-
Tu sĩ và thế
giới hôm hay
-
(Bài góp ý trong Room Diệu
Pháp, PalTalk, ngày 28 tháng 10, 2005)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật,
Theo lời đề nghị của Thượng Tọa
Giác Đẳng, hôm nay, trong Room Diệu Pháp của PalTalk, chúng tôi xin mạo
muội trình bày sơ lược các nét chính về sinh hoạt của Tu viện Bodhinyana
(Giác Minh) và Ni viện Dhammasara (Tinh Pháp) tại tiểu bang Tây Úc, như là
một thí dụ về sinh hoạt tu học trong một xã hội Tây Phương.
Mặc dù là một trong những hội viên
lâu năm của Hội Phật Giáo Tây Úc (The Buddhist Society of Western
Australia) và có phước duyên được gần gũi chư Tăng Ni, chúng tôi chỉ là cư
sĩ Phật tử và vì thế, sự hiểu biết của chúng tôi về sinh hoạt Tăng đoàn
còn nhiều hạn chế. Kính mong quý vị hoan hỷ thông cảm cho những thiếu sót
của chúng tôi.
* * *
Kính thưa quý vị,
Hội Phật Giáo Tây Úc được thành
lập năm 1974 bởi Giáo sư Jayasuriya, người gốc Tích Lan, và một số Phật tử
tại thành phố Perth. Hiện nay, tổng số hội viên chính thức là 300 người,
gồm có người Úc gốc Âu Mỹ và các Phật tử gốc Á Đông như Thái lan, Lào,
Cam-pu-chia, Miến điện, Tích Lan, Mã Lai, Singapore, Trung Hoa, và Việt
Nam.
Lúc ban đầu, Hội mua được một ngôi
nhà nhỏ ở vùng North Perth để làm nơi thờ phượng và sinh hoạt giáo lý.
Thỉnh thoảng Hội mời thỉnh các danh tăng đến từ Thái Lan, Miến Ðiện, và
Tích Lan để giảng pháp và hướng dẫn các khóa tu thiền.
Ðến năm 1981, Hội thỉnh được hai
tu sĩ Phật Giáo người Úc -- nhưng tu học ở Thái Lan trong nhiều năm, đến
hoằng pháp tại Perth. Ðó là Tỳ khưu Jagaro và Purisso, thuộc truyền thống
Ẩn Lâm của ngài thiền sư Ajahn Chah, một vị thiền sư danh tiếng ở Thái
Lan. "Ajahn" (A-chàn) là tiếng Thái, có nghĩa là Thầy, bắt nguồn từ tiếng
Phạn "Acarya" (A-xà-lê).
*
1. Tu viện Bodhinyana
Sự có mặt của hai vị Tỳ khưu nầy
đã lôi cuốn được rất nhiều người Úc đến nghe giảng pháp và thực tập hành
thiền. Năm 1983, Hội mua được một thửa đất rừng nguyên sinh trong huyện
Serpentine, cách thành phố Perth khoảng 70 kílômét về hướng Nam để thành
lập một Tu viện. Tu viện nầy rộng khoảng 40 hécta, nằm trên một ngọn đồi
cao, có suối chảy ngang, với nhiều loại cây nguyên sinh, chưa khai phá. Vị
trụ trì hiện nay, và cũng là vị lãnh đạo tinh thần của Hội Phật Giáo Tây
Úc, là ngài Tỳ khưu Brahmavamso, người Anh, nhưng rất thông thạo tiếng
Thái và Pali.
Xem hình ảnh Tu viện Bodhinyana
tại trang web:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/z-photos/bodhinyana/bodhinyana.htm
Tu viện có tên là Bodhinyana (Giác
Minh), dựa theo pháp danh của Ngài Ajahn Chah, được dành làm nơi tu học
cho các vị Tỳ khưu. Trong khuôn viên của tu viện có một chánh điện lớn để
các vị Tỳ khưu tụ hội tham thiền, học kinh điển và giới luật. Phía sau là
một thư viện chứa các bộ Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pali, Thái, và Anh, và
các kinh sách quan trọng khác.
Ở gần chánh điện có một trai
đường, gồm 2 tầng. Tầng trên dành cho quý chư Tăng thọ trai và tiếp khách,
tầng dưới là nhà bếp và một phòng đa dụng dành cho các sinh hoạt của cư sĩ
đến làm công quả. Rải rác trong rừng là các tịnh thất nhỏ dành cho các Tỳ
khưu, mỗi vị một tịnh thất, với kích thước khoảng 3 x 3 mét, vừa đủ để một
giường ngủ và một bàn viết nhỏ. Bên ngoài mỗi tịnh thất là có một đường đi
ngắn khoảng 30 mét, có mái che để đi kinh hành.
