức sang đó để giảng hoá, may
dân chúng sẽ được pháp Bồ đề chăng ?". Nhân dịp ấy, Pháp sư
Đàm Thiện đã ngỏ cho vua Tề biết là Giao Châu đã được giáo hoá từ
lâu, trước cả vùng Sơn Đông (tức là nước Tề) nữa :"Giao Châu
vốn tiện đường thông với Thiên Trúc (Ấn Độ) cho nên khi Đạo Phật
chưa tới Giang Đông (tức là nước Tề) thì ở Luy Lâu (trị sở quận
Giao Chỉ, ay thuộc địa phận làng Lũng Khê, phủ Thuận Thành, Bắc Ninh)
đã có xây hơn 20 ngôi chùa, chọn 500 vị Tăng và đã dịch 15 bộ Kinh rồi,
thế là xứ ấy theo Đạo Phật trước ta". Vì đó, mà người ta cho rằng
Giáo Châu đã theo Đạo Phật trước Tề. Trong số các vị sư tới Giao Châu
hồi ấy có Ma-la-kê-vực (tên Phạn là Marajivaka), Khương Tăng Hội,
Chi-cương-lưu-chi (tên Phạn là Kataruci) và Mâu Bác: Những vị sư này đều
là những nhân vật có thật trong sử.
- Mâu Bác, nguyên người Thương Ngô,
sang Giao Châu ở với mẹ năm 189. Thời ấy, Sĩ Nhiếp coi quận Giao Châu.
Bên Tàu có loạn, nên nhiều người có học đã tản cư sang Giao Châu để
tìm an ninh. Trong số những người tị nạn có Mâu Bác, trước theo học Đạo
Giáo, nhưng vào khoảng năm 194-195, nghĩa là sau khi sang Giao Châu độ 5, 6
năm, lại theo Đạo Phật . Đó là chứng cớ Đạo Phật đã được truyền
sang Việt Nam từ trước.
- Ma-la-kê-vực, Khương Tăng Hội, Chi-cương-lưu-chi
đều là người Ấn Độ hay Tây Vực (xứ Sogdịane) ở phía bắc Ấn Độ.
Các vị sư này, sau khi ở Giao Châu lâu, có sang Trung Quốc giảng đạo. Chính
sư Đàm Thiện cũng là người Indo-Scythe (Trung Hoa dịch là Nhục Chi) ở
phía bắc Ấn Độ. Sở dĩ am hiểu tình hình Giao Châu, chắc cũng vì đã lưu
trú ít lâu bên ta, trước khi qua bên Tàu. Một điều lý thú là, một trong
những người được sư Khương Tăng Hội truyền đạo (qui y) cho, đó là
Ngô Tôn Quyền. Có nhiều khả năng là từ Luy Lâu (Việt Nam hồi ấy) Phật
giáo đã truyền sang Bành Thành (thời Chiến quốc đã là kinh đô của Sở
Hoài Vương, nay là Từ Châu, thuộc Giang Tô), rồi từ Bành Thành truyền đến
Lạc Dương (là kinh đô của nhà Đông Hán), nay thuộc Hà Nam (Trung Quốc) từ
đầu công nguyên. Xem như vậy, từ lâu, Đạo Phật đã có những cội rễ
rất sâu xa tại Việt Nam, và, mỗi ngày một thêm bành trướng...
Trong khi chính sách ngu dân của Tàu
làm tê liệt các khả năng tinh thần của dân Việt, thì, riêng các nhà sư
đã họp thành giai cấp trí thức trong nước...Vì vậy, mà qua các triều
Đinh, Lê, Lý, đã bao nhiêu lần các nhà sư đã giữ một vai trò quan trọng
trong các cuộc giao thiệp với sứ Tàu.
Dưới triều Lý, có thể nói Phật
giáo đã chiếm hẳn địa vị độc tôn (quốc giáo) trong xã hội Việt
Nam.
Do thâm nhập một cách hoà bình, trọng
đức hiếu sinh, chẳng những đối với con người mà cả với muôn loài
muôn vật, đến tận đất trời, mây nước, cây cỏ, thiên nhiên nữa.
Chính tinh thần từ bi (cứu khổ cho vui) ấy đã thâm nhiễm và phổ biến
bàng bạc khắp nơi nơi trong từng hơi thở -ngay từ thời Bắc thuộc- Chỉ
nội một việc vua nhà Tiền Lý (Sử cũ còn gọi là Hậu Lý Nam Đế) có
tên là Lý Phật Tử (555-602) cũng cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo
trong thời kỳ này như thế nào.
- ẢNH HƯỞNG ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT
Nhớ lại, năm Kỷ dậu (1009)
sau khi Ngoạ triều Lê Long Đỉnh mất, đại diện cho giới quan lại là Đào
Cam Mộc và đại diện cho giới trí thức là Thiền sư Vạn Hạnh đã cùng
nhau hợp lực tôn phù Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ (chức quan đứng
đầu ngành võ, tương đương với chức Tổng Tham mưu trưởng quân đội
ngày nay) là Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng Đế. Tháng 10 năm đó, người con
hoang được nhà sư Lý Khánh Vân nhận làm con nuôi lúc mới lên ba tại một
ngôi chùa ở Bắc Ninh, đã lên ngôi Cữu ngũ, mở đầu một triều đại lớn,
rực rỡ, huy hoàng nhất trong lịch sử dân tộc, đã để lại dấu ấn sâu
sắc nhất trên nhiều lĩnh vực khác nhau - cố nhiên trong đó bao gồm cả
pháp luật - mà sau này, về văn hoá (nói chung), triều Lý được các nhà
nghiên cứu ghép chung với triều Trần và lấy tên chung : Văn Hoá Lý -Trần,
để nói lên thời đại vàng son trong sử sách, kéo dài từ thế kỷ thứ
X đến hết thế kỷ thứ XV. 500 năm đó đã là niềm kiêu hãnh, tự hào,
đã là nguồn cảm hứng bất tuyệt của nhân dân ta, được soi sáng bởi
trí tuệ nhà Phật : Đạo đã vào Đời; con người đã có một phần an
vui, một chút hạnh phúc... Chẳng những Lý Thái Tổ mà các vua chúa, Thái
hậu, Vương công đại thần thảy đều rất sùng mộ Đạo Phật và tôn
quý các sư Tăng. Sử chép rất kỹ các công việc liên quan đến Đạo Phật
đã được thực hiện dưới các triều vua đời nhà Lý (Trong sách Lý Thường
Kiệt, trang 423-430, của cố Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, có liệt kê các công
việc này thành một bản rất tường tận, từ đời Lý Thái Tổ đến Lý
Huệ Tông (1010-1225).
