Nghe tin ông mất, thật là đau xót vì từ
nay Phật giáo mất đi một người Phật tử trí thức chân chính và Viện
Nghiên Cứu mất đi một Phó Viện trưởng, nhà nghiên cứu, dịch giả… Mặc
dù ông ngã bệnh mấy tháng qua sau lần phẩu thật, nhưng nghe ông mất
thật là bất ngờ. Nói bất ngờ là vì tinh thần minh mẫn, và nghị lực phi
thường của ông ở tuổi 80 mà vẫn phục vụ tốt cho Viện Nghiên cứu nhiều
lĩnh vực.
Ông sinh năm 1920, mất vào lúc 3h45 ngày
25/04/2006 (28.03.Bính Tuất) thọ 87 tuổi. Có thể nói ông như một đại
thọ trong giới nghiên cứu và dịch thuật ở Việt Nam. Ông đã để lại cho
đời khoảng 20 đầu sách đã và đang in đồng thời hàng ngàn bài viết
mang tính nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử, xã hội văn hoá và tâm linh
Phật giáo.
Trong các giảng đường Đại học
ở xã hội hay trong Phật giáo điều có dấu ấn để lại của ông. Phong thái
thân thiện, cởi mở nhiệt tình khi giúp cho sinh viên hay những nhà
nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về văn hoá đất nước hay Phật giáo
Việt Nam ông điều sẳn lòng. Khi nghiên cứu được một vấn đề, hoặc có
một tư liệu quí hiếm liền giới thiệu, thậm chí vui vẻ cho photocopy.
“…Ông bảo: một cuốn sách thật sự có nghĩa khi được nhiều người tiếp
nhận, bởi đó là thông điệp của tác giả, nếu chúng ta quí hoặc trân
trọng mà đem cho nó vào tủ khoá lại thì tội nghiệp cho cuốn sách đó
lắm” Triết lý và nhân cách sống giản dị và khiêm tốn của ông đã để lại
một ấn tượng đẹp cho người tiếp xúc. Trong ông luôn thể hiện tính cách
của một chí sĩ, thẳng thắn bộc trực và phân định rõ ràng giữa cái
thiện và cái ác. Ông thường tâm đắc câu nói, “Uy vũ bất nan khuất, bần
tiện bất nan di”, nếu một người sống mà thiếu tính định hướng sẽ làm
cho cuộc sống không còn thú vị. Ông tâm sự, “Lẽ sống của một con người
khó lắm, vì vậy cần phải luôn giữ mình như chư Tổ thường dạy: “Bát
phong suy bất động”, chứ không thì chỉ cần vài trăm triệu là có thể
bắt mình khom lưng, sửa giọng và cuối cùng thì mình chẳng còn là mình
nữa. Ngày trước tôi nhờ thân phụ giáo dưỡng tốt, sau đó lớn lên vào
đời phục vụ cho nhiều tổ chức xã hội, điều đó đã giúp tôi thật nhiều
trong cách đối nhân xử thế!”
Mặc dù, là một vị Phật tử nhưng hoài bảo
và lòng nhiệt quyết của Ông như một vị Thượng Toạ đang gánh lấy trọng
trách của giáo hội giao phó. Vì vậy, sau khi nghỉ hưu Ông đã dành trọn
thời gian cho Phật pháp. Ông luôn ước vọng có một bộ Đại Tạng kinh
bằng tiếng Việt. Và nghi lễ Phật giáo phải được chuyển Việt ngữ, có
như thế thì người Phật tử Việt Nam mới hiểu và nhận trọn vẹn thông
điệp của Đức Phật. Vì lý tưởng đó, Ông chẳng quản gì đến sức cùng lực
tận mà vẫn ngày đêm sáng tác, dò bản thảo, dịch thuật để cung cấp tư
liệu cho Viện Nghiên Cứu, nhằm trợ duyên cho chư tôn đức hoàn thành
sớm bộ Đại tạng kinh Việt Nam. Ông thường tự nhũ: “Các quốc quốc gia
khác được ủng hộ hộ tốt nên họ sớm có Đại tạng. Còn ở ta, thiếu thốn
mọi bề, vì vậy không nên đòi hỏi đất nước đã làm gì cho Phật giáo, mà
nên tự hỏi Phật giáo đã làm gì cho đất nước, có như vậy mới xứng tầm 2
câu thơ. Mái chùa che chỡ hồn dân tộc, nếp sống môn đời của tổ tông”
Một lần nọ chúng tôi hỏi Ông,
động lực nào mà “Thầy” có được một khả năng làm việc không biết mõi
mệt và dường nguồn sống tràn đầy sinh lực, mặc dù đã trên 80? Ông bảo:
“ Tôi học theo gương của quí Ôn và được sự chỉ bảo tận tình của H.T
.Thích Minh Châu. Đồng thời tôi luôn áp dụng lời Phật dạy qua 4 bộ
kinh Nikāya, nắm được nguyên tắc, đến với giáo lý Phật đà là nên tìm
lõi cây chứ không chấp nhận cành hay lá, nhờ những lời dạy tương tự đó
nên tôi tâm tôi được nhiều an lạc; chứ thật tình tuổi cao sức yếu, lẽ
ra chỉ ở nhà hoặc xanh cỏ lâu rồi. Quả là Phật độ thôi!”
Đấy là một nét đẹp ở Ông, khó
tìm được một người giống ở thế kỷ thứ 21 này. Ông là người Phật tử,
nhưng lại am tường giáo lý sâu sắc nên bản thân chúng tôi vẫn xem ông
như một vị thầy bởi sự thể hiện tinh thần hội nhập “trần bất nhiễm
trần” tính triết lý của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ông như một vì sao
sáng giữa bầu trời Phật giáo, càng nhìn càng sáng!
- Sài gòn, ngày 25/04/2006
- Lệ Thọ