- Ý NGHĨA QUY Y TAM BẢO
A. VÌ SAO PHẢI QUY Y TAM BẢO :
Chúng ta biết rằng đa phần các
tín đồ theo Phật giáo thường là không có quy y Tam bảo. Bởi vì người
đã quy y Tam Bảo thời thường lễ Phật đốt hương, nhưng người biết lễ
Phật đốt hương thì chưa chắc đã quy y Tam Bảo. Tuy nhiên người chưa từng
quy y Tam Bảo họ vẫn có thể xưng mình là tín đồ của Phật giáo mà
chúng ta không thể phủ nhận sự tín ngưỡng của họ.
Có người chủ trương tin Phật chỉ
cần có tâm thành là đủ, hà cứ gì mà phải quy y ? Quan niệm này mới
nghe dường như có lý, thực chất thì không hợp với thực tế. Ví như học
sinh khi muốn đi học đầu tiên phải làm thủ tục nhập học, nếu không
như vậy thì không có hồ sơ chính thức ở trường nên dù cho có thể dự
thính nhưng sẽ không được cấp văn bằng và học bạ. Một người học
trò đích thực thì phải học theo các chương trình mà nhà trường đặt
ra từ thấp tới cao. Ngòai việc làm thủ tục nhập học còn tùy theo
trình độ ở mỗi cấp học mà học sinh còn phải thi tuyển mới được vào
trường để học, nếu như không học tiểu học mà đòi lấy văn bằng đại
học cho đến học vị Tiến sĩ là điều không thể có được, do vậy
người tin theo Phật cũng phải bắt đầu từ việc quy y Tam bảo. Mặc dầu
quy y Tam Bảo chỉ là bước khởi đầu trong quá trình học Phật nhưng nếu
không có bước khởi đầu thì làm sao có các bước tiếp theo được. Đệ
tử Phật lấy việc thọ giới mà phân cấp bậc, quy y Tam Bảo là việc căn
bản nhất tiếp theo mới đến thọ Ngũ giới, Tám giới, Mười giới, Tỳ
kheo giới, Bồ tát giới. Nói tóm lại tất cả mọi giới pháp đều lấy
việc quy y Tam Bảo làm nền tảng căn bản. Quy y Tam Bảo tức là bước đầu
tiên của việc vào đạo tin Phật. Phật giáo không bỏ bất kỳ chúng sanh
nào, do đó đối với việc quy y Tam Bảo cũng không có sự hạn lượng nhất
định. Trong lục đạo chúng sinh trừ Địa ngục là nơi thọ khổ vô cùng
vô tận không thể quy y Tam Bảo được. Các nơi khác bất kể là Người,
Trời, Thần, Quỷ vật và Súc sinh chỉ cần phát tâm quy y, Phật giáo đều
tiếp nhận cả. Đây cũng giống như đã là học sinh đủ tuổi đi học thì
bất luận là giàu nghèo, sang hèn, ngu đần hoặc thông minh đều được nhập
học vậy.
Lại có người nghĩ rằng mình có
thể đọc sách xem kinh thời tự mình cũng có thể trực tiếp tìm thấy
con đường thành Phật trong kinh sách, việc gì mà phải quy y, điều này
nói về lý hình như có thể chấp nhận được nhưng đứng trên mặt
nguyên tắc của sự tướng thì lại là một sự sai lầm lớn, bởi vì
kinh Phật là do Phật nói hay do đệ tử của Phật nói rồi được các vị
đệ tử xuất gia của Phật kiết tập thành kinh điển truyền lưu hậu thế,
nay nếu nói rằng chỉ cần xem kinh mà không cần biết đến Phật là người
nói ra kinh ấy, cho đến không cần biết đến những vị Tăng là người
đã có công truyền bá những kinh điển ấy, cho dù có quy y với Pháp đi nữa
thì cũng là hành vi vong ân không thể chấp nhận được. Phật giáo mặc dầu
lấy Pháp bảo làm nền tảng, phương pháp tu hành cũng từ Pháp bảo mà lưu
xuất nhưng Pháp Bảo cũng từ Phật Bảo và Tăng bảo mà ra, do vậy Tam Bảo
là ba yếu tố không thể tách rời nhau được.