Trạng nguyên Lê Quát, nhà Nho, học
trò của Chu Văn An, trong bia chùa Thiên Phúc (dựng đời Trần) đã phải mặc
nhiên công nhận rằng :"Làng xóm nào cũng có chùa mà không đâu thấy
thờ Đức Khổng Thánh" (Hoàng Xuân Hãn- Sách Lý Thường Kiệt,
trang 402). Không biết nhà Nho Trạng nguyên (Lê Quát) có "lấy làm khó
chịu" lắm không khi ông nói (nguyên văn) :"Phật chỉ lấy điều
hoạ phúc mà động lòng người, sao mà sâu xa và bền chắc đến như vậy
? Trên từ Vương công dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc
Phật, thì hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để
làm chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ, như trong tay đã cầm được cái
biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên, trong từ
kinh thành, ngoài đến châu phủ, đường cùng ngõ hẻm, chẳng khiến đã
theo, chẳng thề mà tin, hễ chỗ nào có nhà ở thì có chùa Phật, bỏ đi
thì làm lại, hư đi thì sửa lại...".
Rất nhiều chùa tháp có qui mô to lớn,
có kiến trúc độc đáo đã được xây dựng trong thời gian này, như : Chùa
Phật Tích, chùa Dạm (chùa Đại Lãm), chùa Diên Hựu (chùa Một Cột),
chùa Phổ Minh, chùa Quỳnh Lâm, chùa Hương Lãng, chùa Linh Xứng, chùa Bối
Khê, chùa Thái Lạc, hệ thống chùa Yên Tử, tháp Bình Sơn, v.v.... chỉ nói
riêng về chùa Phật Tích, còn có tên là Vạn Phúc Tự ở xã Phật Tích,
huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh), được xây dựng vào năm 1057. Theo bia Vạn Phúc
Đại Thiền tự bi, thì, chùa có 100 toà. Trên đỉnh núi mở ra một toà
nhà đá, trong điện tự nhiên sáng như ngọc lưu ly, điện ấy đã rộng lại
to, sáng sủa lại kín. Trên thềm bậc đằng trước có bày 10 con thú đá
(đến nay vẫn còn), phía sau có ao rộng, gác cao vẽ chim phượng và sao Ngưu,
sao Đẩu sáng lấp lánh, đầu rồng và tay rồng với tới trời cao. Trong
khuôn viên chùa dựng cây tháp cao ngàn trượng, trong tháp có pho tượng Phật
mình vàng cao 6 thước = 2,5m (tượng Đức A-Di-Đà).
Kể thêm một chùa nữa : Chùa Dạm
(ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) do Nguyên phi Ỷ Lan chủ trì
xây dựng năm 1086. Chùa lớn đến mức, riêng việc đóng cửa hàng ngày phải
cần đến 72 người, dân gian mới có câu :"Mười tám đóng cửa chùa
Dạm", để thay thế cho câu "Mười ám rám đống trấu". Vua Trần
Nhân Tông (tức Trúc Lâm Tam Tổ, Hương Vân Đại Đầu Đà) trong bài Đại
Lãm Thần Quang Tự, đã ca ngợi ngôi chùa bằng những câu :
"Thập nhị lâu đài khai hoa lục
Tam thiên thế giới nhập thị mầu".
(Tạm dịch là : Mười hai lâu đài
mở ra như bức hoạ. Ba nghìn thế giới thu vào tầm mắt rộng muôn
trùng).
(Đến nay, còn lại dấu tích khu nền
chùa rộng 8000 mét vuông, bậc cấp chính dẫn lên chùa rộng 16 mét, dài
120 mét).
Khâm phục những thành tựu văn hoá
Việt Nam thời Lý-Trần, sách vở Trung Hoa đời Minh truyền tụng nhiều về
bốn công trình nghệ thuật lớn, mà họ gọi là An Nam Tứ Đại Khí, gồm
:
- Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm.
- Tháp Báo Thiên.
- Chuông Quy Điền.
- Vạc Phổ Minh.
Ngoài ra, nhiều đền cũng được xây
dựng dưới triều Lý, mà nay vẫn còn di tích ở ngoài Bắc như : Đền Trấn
Vũ, tục gọi là đền Quan Thánh (1100), đền Hai Bà (1160), v.v...
Tiếc không thể kể hết mọi chi
tiết ! Nhưng đáng tiếc hơn cả, là tuyệt đại bộ phận các thành tựu
văn hoá Lý-Trần, đều đã bị quân Minh tàn phá hết sức dã man, thì, một
điều "nghịch lý" là trước đó, sách vở Trung Hoa lại viết khá
nhiều về Phật giáo Giao Châu, nhiều sĩ phu Trung Hoa đã đến thăm thú
chùa chiền Việt Nam, đã có nhiều thi văn ca ngợi các nhà sư ở đây.
Các vua Đường đã từng nhiều lần mời các Cao Tăng An Nam sang kinh đô
Trung Hoa thuyết pháp, giảng kinh và cũng tại đây, họ được các văn hào
thi sĩ Trung Hoa hết sức mến mộ và làm nhiều thơ tặng...
Một điều cũng hơi "nghịch lý"
nữa là, trong nước ta, tuy sau này nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc
giáo - Phật giáo dần dần suy thoái - thì, tuy trog phần nói có phần
"cay" một chút, nhưng Nho thần Lê Quát, quan trạng nhà Lê, lại phản
ảnh một cách rất trung thực, chính xác (nếu không nói là hoàn toàn
chính xác, chả thế thì làm sao mà ngài đỗ Trạng được !) rằng : Hầu
hết dân ta thời Lý-Trần đã theo Phật và Đạo Phật thân thiết đến nỗi
dường như một người Việt Nam nếu không theo một tôn giáo nào khác thì
ắt là theo Phật, hoặc ít ra là có cảm tình với Đạo Phật.
Cũng lẽ tất nhiên, trong bầu
không khí thấm nhiễm sâu xa giáo lý Từ Bi của Đạo Phật như vậy, thì
nền pháp luật tránh sao không chịu ảnh hưởng ấy ???
- Sách Lịch Triều Hiến Chương của
Phan Huy Chú (trong quyển 33) đã chép rõ, nói rõ nguyên nhân thúc dục vua
Lý Thái Tông ban hành quyển Hình Thư năm 1042.
- Trước các cuộc cải cách quan trọng
ở trong nước, các việc án tăng gấp bội, vì vậy các quan xử kiện, áp
dụng luật một cách quá nghiêm, nhiều khi đã trở nên bất công và hà khắc.
Tình trạng đã khiến vua Lý Thái
Tông phải động lòng trắc ẩn và ra lịnh cho viên Trung Thư san định luật
Hình (các luật lệ hiện hành được xét lại và chọn lọc, xếp thành loại
và biên soạn thành một bộ luật để tiện việc tra cứu...).
Lý Thái Tông là một vị vua chịu
ảnh hưởng sâu xa của Đạo Phật nên rất giàu từ tâm. Vua làm Luật là
vì...thương dân. Chẳng những với dân mà ngay với kẻ địch như Nùng
Trí Cao, sau khi y bị bắt, vua cũng đã tỏ độ lượng khoan hồng, không bắt
tội chết.
Tấm lòng Từ Bi ấy ta đã thấy
rõ rệt qua lệnh vua truyền san định Bộ Hình Thư. Lẽ tất nhiên các điều
khoản trong luật Đường, nếu có được dùng kiểu mẫu làm cho bộ Hình
Thư triều Lý; thì những hình phạt ấy cũng được thay đổi rất nhiều.