Ngoài ra, còn có một khu nhà 4
phòng dành cho các giới tử tu học dài hạn, một nhà 3 phòng dành cho nam cư
sĩ và một nhà 3 phòng dành cho nữ cư sĩ đến tu học ngắn hạn.
Hiện nay, có nhiều Phật tử tại Tây
Úc cũng như từ các nơi khác trên thế giới đến xin ở lại tại tu viện để thọ
tám giới, hành thiền, và giúp điều hành tu viện; có thể xem như đó là các
cư sĩ hộ tăng, những ưu-bà-di (upasika) và u-bà-tắc (upasaka). Thông
thường, đây là những Phật tử thuần thành, có sinh hoạt thường xuyên với
Hội Phật giáo Tây Úc và từng tham gia nhiều khóa tu thiền ẩn cư do Hội tổ
chức. Sau đó, nếu phát tâm xuất gia, các vị này xin trở thành giới tử
(anagarika), mặc y phục trắng, cạo tóc, và tuân giữ 8 giới căn bản. Ngoài
công phu hành thiền và học tập giáo lý căn bản, các vị giới tử nầy cũng
được hướng dẫn các nghi thức căn bản và giới luật.
Sau một năm, vị giới tử xin thọ
giới Sa-di (samanera), giữ 10 giới. Điểm căn bản khác với hàng giới tử là
ngoài việc đắp y vàng nâu, các vị Sa-di không được phép cất giữ tiền bạc,
không được phép tự lái xe, nhưng vẫn có thể phụ với các giới tử để sửa
soạn thức ăn nếu cần thiết. Tuy nhiên, cũng như hàng Tỳ khưu, mỗi vị Sa-di
được cấp cho một tịnh thất riêng biệt. Lễ xuất gia Sa-di thường được tổ
chức tại Trung tâm Phật giáo Dhammaloka (Pháp Quang) ở thành phố Perth.
Xem hình ảnh Trung tâm Dhammaloka
tại:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/z-photos/dhammaloka/dhammaloka.htm
Sau một năm, nếu thích hợp, vị
Sa-di có thể xin thọ đại giới để trở thành Tỳ khưu (Bhikkhu). Tuy nhiên,
lễ thọ Đại giới Tỳ khưu thì được tổ chức trong chánh điện của Tu viện
Bodhinyana, nơi đã có kết giới Sima, theo đúng nghi thức truyền thống của
Phật giáo Nguyên thủy.
Các vị Tỳ khưu tại tu viện không cất giữ tiền bạc hay
sở hữu bất kỳ một hình thức tài sản riêng tư nào, hoàn toàn sống nhờ vào
sự cúng dường tứ vật dụng của hàng cư sĩ. Tất cả mọi việc có liên quan đến
chi thu tài chánh đều do các cư sĩ trong Ban Trị Sự của Hội Phật Giáo Tây
Úc quản lý. Trong bối cảnh hiện đại của nước Úc, các vị có giữ thêm một
thẻ Medicare do chính phủ cấp để được khám bệnh miễn phí mỗi khi đau ốm.
Cũng xin ghi nhận thêm là mặc dù ở Úc có quy chế bắt buộc mọi công dân
phải đi bầu phiếu mỗi khi có các cuộc tuyển cử Quốc hội Liên bang và Tiểu
bang, các vị Tỳ khưu đã xin đặc miễn, để không tham gia vào các hoạt động
đó.
Thông thường, vị Tỳ khưu thức giấc khoảng 4:00 giờ sáng
và hành thiền trong tịnh thất của mình. Điểm tâm tại trai đường lúc 6:30
giờ, nhưng cũng có vị không dùng điểm tâm. Sau đó là các công tác bảo quản
và điều hành tu viện. Bửa ăn chính vào khoảng 10:30 giờ sáng, thức ăn do
các cư sĩ mang đến cúng dường hay cho các giới tử nấu thêm. Các vị đều ăn
trong bình bát riêng của mình, cùng ngồi chung tại trai đường, hoặc ăn
riêng tại tịnh thất.
Phần thời gian còn lại trong ngày là ẩn cư tịnh tu.
Hành thiền tại tịnh thất, tự học kinh điển tại thư viện, hoặc có những giờ
tham vấn riêng với Sư Cả hay các vị sư cao hạ khác. Vào buổi chiều, khoảng
18:00 giờ, các vị tụ hội tại chánh điện, tụng đọc khóa lễ buổi chiều, sau
đó là uống trà, và bàn luận về các vấn đề liên quan đến sự tu học. Mỗi
tháng 2 lần, vào buổi tối, các vị Tỳ khưu tụ hội tại chánh điện để đọc
tụng giới bổn của tu sĩ, Patimokkha (Ba-la-đề Mộc-xoa).