Lại nói về quy chế và nghi thức
thời tin Phật mà không quy y Tam Bảo cũng giống như có một người ngọai
quốc yêu mến nền văn hóa và cảnh vật của Việt Nam rồi đến Việt
Nam cư trú mà không chịu thay đổi quốc tịch vốn có của mình, mà lại
tự xưng rằng tôi là người Việt Nam, thời họ có thể được người Việt
Nam hoan nghinh nhưng sự thật thì họ vẫn chưa thể được công nhận là
người Việt Nam thật sự. Cũng như vậy người không quy y Tam Bảo mà tự
nhận mình là người tín đồ Phật giáo, mặc dầu họ vẫn có thể nhận
được một vài lợi ích nào đó nhưng nói cho cùng thì về nhân cách họ
vẫn chưa được chư Phật ấn chứng là đệ tử của Phật. Đây không phải
là sự chấp trước mà là thủ tục cần phải thực hiện khi vào cửa Phật,
cho nên trong kinh Phật dạy người đời tuy là làm thiện nhưng vẫn không
diệt trừ được ác nghiệp của đời trước, chỉ có quy y với Tam Bảo
mới có thể tiêu trừ được ác nghiệp của tiền kiếp.
Quy y Tam Bảo vừa là nghi thức vừa là nội tâm khi quy y Tam Bảo miệng phải
đọc, thân phải lễ và tâm còn phải nghĩ nữa, chủ yếu vẫn là từ nội
tâm lãnh thọ giới pháp quy y gọi là giới thể, giới thể cần phải do
người đã quy y Tam Bảo tức là bậc Thầy xuất gia truyền trao. Đây
chính là sự truyền thừa của hệ thống pháp phái. Là người phàm phu
không thể nào không Thầy mà tự chứng. Do vậy quy y Tam Bảo không thể chỉ
đối trước tượng Phật và Bồ Tát mà tự thệ nguyện thọ trì được,
do vậy mà biết được tính trang nghiêm và cần thiết khi đối trước vị
Thầy cầu thọ pháp Tam Quy.
Cho nên không thọ Tam Quy y mà muốn
trở thành một tín đồ Phật giáo chân chánh là điều không thể có được.
Nếu chỉ tin Phật và Pháp mà không kính lễ chư Tăng thời đã hủy họai
tính căn bản của Phật Pháp bởi vì Tam Bảo không thể tách rời. Do vậy
người đã hủy họai Phật Pháp thời không thể có được thiện quả,
cho nên khi đã tín phụng Tam Bảo thời phải quy y Tam Bảo.
Lại có một số người tuy là chưa
tin Phật nhưng có cảm tình đối với Phật giáo thời họ không muốn quy
y Tam Bảo ngay, vì sợ rằng sau khi quy y họ sẽ bị nhiều ràng buộc, cho
nên họ thường có thái độ đứng ngòai để xem xét, họ có quan niệm
quy y Tam Bảo cũng như việc Nam Nữ kết hôn vậy, khi chưa hiểu rõ đối
phương mà vội vàng kết hôn thời sẽ khổ cả đời. Thật ra hai việc này
hòan tòan khác nhau cũng giống như chúng ta muốn học một nghề nào đó
mà lại không muốn đầu sư thời làm sao có thể tinh thông nghề nghiệp
được, sự lợi ích của việc đầu sư chính là việc tiếp nhận những
kinh nghiệm và sở trường của vị Thầy được tích lũy qua nhiều thế hệ,
do vậy khi ta đầu sư cũng là được kế thừa những kinh nghiệm quý báu,
khi đã học thành cũng không thể lập tức rời Thầy, việc quy y Tam Bảo
cũng vậy, muốn hiểu rõ Phật Pháp thời bắt đầu từ việc quy y Tam Bảo,
nếu chỉ đứng ngòai để quan sát mà mong được hiểu rõ thời chỉ là vọng
tưởng. Cửa Phật không phải là lao ngục mà là con đường giải thóat rộng
lớn thênh thang, Phật giáo mong mỏi mọi người đều từ việc quy y Tam Bảo
mà tiến vào con đường học đạo giải thóat, nhưng nếu có người vì căn
cơ thấp kém không muốn quy y hay theo đạo khác, hoặc không có niềm tin đối
với bất kỳ tôn giáo nào, với những người này Phật giáo vẫn từ bi mở
rộng cửa Thiền môn chờ đón họ như những người lãng tử trở về cố
hương.