Trên đây ta đã có dịp nhấn mạnh
là theo Sử, Luật nhà Lý có cho phạm nhân được chuộc tội bằng tiền,
trừ những tội Thập ác.
Tinh thần Từ Bi ấy và ảnh hưởng
của Đạo Phật, ta cũng sẽ còn nhận thấy dưới các triều vua khác.
Mùa đông, năm 1055, trời giá rét,
Lý Thánh Tông nói với các quan rằng:"Ta ở trong cung kín, sưởi lò
than, khoát áo bông mà còn rét như thế này. Ta nghĩ đến tù nhân bị nhốt
trong ngục thất chịu trói buộc khổ sở, mà chưa biết phải trái ra sao.
Ăn không no bụng, áo không đủ che thân, vì rét mà bao nhiêu người chết,
không nơi nương tựa. Ta thật lấy làm thương". Rồi vua sai phát chăn
chiếu cho tù nhân và cấp cho mỗi ngày hai bữa cơm. (Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư).
Lại nữa, mùa hạ, năm Chương Thánh
Gia Khánh thứ 6 (1064), vua Lý Thánh Tông ngồi xử kiện ở điện Thiên
Khánh, có công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh. Vua chỉ công chúa
nói với các quan coi việc kiện tụng :"Lòng ta yêu dân như ruột thịt
chẳng khác gì con đẻ. Vì dân không hiểu luật nên mắc tội, ta rất xót
xa. Vậy từ rày về sau ta muốn rằng các tội dù nặng dù nhẹ cũng được
xử một cách khoan hồng".
Có lẽ vì chịu ảnh hưởng Phật
giáo sâu xa như vậy, cho nên đối với vua Chàm là Chế Củ, sau khi thân
chinh bắt được, vua Thánh Tông cũng tha cho tôị chết.
Ubisocietas ibi jus : Ở đâu có xã
hội thì ở đó có luật pháp. Đó là lẽ tất nhiên, là chuyện đã đành
rằng thế. Nhưng, trên lập trường pháp lý, thì, những chuyện kể trên
cho ta rõ, giáo lý Từ Bi của Đạo Phật đã trực tiếp ảnh hưởng trên
nền pháp luật triều Lý một cách rất nhuần nhuyễn, rất tinh tế, qua :
a) Sự tôn trọng Nhân quyền :
Theo quan niệm cổ điển của Trung
Hoa, dù là quan niệm Nhân trị hay quan niệm Pháp trị thì cá nhân sống
trong khuôn khổ chế độ quân chủ chuyên chế và dưới quyền người gia
trưởng, hoàn toàn không được pháp luật công nhận một quyền nào cả.
Trái lại, "Lễ cũng như Luật" đã chồng chất lên vai họ không
biết bao nhiêu là nghĩa vụ : trong gia đình, nghĩa vụ đối với chồng, với
cha; ngoài xã hội nghĩa vụ đối với thầy, với vua...
Trong các mối tương quan cổ điển
của xã hội, tuyệt nhiên không bao giờ người ta nghĩ đến vấn đề
"Nhân quyền", đến những tự do cá nhân, mà, mọi phần tử xã hội
phải được hưởng với tư cách làm người. Quan niệm ấy đã đem lại
bao nhiêu nỗi đau thương, bao nhiêu bất công hà khắc, không hề được ai
nghĩ tới.
Việc vua Lý Thánh Tông xét tới cảnh
khổ của các tù nhân đang bị giam cầm trong khi tội vạ chưa xét rõ và
truyền đối đãi tử tế với họ quả thật là bước đầu tiên công
nhận Nhân quyền trong lịch sử nước nhà. Đó là một đặc điểm rất
vinh dự cho luật pháp triều Lý.
Do ảnh hưởng của Đạo Phật,
phương pháp ấy đã vượt khỏi, vượt xa những quan niệm thông thường của
các nhà làm luật Trung Hoa.
Nếu đem so sánh những ý tưởng
cao thượng thấm đượm trong nền luật pháp ấy với những nguyên tắc của
bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Quốc Tế do Liên Hiệp Quốc công bố ngày
10-12-1948, điều thứ 11, khoản thứ nhất về quyền của bị cáo, ta sẽ
rõ : Từ 1000 năm trước, luật pháp của ta đã tiến tới một trình độ
vinh quang chói lọi về vấn đề này :
"Joute personne accusee d'un acte
delictueux est presumee innocente jusqu'a ce que sa culpabilite ait ete legalement etablie
au cours d'un proces public ou toutes les garanties necessaires a sa defense lui auront
ete assurees : Phàm ai bị cáo về một tội phạm gì đều được phỏng
coi như vô tội, cho đến khi tội trạng ấy được chứng minh rõ rệt
trong một vụ xử công khai có đủ hết đảm bảo cho bị cáo về quyền
bào chữa" (Điều 11, khoản thứ nhất trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền
Quốc Tế)
Sự so sánh này sẽ đưa ta đến chỗ
kết luận rằng quan niệm cũ của luật pháp Việt Nam không phải nhất thiết
thoát thai ở quan niệm nhân trị hay pháp trị của Trung Hoa. Nó có tinh thần
đặc thù, riêng biệt, và, ngay trong thời kỳ phôi thai ta "đã nhận thấy"
một sự tôn trọng nhân quyền mà ta chỉ "mới thấy" phát huy
trong một vài nước Âu-Mỹ vào cuối thế kỷ thứ XVIII ! Và, mãi đến giữa
thế kỷ XX, tổ chức Liên Hiệp Quốc mới công nhận (10-12-1948).
b) Áp dụng chính sách cải quá
đối với tội nhân :
Chính sách Nhân trị trọng Lễ,
không dùng Hình, đứng về phương diện lý thuyết thuần tuý, có một
tính cách rất cao siêu. Song, có lẽ vì mục đích quá cao siêu nên khó
lòng thực hiện được hoàn toàn trong xã hội loài người.
Chính sách Pháp trị, trái lại, dưới
"đôi mắt yếm thế" của phái Pháp Gia thì, loài người đối xử
với nhau như bầy thú dữ; phải cần có những hình pháp nghiêm ngặt mới
hòng giữ được trật tự cùng thuần phong mỹ tục trong xã hội.
Do quan niệm ấy, không những luật
phải dự trù những hình phạt rất nặng mà hơn nữa, trong việc xét xử
các phạm nhân, không thể có sự nhân nhượng và cũng không hề có sự
khoan hồng.
Luật triều Lý đã không theo đuổi
hẳn một phương pháp nào trên này cả.
Chỉ thị của vua Lý Thánh Tông về
việc xét xử các tội nhân một cách khoan hồng, không kể tội nặng nhẹ,
là một ý niệm rất cao cả, là một hình ảnh rất mới lạ của một
chính sách về Hình sự (Politique criminelle) chưa hề thấy ở Trung Hoa : Chính
sách cải quá tội nhân. Và chính sách này chỉ mới thấy phát triển ở
Âu-Mỹ vào thời đại cận kim.
