Phật giáo theo hướng bắc truyền từ Ấn Độ qua Trung Hoa, Việt Nam…các nước
thuộc hệ thống Bắc truyền. Chư tổ kế thừa đức Phật, tuỳ
theo từng hoàn cảnh mà phân chia ra nhiều tông phái với những phương pháp
khác nhau nhằm phù hợp với truyền thống của từng xã hội.Với mục đích ấy,
chư tổ Việt Nam đã vận dụng giáo pháp đức Phật một cách tuỳ duyên và có
hiệu quả qua các thời kì phát triển Phật giáo ở Việt Nam. Mặc khác, Việt
Nam chịu nhiều cuộc chiến tranh và Phật giáo không khỏi chịu sự ảnh hưởng.
Chiến tranh dẫn đến một số người phải tỵ nạn ở các nước. Trong những đoàn
tỵ nạn, may thay cũng có những vị chân tu thạc đức, những vị đã làm nên
lịch sử một thời nơi đất khách. Trong bài viết này, người viết xin được
góp một chút hiểu biết của mình để nói về một tông phái Phật giáo có nguồn
gốc từ Việt Nam vào thời vua Gia Long tỵ nạn. Đó là phái Annam Nikaya hiện
sinh hoạt ở Thái Lan. Về đề tài này đã có nhiều vị giới thiệu với nhiều
khía cạnh. Trong bài này, người viết chỉ đề cập về sinh hoạt thường nhật
của phái này như góp thêm chút ít thông tin để chư vị hiểu thêm.
Bắc nguồn từ Việt Nam với pháp môn phổ biến là Tịnh Độ, nên khi qua Thái
Lan các vị tổ cũng tiếp tục hành trì pháp môn ấy. Thời khoá sinh hoạt vẫn
được duy trì ở hai thời khóa công phu sáng và chiều.
Buổi sáng bắt đầu từ 5 giờ, cùng với truyền thống Phật giáo Nam tông, chư
tăng phái này cũng đi khất thực. Tuy nhiên, sự hành trì khất thực không có
tính sinh tồn bắt buộc như Phật giáo Nam tông vì ở các chùa phái Annam đều
có nhà bếp để nấu cơm buổi trưa.
Sau khi trở về và điểm tâm sáng xong, chư tăng tập trung tụng kinh buổi
sáng vào lúc 8 giờ. Trong thời khoá này, Kinh Lăng Nghiêm và Thập Chú đựơc
áp dụng hành trì. Khoá lễ này tương tự như thời công phu khuya mà chư tăng
Việt Nam hiện đang trì tụng mỗi khuya. Lý do tại sao các vị tổ Việt Nam
không áp dụng thời công phu này vào thời điểm như ở Việt Nam? Có lẽ các vị
tổ đã uyển chuyển theo truyền thống Phật giáo truyền thống của quốc gia sở
tại. Nếu công phu khuya vào thời gian như ở Việt Nam thì chư tăng không
thể hành trì pháp khất thực được. Vả lại hầu hết các chùa Phật giáo nam
tông đều trì tụng kinh Pali vào buổi sáng cả. Dẫu sao, sự thay đổi ấy cũng
không làm ảnh hưởng kết quả hành trì.
Buổi trưa là bữa ăn chính thức của chư tăng. Tất cả từ hoà thượng viện chủ
cho đến chú điệu nhỏ nhất cũng phải tập trung đến nhà ăn để thọ trai. Nghi
thức cúng “quá đường”1 đơn giản hơn ở Việt Nam. Trước khi ăn,
chư tăng chỉ quán tưởng “tam đề ngũ quán”2 rồi thọ thực. Khi
thọ thực xong, tất cả đều tụng nghi “kiết trai”3 như ở Việt Nam
hành trì. Vào những tháng an cư, Phật tử về đông thì có thêm một hình thức
“rót nước” do Phật tử thực hiện biểu trưng cho sự truyền phước từ chư tăng
qua Phật tử và sự nhận phước từ chính việc họ làm. Ở Việt Nam, chúng ta
thường có nghi thức hồi hướng công đức và phục nguyện.
Buổi chiều, 4 giờ là thời công phu chiều. Nghi thức và kinh được trì tụng
tương tự như ở Việt Nam, tức là gồm Kinh Di Đà, Sám Hồng Danh và Mông Sơn
Thí Thực. Các thời khoá đều có dùng chuông mõ, khánh, linh đầy đủ. Sau
thời kinh này là thời gian tu tập tự túc hay học tập. Ở Thái Lan, phần lớn
các chùa Annam không có thời tịnh độ buổi tối. Tuy nhiên, các chùa thuộc
người Hoa thì lại có thời này. Lý do các chùa Annam không tụng kinh buổi
tối có lẽ vì các chùa này do người Thái trụ trì nên ít nhiều ảnh hưởng
truyền thống Nam tông và thuận theo hoàn cảnh riêng.