Do vậy chúng ta cần phải khuyên bảo
mọi người trên thế gian quay về quy y với Tam Bảo bất kể là người đã
tin theo Phật hay chuẩn bị để tin theo Phật, hoặc giả là người đang đứng
ngòai cửa Phật để quan sát ngó nhìn, thậm chí là người theo tôn giáo
khác, chúng ta vẫn sẳn lòng mời họ dẹp bỏ đi những thành kiến cố hữu,
hay tôn giáo mà họ đang theo, thử đến quy y với Tam Bảo một lần họ sẽ
thấy được lợi ích to lớn và sự tự do thật sự, khi đã quy y Tam Bảo
rồi trừ khi bị ma chướng che lấp chân tâm, nếu không thời sẽ chẳng
bao giờ thối thất tâm mình đối với Tam Bảo.
B. THẾ NÀO LÀ QUY Y TAM BẢO
Trên phương diện chữ nghĩa, hai chữ
quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào,
những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng,
đều có thể gọi là quy y. Cho nên quy y không phải là danh từ chuyên dùng
của Phật giáo.
Như trẻ thơ quay đầu vào lòng cha
mẹ dựa dẩm vào Cha mẹ, tin tưởng Cha mẹ mới có được cảm giác an
toàn, cảm giảc an toàn này được phát sinh từ sức mạnh và năng lực của
sự quy y, do vậy bất kỳ một hành vi nào làm phát sinh cảm giác an tòan từ
sự quay đầu dựa dẩm và tin tưởng đều gọi là quy y.
Do đó con cái tin tưởng Cha mẹ, học
sinh tin tưởng vào Thầy, các nhà doanh nhân tin tưởng vào những kế hoặch
và dự toán buôn bán, người cấp dưới tin tưởng vào cấp trên, các nhà
Túc mệnh luận tin tưởng vào mạng vận, người phụ nữ góa bụa tin tưởng
vào vũ lực, những chính khách tin tưởng vào mưu lược, người tham lam
tin tưởng vào tài sản.v.v.. tất cả ít nhiều đều mang âm hưởng của sự
quy y, hay nói cách khác tất cả mọi sự lý được phát sinh từ năng lực
của sự tín ngưỡng đều được liệt vào quy y. Do vậy tín ngưỡng Phật
giáo cũng được gọi là quy y hay tín ngưỡng vào các tôn giáo khác cho đến
việc sùng bái Thần thánh tà ma vẫn có thể gọi là quy y, nhưng chân nghĩa
hay ý nghĩa chân thật của sự quy y, thời là lĩnh vực khác. Bất kỳ sự
dựa dẫm tin tưởng hoặc tín ngưỡng vào những điều không cứu cánh,
không chắc thật thì không thể gọi là sự quy y chân chánh được, cũng ví
như khi mưa to bảo lớn người ta liền trèo lên cây, trèo lên nóc nhà, chạy
lên gò cao nhưng khi nước dâng cao, sóng gió nổi lên thì cây cũng có thể
đổ, nhà có thể sập, gò cao có thể bị nhấn chìm, do đó trong trường
hợp cấp bách như vậy nếu như gần đó có một ngọn núi cao, thì có phải
rằng mọi người đều chạy lên ngọn núi ấy không ? chỉ trừ những người
ngu si vô trí mới bỏ qua cơ hội tốt đẹp ấy. Do vậy núi cao có năng lực
và hiệu quả an toàn hơn hẳn cây cối nhà cửa và gò đất.