Cũng cần nói rõ thêm, theo chính
sách ấy, các phạm nhân được coi như nạn nhân của xã hội. Đối với
họ, không nên dùng những hình phạt quá nghiêm khắc như muốn loại bỏ họ
ra khỏi xã hội; đó là một sự bất công. Mà trái lại, cần phải xét xử
họ như đối với một người có bệnh. Các sự trừng phạt phải được
cân nhắc và ấn định một cách hợp lý và nhân đạo để, đối với họ
sẽ biến thành một phương thuốc tinh thần, đem lại cho họ lòng hối cải...
Sự khoan dung mà ta đã thấy ở vua
Lý Thánh Tông là phản ảnh của lòng Từ Bi và sự Sám Hối được đề
cao trong ạo Phật.
Sự khoan dung ấy phát sinh ra một
cuộc cải tổ quan trọng trong chính sách về Hình sự mà ít người để
ý tới.
Nếu khéo được tổ chức, sự cải
tổ trên có lẽ đã đưa ước ta đến chỗ thực hiện một chính sách về
Hình sự có thể làm khuôn mẫu cho cả thế giới, cho toàn nhân loại.
Nhưng dẫu sao, đó cũng đã là một
vinh dự thứ hai cho triều Lý là đã ý thức được một quan niệm mới mẻ
trong Hình Luật.
c) Phái Nho gia không hiểu tinh thần
luật pháp triều Lý :
Lẽ tự nhiên, tinh thần đặc thù
của sự cải tổ này (Cải quá tội nhân) phái Nho gia không sao thấu hiểu
được (vì thâm căn cố đế đã quá thiên về các quan niệm Nhân trị hoặc
Pháp trị). Bởi lẽ đó, trong Sử cũ, luật pháp triều Lý thường bị
phái Nho gia chỉ trích như một Hình luật nhu nhược, uỷ mị.
Về những xét đoán này, những lời
phê bình của Ngô Thì Sĩ trong quyển Đại Việt Sử Ký đã là một chứng
cớ hùng biện về "thái độ cố chấp" của phái Nho gia. Chỉ cần
đơn cử một thí dụ sau, cũng rõ: Năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 6 (1125) một
đạo luật được ban hành bắt phạt những kẻ đã đánh chết người phải
tội đồ làm khao giáp, 100 trượng và khắc vào mặt 50 chữ (Đại Việt Sử
Ký Toàn Thư). Nhân đạo luật này, Ngô Thì Sĩ đã phê bình như sau :
"Bắt kẻ giết người chịu tội tử, đó là luật cũ, cớ sao chỉ
phạt những kẻ đánh chết người một hình phạt nhẹ như tội đồ và tội
trượng ? Nhân đấy, những kẻ càn rỡ có thể tư ý phóng tâm trả các mối
tư thù, không coi trọng nhân mạng nữa, các kẻ tiểu nhân rất dễ không
tôn trọng luật pháp, mà người quân tử hiền lành thì phải chịu các sự
bất công của chúng ! Đó là một điều lầm rất lớn trong sự quy định
luật pháp !" (Đại Việt Sử Ký). Để kết luận, nhà Sử học danh
tiếng họ Ngô đã tiếc rằng các nhà hữu trách triều Lý, trong khi cai trị
dân đã không noi theo lời của Tử Kiều, Thôi Thực !
- Tử Kiều, biệt hiệu là Tử Sản
hay Tử Mỹ, là một Luật gia danh tiếng tại nước Trịnh vào thế kỷ thứ
VI trước Thiên Chúa giáng sinh (581-522) và cũng là một đại biểu lỗi lạc
của phái Pháp gia. Sinh thời, ông giữ chức Tể tướng ở nước Trịnh,
ông đã đúc vạc đồng khắc rõ các hình phạt cho dân gian biết, như một
bộ Luật hình đầy đủ. Chính sách thị uy ấy có thể tóm tắc trong lời
sau đây của Tử Sản :"Thấy lửa cháy dân sợ hãi đứng nhìn cho
nên ít người chết vì lửa. Trái lại nước dịu mát nên khiến dân khinh
thị, chơi đùa, vì vậy mà nhiều người chết vì nước. Trong sự cai trị
cũng vậy, khó mà cai trị bằng sự hiền từ".
Yï kiến ấy, cũng là ý kiến của
Thôi Thực đã viết trong sách Chính Luận:"Đối với những người
không có tư cách siêu việt, nếu ta nghiêm khắc họ sẽ phải ở theo đạo,
nếu ta khoan dung họ sẽ làm loạn".
Những lý tưởng cố chấp của phái
Nho gia không vượt khỏi giới hạn cổ điển của hai quan niệm Nhân trị
và Pháp trị, lại càng làm tôn thêm vẻ đặc sắc của tinh thần luật pháp
triều Lý.
Song, ngoài sự phát huy bản sắc
dân tộc, luật pháp ấy còn có một phương diện tân kỳ khác nữa : Đó
là tính cách thực tế và thích ứng với nhu cầu xã hội đương thời.
NỀN PHÁP LUẬT TRIỀU LÝ THÍCH
ỨNG VỚI XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI
Ngày nay, sau khi đã làm
quen với các quan niệm về luật pháp của Tây phương, ta coi sự thích ứng
với nhu cầu của xã hội là một tính cách tất nhiên của luật pháp.
Song, nếu ngược dòng thời gian, ta
trở về với các bộ luật cũ của Trung Hoa và gần đây với bộ Hoàng Việt
Luật Lệ, tức luật Gia Long, ta sẽ rõ các nhà làm luật ngày trước có một
quan niệm khác hẳn. Vốn sẵn có tinh thần bảo thủ, nhà làm luật bao giờ
cũng coi các bộ luật cổ như những công trình bất hủ, những khuôn mẫu
bất di bất dịch. Vì vậy, bộ luật nhà Đường (Đường Luật Sớ Nghị)
tuy được thảo ra từ năm 653, song qua bao thế kỷ, vẫn được dùng làm
"khuôn vàng thước ngọc" cho các bộ luật Trung Hoa về sau. Và, cũng
vì vậy, trong bộ luật của Tàu hay bộ luật Gia Long, người ta đã
"quen tay" chép lại nhiều điều luật cũ, tuy đã quá lỗi thời,
không còn giá trị thực tế hiện tại nữa rồi !
Trái lại, luật pháp triều Lý,
theo các tài liệu hiện nay còn tìm thấy, chứng minh rõ là các vua triều
Lý đã từng săn sóc đến tình trạng của dân một cách rất thực tế,
trong địa hạt nông nghiệp cũng như trên phương diện tố tụng.
I. PHƯƠNG DIỆN NÔNG NGHIỆP
Ngày nay, các nước tiên tiến
trên thế giới đã tiến đến một nền kinh tế kỹ nghệ - nước ta vẫn
còn trong giai đoạn kinh tế nông nghiệp. Vậy lẽ tất nhiên cách đây 10
thế kỷ, nghề nông phải là nguồn lợi chính yếu và là ngành hoạt động
quan trọng nhất của dân ta.
Trong khuôn khổ một xã hội trọng
nông, nhà làm luật triều Lý đã chăm sóc đến sự thịnh vượng của nghề
chân lấm tay bùn, làm giảm bớt nỗi khổ cực của giai cấp nông dân (hằng
ngày vẫn phải chịu bao nỗi đắng cay đè nén, hăm doạ từ mọi phía).