Như trên trình bày, chúng ta thấy không có gì đáng chú ý. Tuy nhiên, điều
làm nhiều vị tôn túc khi tham quan và trực tiếp chứng kiến các khoá lễ này
là tất cả các nghi thức này đều sử dụng âm tiếng Việt được phiên âm từ chữ
Hán. Nghĩa là các quyển kinh được in bằng chữ Hán như các bản kinh trước
đây chư tăng Việt Nam thường dùng, hoặc kinh bằng chữ Hán – Thái hoặc chỉ
bằng chữ Thái nhưng khi tụng thì hoàn toàn là âm tiếng Việt. Khi nhìn vào
chúng ta không đọc được, nhưng khi chư tăng Thái tụng lên chúng ta có thể
tụng theo một cách bình thường như ở Việt Nam. Các bản kinh chữ Hán dành
cho những vị giỏi chữ Hán sử dụng, còn hai bản kinh kia được dùng phổ biến
hiện nay. Điều này cũng dễ hiểu vì đó cũng là một cách Thái hoá kinh điển
cũng như ở Việt Nam Việt hoá kinh điển vậy. Nhưng có điều làm ngạc nhiên
là Thái hoá kinh điển nhưng khi tụng thì âm toàn tiếng Việt.
Vào các thời kinh, hầu như thời nào vị trụ trì cũng đều làm chủ lễ và
chính vị chủ lễ sử dụng cùng lúc chuông gia trì và mõ. Hình thức này hơi
khác biệt. Vào các ngày mồng 1 và rằm mỗi tháng đều có “nghi sám hối” mà
hình thức như nghi thù ân ở Việt Nam.
Về lễ phục, khi tụng kinh thì chư tăng đắp y hậu như chư tăng Việt Nam.
Màu sắc cũng không khác lắm. Tuy nhiên, y phục thường thì toàn màu vàng
như phái nam tông mặc dù kiểu mẫu thì khác nhau. Đây cũng là đặc trưng
riêng của phái này.
Về mặt ẩm thực, vào thời các vị tổ Việt Nam đều dùng chay tịnh. Thời gian
sau chư tăng người Thái theo phái này, vì còn chịu ảnh hưởng của Phật giáo
Nam truyền nên vẫn còn dùng “tam tịnh nhục”4 do các Phật tử
cúng. Tuy nhiên, do ý thức được sự lợi ích của việc ăn chay nên hầu hết
các vị trụ trì hiện nay đều ăn chay như Phật giáo Bắc truyền. Đó cũng là
một điều đáng được ghi nhận của tông phái này. Hơn nữa, các chùa Thái dù
thuộc phái nào cũng không dùng buổi chiều. Đây là truyền thống bắt buộc
của Nam tông vậy.
Phật giáo từ Ấn Độ truyền khắp thế giới trải qua hơn 2500 năm nhưng ngôn
ngữ Pali vẫn được các nước Phật giáo Nam truyền áp dụng trong việc trì
tụng kinh Phật. Sự thống nhất ấy thật hiếm thấy. Có lẽ đó là ngôn ngữ của
Phật nên đựơc Phật gia hộ!??? Còn về tiếng Việt, trải qua hơn 200 năm lịch
sử từ khi các vị tổ đặt chân trên đất Thái, Phật giáo phái Annam Nikaya
vẫn được duy trì và phát triển. Đặc biệt, việc trì tụng kinh theo âm tiếng
Việt cũng là một niềm hãnh diện về Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu ấy là những trăn trở và đáng để cho
chư tăng hải ngoại hiện ở các nước suy gẫm. Mặc dù có đến 17 ngôi chùa
phái Annam Nikaya hiện đang tồn tại ở Thái Lan nhưng chúng ta lại ít biết
đến, thậm chí nhiều người chưa nghe qua. Nguyên nhân trước hết là các chùa
này được xây dựng theo kiến trúc Phật giáo Trung Hoa nên mọi người đều
nghĩ là chùa của người Hoa. Điều đó cũng dễ hiểu vì ngay ở trong nước các
chùa cũng có kiến trúc tương tự chỉ có điều thêm vài chữ Việt nên dễ nhận
ra. Hơn nữa cộng đồng người Hoa sống ở Thái rất đông tạo thành một “China
Town” nên ai cũng nghĩ là chùa Hoa.
Thứ nữa và cũng là điều quan trọng nhất chính là không còn một vị tăng
người Việt nào trụ trì các chùa này. Tất cả các vị trụ trì hiện nay đều là
người Thái nên sự mai một là điều không tránh khỏi. Vì chư tăng Thái nên
họ dùng ngôn ngữ Thái trong sinh hoạt hằng ngày. Họ chỉ dùng tiếng Việt
khi tụng kinh nhưng chỉ âm tiếng Việt. Cho nên, chỉ có vài vị tôn túc
thông chữ Hán có thể hiểu, còn lại hầu hết lớp hậu học đều không thể hiểu
ý nghĩa. Trong xu thế phát triển xã hội hiện nay, dù các vị tôn túc cố
gắng rất nhiều để phát triển tông phái nhưng với đà hiện nay khó có triển
vọng. Trong tương lai, sự mai một và bị tông phái truyền thống đồng hoá
cũng có thể xảy ra. Thật đáng suy gẫm!
Ghi chú: (1,2,3) Xem các nghi thức này trong Kinh Nhật Tụng, Thành hội
Phật Giáo thành phố Hồ Chí Minh ấn hành.
(4) Là các loại thịt ta không thấy, không nghe, không biết người giết
chúng
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/truyenthong_AnnamNikaya.htm