Cũng vậy người có thể nhận rõ
được thế sự vô thường, hiểu rõ được vạn pháp đều do nhân duyên
đối đãi tương hợp mà thành, thời chắc chắn có đủ năng lực để hiểu
ro.õ Cha mẹ, Thầy giáo, Kế họach dự toán, Cấp trên, Mạng vận, cho đến
Vũ khí, Mưu lược, Tài sản..v.v. đều có thể phát sinh hiệu quả của sự
an toàn, nhưng không chắc chắn và vĩnh cữu, bởi vì cha mẹ rồi cũng chết,
tri thức của Thầy giáo rồi sẽ bị lạc hậu, dự toán có khi không chuẩn
xác. Quan trên có khi bị mất chức hoặc bị điều đi nơi khác, vận mệnh
không thể tuyệt đối tin tưởng, vũ lực , mưu lược, tài sản đều như
huyễn, như mây, như khói. Hôm nay có thể là Vua ở phương Nam biết đâu
ngày mai sẽ là người tù trong ngục tối, hôm nay là triệu phú giàu sang
ai biết được ngày mai đang là chàng cùng tử xin ăn khắp nẻo đường xó
chợ.
Thậm chí tin tưởng tín ngưỡng vào
các Tôn giáo khác có thể được sanh Thiên nhưng chưa chắc là do tín ngưỡng
ấy mà quyết định sanh thiên, ví như người tin theo đạo Thiên chúa hay
Tin lành thì thánh kinh nói rằng: sẽ được cứu nhưng chưa chắc là sẽ
được cứu hết. Thượng đế không thiên vị, nhưng lòng thành của bạn
chưa chắc giúp bạn là người dân của xứ Thiên đàn. Lại đứng trên gốc
độ của Phật giáo mà nhìn, Phật giáo chính là tôn giáo vượt ngoài mọi
Tôn giáo, bởi vì lý tưởng cao siêu nhất của tất cả các Tôn giáo cũng
chỉ là sanh lên cõi trời mà không vượt ngoài hạn định ấy, nhưng cõi
trời trong Phật giáo dù là cõi trời cao tột nhất cũng không vượt ra ngoài
sinh tử luân hồi. Thọ mạng ở cõi trời dù lớn hơn con người nhưng
cũng đến lúc cùng tận, phước trời một khi đã hết cũng không tránh khỏi
đọa lạc, do vậy đó không phải là nơi quy y chắc thật nhất, chỉ có
quy y Phật giáo mới có thể khiến cho con người từng bước từng bước
thóat ly khổ não đến với con đường giải thóat cứu kính an lạc. Tổng
thể của Phật giáo chính là Phật Pháp Tăng Tam bảo.
Trên thực tế khuynh hướng của sự
quy y bắt đầu từ quy y Tam Bảo, tin tưởng Tam Bảo, dựa vào Tam Bảo để
khởi phát tâm mình và dẫn đường cho mình đến với con đường giải thóat
hướng về Niết Bàn, nhưng khi hướng đến Niết Bàn giải thóat thì tự
thân mỗi người đều chính là lý thể Tam Bảo, bởi vì mọi chúng sanh đều
có Phật Tánh chỉ bởi nghiệp chướng mê hoặc mà không thể nhìn thấy
Phật tánh của mình, mục đích của việc quy y Tam Bảo chính là việc cầu
tìm sự hiển bày Phật Tánh, bởi vì mỗi chúng ta vốn giống chư Phật, vốn
cùng Tam Bảo chỉ vì mê muội đánh mất bản tánh lưu lạc trong sanh tử,
quên mất lối về mới gọi là chúng sinh, nếu chúng ta kịp thời quay về
trong lòng của Tam Bảo, thì cũng như chàng lãng tử trở về cố hương mà
thôi.
Do vậy chỉ có tìm ra con đường
quay về, trở về nhà thì mới gọi là quy y chân chánh, còn nếu chỉ là
những nơi dừng chân tạm bợ thì không phải là quy y chân chánh được,
cũng giống như người cưỡi con trâu đất vượt qua sông thì chỉ cần
nhúng chân xuống nước Trâu đà tan rã lấy gì vượt sông ?.
Tam Bảo là gì ? Tam Bảo là Phật
Pháp Tăng, vì sao được gọi là Bảo điều này rất quan trọng. Một người
muốn tin Phật tất phải quy y Tam Bảo trước, nhưng trước khi quy y cần
phải hiểu rõ ý nghĩa của Tam Bảo nếu chỉ mơ hồ mà quy y thời không
thể gọi là quy y chân chánh được. Cũng giống như người ghi tên thi đại
học nhưng không biết tên tuổi và lọai hình mà trường mình sẽ thi, thời
thật nực cười vậy. Nhưng chúng ta thật đau buồn bởi vì ngày hôm nay
biết bao nhiêu người mang tiếng đã quy y Tam Bảo nhưng chẳng hiểu được
ý nghĩa của Tam bảo là gì, cũng có biết bao nhiêu vị Thầy truyền giới
quy y nhưng chưa hề giảng cho đệ tử hiểu rõ ý nghĩa Tam Bảo là gì, điều
này thật đau buồn vô cùng.