Khác hẳn với luật Trung Quốc, đồng thời, dưới đời Lý Nhân Tông
(1072-1127), các vụ trộm trâu bò thường xảy ra rất nhiều ở các làng mạc,
khiến người dân quê làm ăn không được yên ổn. Hơn nữa, nhiều kẻ chỉ
chuyên môn trộm cướp trâu bò của dân gian khiến việc cày bừa phải đình
trệ, có khi bốn, năm gia đình phải chung nhau một con trâu hay một con bò.
Vốn sinh trưởng ở nơi dân giả,
Linh Nhân Hoàng Thái Hậu (tức Ỷ Lan Nguyên phi, vợ vua Lý Thánh Tông) thấu
rõ nỗi thống khổ của dân quê trong tình trạng ấy, nên đã khuyên nhà
vua ra tay trừng trị các kẻ gian làm hại dân lành.
Năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8
(1117), vua Lý Nhân Tông ban hành một đạo luật về việc trộm và thịt
trâu bò :"Kẻ nào ăn trộm hay thịt trâu bò phải phạt 80 trượng và
tội đò làm "Tang thất phu" nghĩa là tội đồ ở các sở nuôi tằm.
Ngoài ra còn phải hoàn trả lại tiền con vật. Các người lân bang không tố
cáo tội phạm cũng bị phạt 80 trượng" (Đại Việt Sử Ký). (Có
lẽ, trong sử không ghi chép điều luật này được đầy đủ. Theo sử,
trong luật trù liệu tội đồ làm "Tang thất phu", nhưng đây chỉ
là một hình phạt đối với đàn bà (đàn bà phải làm việc tại sở
nuôi tằm). Vậy chắc chắn là sử đã bỏ sót không ghi hình phạt đối với
người đàn ông ăn trộm trâu, trộm bò).
Song, sự che chở dân cày không phải
chỉ tóm tắt giới hạn trong việc trừng phạt các sự đạo thiết trâu
bò là đủ. Đối với dân Việt, câu ca dao "Tấc đất tấc vàng"
tự ngàn xưa đã phản chiếu một sự kiện kinh tế căn bản. Tất cả các
cơ nghiệp của người dân quê đời xưa chỉ vỏn vẹn gồm vài thửa ruộng,
thửa vườn. Cuộc sinh nhai hàng ngày, các thuế má, ma chay và mọi việc đóng
góp trong làng, trong xóm, thảy đều trông mong vào mối lợi độc nhất ấy.
Trong trường hợp phải cần tiền,
nếu không sẵn của dư của để, họ chỉ còn cách đem cầm, bán cái bất
động sản ấy. Vì vậy, trong đời sống chất phát của dân quê, các việc
cầm bán ruộng đất có tính cách quan trọng đặc biệt. Ta có thể nói
là hầu hết các việc dính líu đến pháp luật ở sau luỹ tre xanh đều
do các việc mua bán, cầm cố ruộng đất gây nên. Hiểu được tình trạng
ấy, vua Lý Anh Tông (1138-1175), năm Đại Định thứ 3 (năm Nhâm tuất, 1142)
đã ban hành một điều luật về việc kiện tụng và chuộc lại ruộng đất
:
"Các ruộng cầy cấy đã đem cầm
cố có thể chuộc lại trong một hạn là 20 năm. Các vụ tương tranh về
điền thổ không thể xin vua xét xử sau một thời hạn 5 hay 10 năm. Phàm
ruộng vườn bỏ hoang, đã có người cầy cấy, người chủ chỉ có quyền
đòi lại trong hạn 1 năm. Trái lệnh này, sẽ phạt 80 trượng.
Kẻ nào tranh nhau ruộng ao mà dùng
dao đả thương hoặc đánh chết người sẽ bị phạt 80 trượng và bị tội
đồ. Các ruộng ao tương tranh sẽ đền cho người bị thương hay bị giết.
Các ruộng cầy cấy hoặc bỏ
hoang, đã có văn tự bán đứt, không thể chuộc lại. Ai trái lệnh, cũng
phải phạt cùng một tội". (Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương
Mục. Đại Việt Sử Ký).
Đây là điều luật Việt Nam cổ
nhất mà ngày nay ta còn thấy ghi chép rõ ràng trong sử về qui chế các điền
thổ. Đạo luật ấy đã bênh vực quyền lợi của nông dân về 2 phương
diện : Xã hội và Pháp lý.
1) PHƯƠNG DIỆN XÃ HỘI :
Phương diện xã hội, là một yếu
tố quan trọng trong sự qui định về ruộng đất vừa nói trên.
Có thể nói, những lý do xã hội
đã thúc đẩy nhà làm luật triều Lý, cách đây 1000 năm, đặt cơ sở cho
một nền cải cách điền địa mà các nước Âu-Mỹ mới chỉ thực hiện
gần đây thôi.
Một trong những giải pháp được
ban hành là sự tôn trọng quyền lợi của người nông dân đã thực sự cầy
cấy những ruộng đất bỏ hoang và coi họ như sở hữu chủ những ruộng
đất ấy, sau một thời gian cầy cấy là 3 năm.
Sự thực, những trang sử ta vừa
đọc qua về triều Lý, đã nhắc cho ta rõ chính sách xã hội khôn ngoan ấy,
đã đựơc đem áp dụng ở nước ta cách đây 10 thế kỷ. Cuộc cải cách
của triều Lý còn triệt để hơn nữa vì, theo điều luật ban hành vào năm
Đại Định thứ 3: "Các ruộng bỏ hoang đã được người khác cầy
cấy, chỉ sau thời hạn 1 năm là không thể đòi lại được nữa".
2. PHẠM VI PHÁP LUẬT :
a) Trước hết, đây là lần đầu
tiên, nhà làm luật xác định sự phân biệt việc cầm cố vườn ruộng
(ta thường gọi là điển mại) với sự bán đất (ta thường gọi là đoạn
mại).
Danh từ "Điển" (nghĩa là
cầm cố) đã thấy được dùng lần đầu tiên, trong tài liệu pháp luật
Việt Nam.
Trong luật đã dùng danh từ "Điển
thục điền", nghĩa là cầm cố ruộng đã cầy cấy. Danh từ " Điển
mại" hiện nay vẫn còn được lưu dụng. Một danh từ không thấy
trong hai bộ luật nhà Đường và nhà Thanh.
Để cho người dân quê tránh khỏi
nạn bóc lột của chủ nợ thường manh tâm chiếm đoạt của họ, vua Lý
Anh Tông đã ấn định một thời gian khá dài là 20 năm cho phép họ được
chuộc lại ruộng đất trong thời gian ấy. Với qui chế này, người dân
quê sau khi cầm cố ruộng nương còn có hy vọng một ngày kia sẽ lại được
làm chủ thửa ruộng của mình như trước.
b) Để sự bảo đảm của luật
pháp được hiệu quả, nhà làm luật còn nghiêm phạt kẻ nào ỷ vào sức
mạnh để tự ý giải quyết các việc tương tranh về đất cát. Vì vậy,
kẻ nào đã dùng dao đánh (đâm, chém) hoặc giết người, không những phải
tội về mặt Hình, còn bị mất cả ruộng ao tương tranh để đền bù cho
kẻ bị thương hay thiệt mạng. Với điều khoản này, ta cần đánh dấu một
đặc điểm mới của luật pháp triều Lý. Ơí đây, ta đã bước từ
địa hạt luật Hình sang địa hạt luật Hộ thuần tuý.