Thỉnh thoảng, mỗi vị lại tự nhập thất tịnh tu biệt cư,
trong khoảng từ 2 tuần lễ đến 1 tháng, không giao tiếp với một người nào
khác.
Đôi khi các vị Tỳ khưu cũng được phép tháp tùng theo Sư
Cả hoặc các vị niên trưởng về thành phố Perth vào cuối tuần để thuyết
pháp, hoặc tham dự các khóa lễ cầu siêu, cầu an tại nhà của cư sĩ nếu có
thỉnh mời, hoặc tham dự hướng dẫn các khóa tu thiền dành cho cư sĩ, để
quan sát và học tập kinh nghiệm về cách thức thuyết giảng giáo pháp, các
khóa nghi lễ phổ thông, cũng như cách giao tiếp với hàng cư sĩ.
Sau khi tu học ở đây được 5 năm,
các vị Tỳ khưu được gửi đến các tu viện khác, thường là đến các nơi trong
cùng truyền thống của Ngài Ajahn Chah ở Thái Lan để tu học thêm. Ngoài ra,
các vị đó có thể đến tu học ở Miến Điện, Sri Lanka, Tân Tây Lan, và Anh
quốc. Mỗi năm vào mùa an cư kiết hạ, có thêm một số Tỳ khưu ở các nơi khác
đến tu viện để nhập hạ tịnh tu. Hiện nay, có tất cả là 20 vị Tỳ khưu đang
tu học tại đây, gồm nhiều thành phần sắc tộc khác nhau: Úc, Anh, Mỹ, Đức,
Na Uy, Thái, và kể cả 2 vị Tỳ-khưu gốc Việt. Với nhu cầu tu học ngày càng
phát triển, Ngài Ajahn Brahm đã mở thêm một tu viện chi nhánh ở tiểu bang
New South Wales, miền đông nước Úc, có tên là Tu viện Santi, cũng tọa lạc
trong khung cảnh núi rừng để tịnh tu.
*
2. Ni viện Dhammasara
Để cung ứng nhu cầu tu học của các
nữ Phật tử, vào năm 1999, Hội Phật Giáo Tây Úc mua thêm một thửa đất rừng
nguyên sinh, rộng khoảng 150 hécta, trong huyện Gidgeganup, 60 kilômét về
hướng Đông Bắc thành phố Perth, để thành lập Ni viện Dhammasara (Tinh
Pháp). Viện chủ hiện nay là Ni sư Vayama, người Úc, đã từng tu học 10 năm
với cố Ni sư Ayya Khema ở Sri Lanka.
Ni viện Dhammasara được thành lập
để tạo một môi trường thuận lợi và thích nghi cho việc tu học ẩn cư của
các vị nữ Phật tử, với những điều kiện tương tự như Tu viện Bodhinyana
dành cho các nam Phật tử.
Ni viện gồm có một nhà đa dụng,
trong đó có một trai đường rộng lớn, một phòng khách, nhà bếp, và 2 phòng
ngủ dành cho giới tử. Trong rừng sâu, có 5 tịnh thất biệt lập dành cho các
vị Tu nữ. Kiến trúc tịnh thất cũng tương tự như tịnh thất ở Tu viện
Bodhinyana: một phòng 3m x 3m, và một lối đi kinh hành dài 30m có mái che.
Có thể xem hình ảnh của Ni viện
tại:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/z-photos/dhammasara/dhammasara.htm
Những nữ Phật tử cư sĩ có thiện
tâm muốn xuất gia thì có thể xin đến thử tu học một thời gian từ 3 đến 6
tháng, mặc y phục trắng, giữ 8 giới. Sau đó, nếu thích hợp, có thể xin làm
giới tử, quấn y trắng, giữ 8 giới và cạo tóc. Sau 2 năm, vị nữ giới tử có
thể xin xuất gia thành Tu nữ, tuân giữ 10 giới, và đắp y màu nâu. Ngoài 10
giới căn bản, còn có một số điều lệ học giới, dựa theo giới bổn của Tỳ
khưu ni.
Cũng như các vị Tỳ khưu,
các vị Tu nữ ăn cơm trong bình bát, không cất giữ tiền
bạc hay sở hữu bất kỳ một hình thức tài sản riêng tư nào, hoàn toàn sống
nhờ vào sự cúng dường tứ vật dụng của hàng cư sĩ. Mọi vấn đề tài chánh để
điều hành Ni viện đều do các cư sĩ trong Ban Trị Sự của Hội Phật Giáo Tây
Úc quản lý.
Chương trình sinh hoạt hằng ngày tại Ni viện Dhammasara
cũng tương tự như lịch sinh hoạt của các vị Tỳ khưu tại Tu viện
Bodhinyana.