Tam Bảo chính là Phật Pháp Tăng bởi
vì trong Phật Pháp Tăng có thể sinh ra vô lượng công đức và phát huy vô
lượng diệu dụng, công đức và diệu dụng ấy là vô cùng vô tận, vô
biên, vô tế, lấy không cùng tận, sài không cạn kiệt. Thế gian lấy giá
trị của vàng bạc châu báu và công dụng to lớn của nó để gọi nó là
trân bảo, còn công đức và diệu dụng của Phật Pháp và Tăng thời vượt
ra ngoài cả thế gian và xuất thế gian cho nên càng quý hơn trân bảo nữa.
Bởi vì sự hóa đạo của Tam Bảo có thể làm cho con người được bình
an trong cuộc sống, có thể làm cho con người lìa khổ được vui, do vậy
Tam Bảo càng quý giá hơn cả trân bảo của thế gian nữa.
Từ xưa đến nay có nhiều cách để phân loại về Tam Bảo nhưng đại thể
có hai lọai là sự tướng và lý thể.
1- Nói về sự tướng thì có Trụ
trì Tam Bảo và Hóa tướng Tam Bảo.
2- Nói về lý thể thì có Nhất thể Tam Bảo và Lý thể Tam Bảo.
Trước khi giải thích về chủng loại
của Tam Bảo cần phải hiểu hàm ý về Tam Bảo, Phật tức là giác giả,
tự giác, giác tha và giác mãn. Pháp tức là Pháp tắc là những quy phạm
có năng lực dẫn dắt con người hiểu rõ và hành trì để không đánh mất
đi lẽ chân thật. Tăng chính là hòa hợp chúng là sự tương hợp giữa sự
và lý.
a. Trụ trì Tam Bảo :
Tất cả những hình tượng bằng
ngọc ngà châu báu, tượng đắp, tượng vẽ đều là Phật bảo. Tất cả
những kinh điển cho đến trước tác của các vị Đại Đức tăng già đều
gọi là Pháp bảo. Tất cả những vị cạo đầu xuất gia mặc áo hoại sắc
thọ giới tu hành đều gọi là Tăng bảo, bởi vì sau khi đức Phật nhập
Niết Bàn, Phật giáo dựa vào Trụ trì Tam Bảo để duy trì mạng mạch, giữ
vững tinh thần và truyền bá chân lý nên được gọi là Thế gian trụ
trì Tam Bảo.
b. Hóa tướng Tam Bảo :
Trong suốt quá trình Đản Sanh, Thành
Đạo hóa độ tại Ấn Độ đức Thích Ca Mâu Ni được gọi là Phật bảo,
trong thời kỳ đó những giáo lý mà đức Phật dạy cho các đệ tử như
Tứ Thánh đế, Bát chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên .vv đều gọi là
Pháp bảo, những vị thánh đệ tử xuất gia tu hành đệ tử của Phật gọi
là Tăng bảo, đây đều là những tướng trạng về Tam Bảo khi Phật còn
tại thế đã ứng hóa ra nên gọi là hóa tướng Tam Bảo.
c. Nhất thể Tam Bảo :
Là trong Tam Bảo mỗi phần đều có đầy đủ công đức của các phần
khác : như Phật có năng lực giác chiếu nên gọi là Phật bảo, Phật lại
có khả năng thuyết pháp tự tại với Pháp, nên có năng lực quỷ trì, do
vậy trong Phật cũng có Pháp Bảo, Phật không mất thanh tịnh cho nên trong
Phật có đầy đủ Tăng bảo.