Để bênh vực người dân quê bị
kẻ cường hào hà hiếp; như một người muốn chuộc ruộng bị người chủ
nợ đánh, nhà làm luật cảm thấy là phải đi xa hơn là các sự trừng phạt
về hình sự. Thực là một vinh dự , vẻ vang thay cho nhà làm luật thời
ấy đã hiểu rằng : duy trì trật tự công cộng trong xã hội bằng Hình
luật chưa đủ, mà còn cần phải hoà mình vào đời sống của dân chúng,
hiểu thấu nỗi đau khổ oan ức của họ, phải nâng đỡ họ và làm êm dịu
những sự bất công mà họ đã phải chịu đựng. Vì lẽ đó, những kẻ
cầm dao đánh người, ngoài các hình phạt, còn phải mất ruộng ao tương
tranh để đền cho kẻ bị đánh, bị giết...
c) Tuy nhiên, ta cũng không nên
lãng quên rằng, luật pháp triều Lý có một tính cách rất thiết thực
: Sự bênh vực quyền lợi của tầng lớp nông dân không phải là một
chính sách hoàn toàn đạp đổ quyền sở hữu trong mọi trường hợp. Vì
vậy, nhà làm luật, đã phân biệt rõ ràng sự cầm cố với sự bán đứt
hay đoạn mại các ruộng nương. Trong trường hợp có văn tự biên rõ là
đoạn mại, các ruộng nương không thể chuộc lại được.
Đây là một nguyên tắc rất cần
thiết cho tính cách vững ổn các hợp đồng đã được ký kết giữa các
tư nhân. Nhờ nguyên tắc ấy, các sự mua bán mới có một căn bản vững
chắc, và các sự kiện tụng mới mong giảm bớt được.
2. PHƯƠNG DIỆN TỐ TỤNG
Về phương diện tố tụng, nền luật
pháp triều Lý cũng có tính cách rất thực tiễn.
Để tránh cho dân quê các vụ kiện
tụng tố kém, nhiều khi quá lâu ngày; vua Lý Anh Tông đã định rằng
:"Các vụ tương tranh về ruộng đất không được xin vua xét xử nữa,
sau hạn 5 hoặc 10 năm, tuỳ trường hợp". (Cũng bởi một lý do là trước
vua Lý Anh Tông, vua Lý Thần Tông (1127-1138), năm Thuận Thiên thứ nhất
(1127) đã ra lệnh rằng : Các vụ kiện đã được xét xử dưới các
triều vua trước, không thể đem ra thưa kiện lại được. Ai trái điều
khoản này, sẽ bị phạt).
Xem như vậy, ta thấy các vua nhà
Lý rất am hiểu tâm lý của dân quê ta là thường hay thích kiện cáo. Để
diệt trừ thông bệnh ấy, các điều luật trên đây không những là một
liều thuốc rất hiệu quả, mà còn nêu cao trình độ pháp lý thời ấy
và chứng minh rằng : Luật pháp Việt Nam, ngay trong thời kỳ phôi thai đã
có những phương pháp rất tinh vi về phương diện chuyên môn như thời hạn
tiên định (Délai préfix) hay nguyên tắc = Res judicata pro veritate habetur
(Nguyên tắc là phàm các vụ kiện đã được xử đều coi như chân
lý), mà ngày nay, nền luật pháp tân tiến nào cũng coi là căn bản
trong các thủ tục tố tụng.
(Délai préfix = thời hạn tiên định,
là một thời hạn do nhà làm luật đặt ra (định). Nếu trong thời hạn
ấy, đương sự không sử dụng tới quyền của mình, thì sau này không
được quyền khởi tố nữa, thí dụ như thời hạn 5 hay 10 năm trong Đạo
luật ăm Đại Định thứ ba).
(Res judicata pro veritate habetur =
Nghĩa là một vụ kiện đã được xử xong thì được coi như chân lý bất
di bất dịch, không thể xin toà án xử lại nữa).
Những trang trên đây đã nêu rõ những
điểm đặc sắc trong nền luật pháp triều Lý. Song, nếu muốn khảo sát
một nền pháp luật mà chỉ đứng riêng về mặt lý thuyết không thôi
thì chưa đủ, còn phải bước từ địa vực nguyên tắc sang địa hạt thực
hành, để xem xét cách áp dụng những luật lệ ấy và kết quả đã thâu
hoạch được là như thế nào.
SỰ ÁP DỤNG LUẬT PHÁP DƯỚI
TRIỀU LÝ
Đã sẵn thấm nhuần một tinh
thần Từ Bi do ảnh hưởng của Phật giáo, nền luật pháp của triều Lý
còn được áp dụng trong thực tế một cách khoan hồng. Về sự áp dụng
ấy, ngày nay trong Sử vẫn còn nhiều bằng chứng tỏ rõ các biện pháp
và kết quả đã thu được, rất mỹ mãn.
Đó là hai điểm cần phải bàn đến,
sau khi đã phân tích tinh thần của nền pháp luật đời Lý.
I. TÍNH CÁCH KHOAN HỒNG TRONG VIỆC
ÁP DỤNG LUẬT PHÁP
Như chúng ta đã rõ, vào năm
Chương Thánh Giả Khánh thứ 6 (1064) dưới đời vua Lý Thánh Tông. Mùa hạ,
vua đang ngồi xử án ở điện Thiên Khánh, có công chúa Động Thiên đứng
cạnh, vua chỉ công chúa, rồi nói với các quan xét việc án :"Ta thương
dân như con ta vậy. Song dân không biết lòng ta, phạm các điều tội lỗi,
ta rất xót xa. Từ nay, ta muốn tất cả các tội nặng, nhẹ đều được
xử một cách rất khoan hồng" (Đại Việt Sử Ký - Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư - Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục). Riêng trong
sách Lịch Triều Hiến Chương thì chép sai là năm Long Thụ Thái Bình thứ
6 (niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình chỉ gồm tất cả có 5 năm (1054-1058).
Theo sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú - Ngô Thì Sĩ,
một Sử gia có tài (1725-1780) đã bình luận về việc này, như sau :"Đọc
việc này, ta thấy vua Thánh Tông rất chân thành. Tất cả sự khoan hồng
trong sự áp dụng luật pháp và tấm tình thân mật giữa vua và dân,
không, không hề bị bệ ngọc xa cách".
Muốn dẫn chứng một thí dụ tính
cách khoan hồng trong việc áp dụng luật pháp triều Lý; thiết tưởng có
thể mượn trong Sử ký vài trường hợp rất rõ rệt, rất cụ thể.
1) Trường hợp Chế Củ quấy rối
biên thuỳ :
Xứ ta vốn giáp với Chiêm Thành.