Bổn thể của pháp có năng lực
sanh ra Phật tánh của chư Phật cho nên Pháp có đầy đủ tính chất của
Phật bảo. Bản thân của Pháp có công năng quỷ trì cho nên Pháp là Pháp
bảo, các pháp bình đẳng không hề chướng ngại nên trong Pháp có đầy
đủ ý nghĩa của Tăng bảo, Tăng là người có trí quán chiếu nên Tăng có
tính chất của Phật bảo, Tăng cũng chính là người có công dụng quỷ
trì nên Tăng có tính chất Pháp bảo. Tăng là người có bản thể hòa hợp
nên tăng là Tăng bảo.
d. Lý thể Tam Bảo :
Là nói tất cả chúng sinh đều có đầy đủ bản chất của Tam Bảo trong
mỗi tự thân, điều này đứng trên hai phương diện:
d.1- Trên phương diện tu chứng : tất
cả phàm phu đều bởi Hoặc-Nghiệp-Khổ mà lưu chuyển trong sinh tử, nếu
có thể chuyển mê thành ngộ thì Hoặc trở thành Bát Nhã; Nghiệp sẽ trở
thành Giải thoát ; Khổ sẽ trở thành Pháp thân. Bát Nhã là Phật Bảo, Giải
Thóat gọi là Pháp Bảo, Pháp Thân gọi là Tăng Bảo.
d.2- Trên phương diện lý thể chân
như thì lý năng quán là Phật bảo, sự sở quán là Pháp bảo, sự lý nhất
như là Tăng bảo.
Thật ra Tam Bảo tuy chia làm bốn lọai nhưng chỉ có hai tính chất và
không vượt ra ngòai sự lý, sự tướng của Tam Bảo là hiện thực nên dể
hiểu còn lý thể của Tam Bảo là trừu tượng nên khó hiểu. Trừ khi chứng
đắc khai ngộ hiểu rõ tự tánh chân như nếu không thì sẽ cảm thấy mơ
hồ với ý nghĩa về lý thể Tam bảo. Như ngài Ấn Thuận giải thích: Nói
đến sự chân thật của quy y, thì từ xưa đến nay có rất nhiều cách
phân biệt, nay chỉ lược thuyết hai loại, 1/ Công đức vô lậu của Phật
là Phật Bảo tức là ngũ phần pháp thân (Giới định tuệ, Giải thóat
và Giải thoát tri kiến), hay vô thượng Tứ Trí Bồ đề có thể thâu nhiếp
tất cả công đức vô lậu, gọi là Phật bảo. Chánh pháp hoặc Niết Bàn
thì gọi là Pháp bảo, công đức vô lậu của hữu học vô học đều gọi
là Tăng bảo, nghĩa là các vị tứ hướng tứ quả hoặc Bồ Tát, Thanh Văn,
Bích Chi. 2/ Theo đại thừa sở thuyết giáo thì cứu cánh viên mãn hiển
bày nên pháp giới thanh tịnh, nhiếp đắc thể tướng nghiệp dụng thì
là Phật bảo hiển hiện được phần nào về pháp giới thanh tịnh thì
là Tăng bảo, biến khắp thập phương pháp giới mà không tăng không giảm,
pháp giới không nhị, không biên, chân như thật tướng thời gọi là Pháp
bảo. Nhất thể Tam Bảo, Lý thể Tam Bảo , thường trụ Tam Bảo đều là
cách giải thích không giống nhau về ý nghĩa này của Tam Bảo mà thôi.
Chúng ta là phàm phu nếu không có căn bản về Phật Pháp thì rất khó hiểu
được ý nghĩa của lý thể Tam Bảo, nhưng nếu chỉ cần tin vào sự tướng
của Tam Bảo, thì đến một lúc nào đó lý thể của Tam Bảo tự nhiên hiển
hiện cũng giống như người chưa từng vào trong không gian thì đối với
những cảnh tượng trong không gian cho dù những nhà khoa học có giải
thích tường tận như thế nào đi nữa chúng ta cũng khó lãnh hội được
toàn vẹn, chỉ có tự mình đi trong không gian mới có thể thấu rõ tường
tận, do vậy là phàm phu nếu có thể tín ngưỡng trụ trì Tam Bảo thời cũng
đủ rồi, nhưng chúng ta cần phải hiểu rằng không có trụ trì Tam Bảo
thì không thể hiển bày được lý thể Tam Bảo , nếu không có lý thể
Tam Bảo thời không xác lập được trụ trì Tam Bảo . Trụ trì Tam Bảo
là đại dụng của lý thể Tam Bảo, Lý thể Tam Bảo là toàn thể của trụ
trì Tam Bảo, tín ngưỡng Phật giáo thì phải bắt đầu từ sự tín ngưỡng
trụ trì Tam Bảo , mục đích của việc tín ngưỡng trụ trì Tam Bảo là
truy cầu sự hiển bày của lý thể Tam Bảo. Ngày nay có nhiều vị cư sĩ
tại gia chưa chứng được lý thể Tam Bảo đã lấy lý do chỉ tin lý thể
Tam Bảo mà không quy kính trụ trì Tam Bảo đó là hành vi của sự thối thất.
Người phàm phu chúng ta chỉ có thể thấy được sự tướng Tam Bảo còn
hóa tướng trong sự tướng Tam Bảo chỉ tồn tại khi phật còn tại thế,
sau khi Phật diệt độ chỉ còn lại trụ trì Tam Bảo, trong Tam Bảo Phật
là tối tôn tối quí, Pháp là tối cao tối thắng còn Tăng là tối trọng
tối yếu. Sau khi Phật diệt độ các cơ sở Phật giáo đều do Tăng bảo
trụ trì, kinh điển của Phật giáo đều do Tăng Bảo bảo tồn, văn hóa của
Phật giáo đều do Tăng bảo truyền bá, tín đồ của Phật giáo đều do
Tăng bảo chỉ dạy, khi Phật còn tại thế thì Phật giáo lấy Phật làm
trung tâm, sau khi Phật diệt độ thì Phật giáo lấy Tăng bảo làm trọng yếu,
cho nên ngày nay tín ngưỡng Phật giáo cần phải lấy Tăng bảo làm y cứ,
cung kỉnh Tam Bảo cũng phải lấy Tăng bảo làm nền móng. Mặc dầu trong Tăng
chúng có người này kẻ nọ, do vậy khi quy y cũng cần phải biết chọn Thầy
hiền làm sư, nhưng với tâm niệm cúng dường thì phải, phát tâm bình đẳng.
Trong kinh Phật dạy dù là Tỳ kheo phá giới vẫn đủ tư cách làm Thầy của
trời người, do vậy không được có tâm phân biệt cao thấp, càng không
được vọng tâm phê bình.
Quy y Tam Bảo vẫn bắt đầu từ
căn bản học Phật tin Phật, nhưng sau khi bước vào cửa Phật rồi cũng
không được rời bỏ căn bản này, mà phải từ căn bản này từng bước
đi lên, do vậy quy y Tam Bảo có năm lọai :
1- Phiên tà Tam quy tức là bước đầu
học Phật
2- Ngũ giới Tam quy tức là sau khi tin Phật rồi phải thọ ngũ giới.
3- Bát giới Tam quy tức là trong những ngày trai giới thọ trì Bát quan
trai.
4- Thập giới Tam quy tức là thọ trì Sa di Sa di ni giới.
5- Cụ túc giới Tam quy tức là Tỳ kheo, tỳ kheo ni đại giới.
Phàm khi thọ giới đều phải có Tam quy, từ bước đầu học Phật cho đến
thọ Ngũ giới, Bát giới, Thập giới đều lấy Tam quy làm nền tảng để
nạp thọ giới thể, Thức Xoa Ma Ni giới, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni giới đều
lấy pháp Yết ma để thọ giới nhưng trong quá trình thọ giới vẫn phải
hành pháp Tam quy. Cho đến người thọ đại thừa Bồ Tát giới, trước
khi sám hối và phát nguyện cũng đều phải thọ Tam quy. Do vậy tuy Tam quy
không phải giới nhưng là căn bản của hết thảy các giới. (Kỳ thật
trong Tam quy bao hàm cả giới nghĩa).
Tam quy không những là căn bản của các giới mà còn là căn bản của quá
trình tu tập hàng ngày, của tín đồ Phật giáo những thời kinh sớm tối
của các chùa đều có Tam quy, tất cả mọi công việc Phật sự cũng lấy
Tam quy làm nền tảng y cứ. Ở các nước Phật giáo Nam Truyền rất chú trọng
Tam quy, lấy việc xướng tụng Tam quy làm căn bản hành trì, lấy việc xướng
tụng Tam quy làm lời chúc nguyện.