Người Chiêm thường hay sang quấy rối các đất đai ở biên thuỳ, nên
vua Lý Thánh Tông đã cầm binh trừng giới. Từ ngày vua Chiêm là Rudravarman
II (tức Chế Củ, hay còn gọi là Đệ Củ) lên ngôi, người Chiêm đã quan
hệ, giao thiệp với nhà Tống bên Tàu, để mua lừa ngựa, tổ chức lại
quân đội, chuẩn bị, lăm le đánh nước ta. Vua Lý Thánh Tông có Lý Thường
Kiệt phụ tá, thân chinh đi đánh dẹp, phá được kinh thành Chiêm Vijaya
(hay Đồ Bàn, còn gọi là Phật Thệ), bắt được vua Chiêm đem về kinh đô
Thăng Long.
Đối với một kẻ được gọi là
"thù địch" như vậy, lẽ tất nhiên, hình phạt thông thường ngày
trước, phải là tử hình ! Tuy nhiên, Lý Thánh Tông đã tha cho Chế Củ về
nước, không giết. Và, Chế Củ, đã xin dâng cho ta ba châu là Bố Chánh,
Ma Linh và Địa Lý, để chuộc tội.
Đất đai ấy ngày nay là địa phận
Quảng Bình và phía bắc tỉnh Quảng Trị (1069).
2) Trường hợp Lê Văn Thịnh
mưu phản :
Hơn thế nữa, ngay với những kẻ
mang tội mưu phản trong nước; một chính sách mềm dẻo và khoan hồng, cũng
được đem áp dụng :
Lê Văn Thịnh, vốn là người đỗ
Thủ khoa trong kỳ thi đầu tiên tổ chức dưới triều Lý năm 1075, làm
quan đến chức Tể tướng. 12 năm sau, bị cách chức và đày lên miền nước
độc. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, thì, ông bị đày lên miền Thao
Giang (thượng lưu sông Nhị). Nhưng, theo Việt Nam Sử Lược, thì, ông bị
đày đến Lương Giang (miền Thanh Hoá).
Vì đâu Lê Văn Thịnh đã bị cách
chức và bị đày như vậy ?
Sử chép : Lê Văn Thịnh có một người
hầu cận nguyên quán ở Vân Nam, biết làm phép thả hơi mù và biến thành
hổ báo. Ông học được phép ấy và lập tâm giết vua để cướp ngôi
báu.
Năm ấy, vua Lý Nhân Tông dạo chơi
ở hồ Dâm Đàm (tức Hồ Tây bây giờ), xem đánh cá. Vua ngự trên một
chiếc thuyền chài, có Mục Thận, người phường Tây Hồ, đứng hầu đằng
mũi, buông lưới. Khi thuyền đến giữa hồ, thình lình trời mù tối,
không nhìn rõ gì nữa. Bỗng, có một chiếc thuyền chèo vùn vụt tới, lướt
qua thuyền vua. Trên thuyền, qua màn sương mù, ai cũng trông thấy một con hổ
lớn đương nhe răng gầm gừ. Vua cả sợ. Mục Thận trong cơn nguy cấp, sẵn
lưới trong tay, tung ra, tưởng bắt được hổ, lúc xem,ai ngờ lại là Lê
Văn Thịnh !
Vua sai lấy giây sắt trói vào cũi
mà giam. Song nghĩ tới công lao cũ, nên đã tha tội chết, chỉ đày lên miền
nước độc mà thôi.
Chuyện này, có thể là một nghi
án lịch sử, không khác gì vụ án Nguyễn Trãi - Thị Lộ. Song dầu sao,
cách gia hình của vua Lý Nhân Tông đối với Lê Văn Thịnh cũng tỏ rõ là
luật pháp triều Lý nhiều khi đã được giảm nhẹ, trong lúc xét xử.
Nếu ta nhớ lại rằng, năm 1071, đã
có đạo luật định rõ các số tiền nộp để chuộc tội, trừ trường
hợp tội "Thập ác", trong đó có tội mưu phản; ta sẽ thấy rõ
các hình pháp dưới triều Lý đã áp dụng khoan hồng đến mức nào... khi
Lê Văn Thịnh được tha tội chết.
CÁC BIỆN PHÁP VÀ KẾT QUẢ
Trong thực tế, các vua triều
Lý đã áp dụng nhiều biện pháp để thể hiện được những kết quả
khả quan về mặt pháp lý :
1) Tổ chức kỳ thi các pháp quan :
Trái với các triều vua sau,
chuyên về Nho học và trọng từ chương. Đời nhà Lý, đã có một biện
pháp tuyển lựa các pháp quan và luật gia một cách rất xác đáng:
Ngoài mục đích tuyển lấy những
người văn học, Sử còn chép là năm Đinh tỵ (1077), có những kỳ thi
chuyên môn để chọn lấy những người chữ tốt, giỏi về toán và luật
Hình, để bổ vào làm Lại viên (danh từ "Lại viên" có nghĩa như
công chức ngày nay) ở các viện, như Thư xã và ở các bộ như bộ Hộ, bộ
Hình. Sự phân công đích đáng ấy, cố nhiên phải là một sự khích lệ
cho phong trào học Luật. Mà có lẽ cũng vì vậy, ta thấy trình độ luật
pháp đã tiến tới một mức khá cao, không những giữa các giới hữu
trách mà còn ở cả giai cấp bình dân.
2) Quan lại giỏi luật:
Tuy ngày nay không còn nhiều chứng
cớ, song cũng có thể "lượm lặt" ở trong Sử một vài chuyện để
chứng dẫn trình độ hiểu biết Luật khá cao dưới triều Lý.
Trước khi bị tội, Lê Văn Thịnh
được vua rất tin dùng. Sau khi phá Tống, vua sai Lê Văn Thịnh đi sứ sang
Tàu để đòi các đất bị người Tàu xâm chiếm ngoài biên cương và các
đất đã do thổ dân nơi biên ải đem dâng cho vua Tống để thần phục
Trung Hoa.
Tuy binh lực Tống đã bị Lý Thường
Kiệt đánh thua tan tác, xiểng liểng. Song, vua quan nhà Tống khó lòng mà gột
sạch ngay được "đầu óc thực dân" mà họ đã bị tiêm nhiễm
quá lâu ngày. Vì vậy, nên vua Tống chỉ sẵn lòng trả lại nước ta các
đất đai do người Tống xâm chiếm tại nơi biên thuỳ. Còn các đất đai
do thổ dân nộp để thần phục nhà Tống là hai động Vật Dương và Vật
Aïc, họ ngoan cố không chịu trả lại. Viện lý những đất ấy là của
thổ dân "tự ý" đem sát nhập vào Trung Quốc chứ không phải là
đất đai của nước Việt.
Cho hay, vấn đề dân tộc "thiểu
số" không phải là vấn đề mới được nêu lên vào thế kỷ XX này
! Một nghìn năm trước đây, nó cũng đã từng được đem lên tấm thảm
xanh quốc tế để che đậy cho cái dã tâm, tham lam của vua quan nhà Tống.
Và, Lê Văn Thịnh đã trả lời Tống :"Đất thì có chủ, các viên
quan giữ mang đất ấy nộp cho người khác và trốn đi thì đất ấy thành
vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao cho mà lấy trộm đã không tha thứ
được, mà trộm của hay "tàng trữ" thì luật pháp cũng không cho
phép. Huống chi, nay lại mang đất lấy trộm dâng để làm dơ bẩn sổ sách
nhà vua ". ( Hoàng Xuân Hãn - Lý Thường Kiệt, trang 377 ).
Đại diện cho Việt Nam, Lê Văn Thịnh
đã trả lời một cách cứng cỏi, khiến cho ngày nay ta đọc Sử cũng hân
hoan có được một người đại biểu xứng đáng, biết binh vực quyênư lợi
tổ quốc một cách hợp lý như vậy.
Đối với luật trong một nước,
khi người nào nhận một vật gì để canh giữ, nếu đem vật ấy bán hoặc
huỷ đi, tất nhiên còn phải tội. Huống hồ là các thổ dân, chẳng qua
chỉ là những người được vua nước ta tin dùng, cho cai quản các châu quận
ở nơi biên ải xa xôi. Lẽ nào họ tự tiện đem đất đai nước ta dâng
cho Tống, để xin thần phục, để mà xâm phạm vào lãnh thổ của Việt
Nam được ?
Luận cứ trên đây còn tỏ cho ta
biết rằng nền Pháp lý thời ấy đã tiến đến một mức khả quan, cho nên
Lê Văn Thịnh đã phân biệt được rõ ràng các khế ước uỷ nhiệm
(mandat), hoặc ký thác (dépot), với quyền sở hữu (droit de propri été).
Người thụ uỷ nhận cai quản vật
gì phải trọng quyền sở hữu của người chủ vật ấy.
Đối với các nền luật pháp Đông
phương, thường không hay nói tới Dân luật và quy định rất sơ lượt các
khế ước. Lời biện minh của Lê Văn Thịnh trên đây đã cho ta nhận
chân giá trị chuyên môn của các người được cử ra cầm cân nẩy mực
ở thời ấy.
3) Dân chúng tôn trọng luật :
Không những các kết quả khả quan
chỉ thu hoạch được ở các giới trí thức và Pháp quan. Mà, ở chính
trong chốn bình dân, ta cũng nhận thấy một tinh thần tôn trọng luật
pháp (dưới nhiều hình thức) :
Dưới thời Lý, việc buôn bán giữa
người Tống và dân ta thường được giao dịch tại các đồn đóng ở gần
biên thuỳ và quan ải, goi là "Bạc Dịch trường". Cách tổ chức
mua bán như vậy, cũng chẳng lấy gì làm lạ. Vì ngày xưa, các nước thường
nghi kỵ những người ngoại quốc không muốn cho vào lưu thông trong nước,
sợ họ manh tâm do thám tình hình nội bộ. Về việc mua bán như vậy, dân
hai nước tải các phẩm vật cần dùng đến nơi, rồi đôi bên mặc cả
mua bán, như ngày nay. Sử chép rằng :"Khi đã thoả thuận, thì sau
có người trả giá đắt gấp bội, dân ta cũng không bán". Xem như vậy,
dân Việt Nam thời ấy rất trọng chữ "Tín" trong sự giao dịch.
Đó là một bằng chứng tỏ rõ là dân tình, dân trí đã có một quan niệm
vững chắc về mặt Pháp lý. Sự trọng lơiì hứa trong hợp đồng là một
nguyên tắc thiết yếu trong luật pháp. Có nguyên tắc ấy, mới có sự ổn
định, an toàn trong sự giao thiệp, về luật pháp không những đối với
đồng bào, mà ngay đối với người Tống là người lạ ở nơi xa đến,
dân ta vẫn giữ được tính thực thà ấy; thật là một điều quý báu chứng
minh sự thượng tôn pháp luật, như là lẽ phải đương nhiên, ở trong giới
bình dân thời ấy...
KẾT LUẬN
Để kết luận, ta có thể
tóm tắt lại trong hai điều, kết tinh các đặc sắc của Pháp luật triều
Lý :
- Vượt qua khuôn khổ cổ điển, những học thuyết
Nhân trị và Pháp trị của Trung Quốc, nên pháp luật triều Lý đã bắt
nguồn ở tinh thần Từ Bi và Trí Tuệ của Phật giáo, để xây dựng một
nền pháp lý đặc biệt, thuần từ và hết sức tiến bộ. Đó là nền
pháp lý duy nhất ở nước ta chịu ảnh hưởng trực tiếp của tôn giáo :
Phật giáo.
- Dưới triều Lý, nhiều biện pháp chuyên môn đã
được áp dụng và đưa lại nhiều kết quả rất khả quan. Trong sự áp dụng
luật pháp cũng như trong công cuộc bang giao, nhà Lý đã có những nhân tài
xuất chúng, có thể không hổ thẹn khi đem so sánh pháp luật nước ta với
những nền pháp lý nước ngoài, kể cả luật La Mã - về các nghĩa vụ
và khế ước - mà thiên hạ thường coi là "tấm gương" cho tất
cả các nền luật pháp của Âu-Mỹ...
Xưa, nay, có lẽ cả về sau này,
con người vẫn mãi bàn thảo về những vấn đề nào là chính trị, kinh tế,
quân sự, luật pháp, văn hoá, vân vân...
Chẳng phải là chúng ta cũng vừa mạn
đàm, tìm hiểu một vài nét về văn hoá triều Lý đó sao ?
Nhưng, tục ngữ có câu :"Chín
người, mười ý". Tây phương cũng nói gần như vậy :"Mỗi người
(đầu), mỗi ý". Không khéo chỉ hai người thôi mà, có đến ba
ý, cũng nên !?
Biết đến bao giờ thì mới có
được một sự "Đồng tâm nhất trí" của toàn thể nhân loại
? E rằng không, không bao giờ !?
Nhưng, ít ra, thì cũng có thể có
được một "khái niệm chung chung", ví dụ như về một từ
:"Văn Hoá" chẳng hạn, để mà "hiểu" nhau, có "hiểu"
nhau rồi, mới để "gần" nhau, "gần" nhau rồi, mới dễ
"thương" nhau hơn..., phải vậy không ? (Thưa : Anh, Chị = Chúng ta).
Vậy thì, "Văn hoá" là gì,
nếu không phải là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả; là
cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả ?
( La Culture c'est ce qui reste quand
on a tout oublié; c'est ce qui manque quand on a tout appris ? - Edouard Herrist )
"Pháp luật triều Lý" cũng
là một "bài" chúng tôi đã được "học" cách đây gần năm
mươi năm, nhưng, cũng may, chưa "quên đi tất cả", còn nhớ những
gì, nay xin ghi lại, coi như là "cái còn lại"......
Và, sau cùng là :
Xin cúi đầu niệm ơn Giáo sư Thạc
sĩ Vũ Văn Mẫu. Xin thành kính đảnh lễ Ngài.
- Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ
tát.
- Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát Ma ha tát.
- Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/
pgtrieuly.htm