C- LỢI ÍCH CỦA QUY Y TAM BẢO
Ích lợi của việc quy y Tam Bảo rất
nhiều, có thể cầu được hiện thế an lạc, có thể cầu cho đời sau an
lạc, càng có thể từ đây mà được sự an lạc cứu cánh của Niết Bàn
tịch tĩnh, tổng hợp lại có tám điều lợi ích :1/ trở thành đệ tử của
Phật. 2/ là nền tảng của việc thọ giới. 3/ có thể tiêu trừ nghiệp
chướng. 4/ có thể tích tập phước đức to lớn. 5/ không đọa ác đạo.
6/ Người và phi nhơn không thể làm hại. 7/ có thể thành công trong mọi
việc lớn. 8/ Có thể thành Phật.
Ích lợi của việc quy y Tam Bảo,
trong kinh Phật nói đến rất nhiều, nay chỉ đơn cử một vài ví dụ :
1. Kinh Ưu Bà Tắc giới có nói : Nếu người quy y Tam Bảo thời trong
tương lai sẽ được phước báo to lớn không thể cùng tận, ví như có
được của báu mà người trong cả nước vận chuyển trong bảy năm cũng
không hết được, công đức của việc quy y Tam Bảo còn lớn hơn thế gấp
ngàn vạn lần.
2. Kinh Triết Phù La Hán có nói xưa kia có một vị Thiên tử ở cung trời
Đao Lợi khi phước trời đã hết, Thiên tử tự biết sẽ bị đầu thai vào
loài Heo, rất lấy làm lo sợ liền thỉnh cầu Thiên vương cứu giúp,
Thiên vương không cứu được nên khuyên Thiên tử nên đến cầu cứu Phật.
Phật dạy Thiên tử quy y Tam Bảo, nên sau khi chết không đọa vào lòai
Heo, mà còn được sanh làm người, gặp Xá Lợi Phất học đạo chứng đắc
thánh quả.
3. Trong kinh Sát Cách Y Pháp Thiên Tử thọ Tam Quy có nói : Xưa có một vị
thiên tử ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên khi phước trời đã tận còn bảy
ngày nữa sẽ chết, những sự hoan lạc, những thiên nữ đẹp không còn
thân cận, những tướng mạo uy nghi đều đã thay đổi, mùi hôi bốc ra từ
thân thể và thiên tử cũng biết rằng sẽ bị đầu thai vào lòai súc
sinh, Thiên vương biết được liền dạy thiên tử phát tâm quy y Tam Bảo
sau bảy ngày thiên tử vãng sanh, Thiên vương muốn biết thiên tử sanh vào
đâu, nhưng không thể quán chiếu thấy được bèn đến hỏi Phật. Phật
liền dạy rằng : “Thiên tử nhờ công đức quy y Tam Bảo đã được sanh
lên cõi trời Đâu Suất”.
4. Kinh Hiệu Lượng Công Đức có nói : Nếu như có người xây Tháp cúng dường
tất cả chư vị Thánh nhân chứng đắc nhị thừa trong Đông, Tây, Nam, Bắc
tứ đại bộ châu, công đức tuy lớn nhưng vẫn không thể sánh bằng
công đức quy y Tam Bảo.
5. Kinh Mộc Hoạn Tử có nói ngày xưa có vị Tỳ kheo Sa Đẩu chuyên tụng
trì danh hiệu của Tam Bảo trong suốt mười năm, chứng đắc sơ quả Tu đà
hòan, nay ở tại thế giới Phổ Hương làm vị Bích Chi Phật.
Phật cũng đã từng dạy, nếu người quy y Tam Bảo
thì được tứ đại thiên vương, sai 36 vị thiện thần hộ trì, 36 vị
thiện thần này còn có trăm ngàn vạn ức hà sa quyến thuộc cũng theo hộ
trì người quy y Tam Bảo. Nhưng chúng ta cũng cần biết rằng, mặc dầu quy
y Tam Bảo có thể cầu hiện thế bình an nhưng mục đích cuối cùng của
việc quy y Tam Bảo vẫn là trở về và làm sống dậy tự tánh Tam Bảo
trong mỗi người mới đúng là quy y Tam Bảo chân chánh vậy.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/quyy.htm