Hiện nay, Tu viện có 3 vị Tu nữ: Ni sư Vayama, Sư cô
Nirodha người Úc, và Sư cô Seri người Malaysia, và hai vị giới tử. Mỗi
tháng, Ni sư Vayama về thành phố Perth để giảng pháp và hướng dẫn hành
thiền cho các cư sĩ hội viên. Theo nội qui của
Hội Phật Giáo Tây Úc, Ni sư Vayama cùng với Ngài Ajahn Branhmavamso là hai
vị Cố vấn Tinh thần của Hội.
Ngoài tu viện Bodhinyana và ni viện Dhammasara ở Úc,
còn có một số tu viện khác của tăng sĩ Tây phương trong truyền thống Ẩn
Lâm của ngài Ajahn Chah, như: tu viện Abhayagiri ở Hoa Kỳ; ở Anh quốc có
các tu viện Amaravati, Ratanagiri, Cittaviveka, Santidhamma; ở Thụy Sĩ có
tu viện Dhammapala; ở Ý có tu viện Santacittarama; và ở Tân Tây Lan có tu
viện Bodhinyanarama. Nguyên tắc sinh hoạt tại các tu viện này cũng tương
tự như tu viện tại Tây Úc.
*
Kính thưa quý vị,
Nhìn chung, mặc dù môi trường và hoàn cảnh hiện nay
trong xã hội Tây Phương có phần khác biệt so với thời Đức Phật còn tại
thế, nhưng trong 20 năm qua, Tăng đoàn tại Tây Úc đã nỗ lực gầy dựng một
truyền thống tu học và gìn giữ giới luật theo đúng tinh thần của Phật giáo
Nguyên thủy. Điều này tùy thuộc nhiều yếu tố, nhưng có lẽ có 2 yếu tố quan
trọng nhất: Thứ nhất là sự quyết tâm tu học và hành trì giới luật nghiêm
túc của vị lãnh đạo Tăng chúng và các thành viên Tăng đoàn; và thứ hai là
sự quyết tâm hỗ trợ chư Tăng Ni và lòng thành tâm học tập, nhiệt tình đóng
góp tích cực vào các Phật sự của các vị cư sĩ hộ tăng, hộ tự nòng cốt của
Hội.
Thêm vào đó, chúng tôi nghĩ rằng để Phật giáo được
quảng bá và thật sự bám rễ tại môt quốc gia Âu Mỹ, các tu viện, tự viện
cần phải được mở rộng, vượt qua các rào cản về văn hóa, sắc tộc, để đón
nhận người dân bản địa. Hoạt động của Hội Phật giáo Tây Úc và hai tu viện
Bodhinyana và Dhammasara có thể xem như là một thí dụ điển hình. Đây không
phải là một hội Phật giáo dành riêng cho cộng đồng người Việt, hay người
Hoa, người Thái, người Miến, v.v... mà là hội Phật giáo của người Úc tại
xứ Úc. Các thành viên đến từ nhiều nguồn gốc sắc tộc khác nhau, nhưng tất
cả đều dùng tiếng Anh là ngôn ngữ chính, và các hình thức văn hóa phong
tục lễ nghi rườm rà, không cần thiết, mang đến từ Á Đông đều được gạn lọc,
chỉ giữ lại phần gốc tinh túy nhất của đạo Phật. Các vị tu sĩ giảng sư
hoặc là người bản địa, hoặc là người có thể thuyết giảng thông thạo bằng
tiếng bản xứ (ở đây là tiếng Anh). Các vị này cũng đã trải qua một quá
trình tu học nhiều năm tại một xã hội Phật giáo ở châu Á (Thái Lan, Sri
Lanka, Miến Điện) để thấm nhuần và thông hiểu tường tận các sinh hoạt và
nghi thức tinh yếu của Phật giáo. Thêm vào đó, một phần các sinh hoạt của
Hội cũng hướng đến mục đích cung ứng nhu cầu tâm linh của giới trẻ, giảng
giải Phật Pháp bằng những ngôn từ giản dị, hiện đại, thuận lý và mạch lạc,
hướng dẫn các khóa thiền thư dãn tâm trí, và khuyến khích hội viên tích
cực tham gia các công tác thiện nguyện, cứu trợ xã hội, v.v...
Đời sống xuất gia là một đời sống thanh cao, lý tưởng.
Những người cư sĩ tại gia chúng ta cần phải có nhiều đóng góp - thì giờ,
công sức, lẫn tiền bạc - để tạo điều kiện thuận lợi cho những vị nào thành
tâm tu học, nam tu sĩ lẫn nữ tu sĩ. Qua những gì chúng tôi quan sát được
tại Tây Úc, chúng ta cần khuyến khích giới Phật tử trẻ tham gia Phật sự,
nghe thuyết pháp, và hành thiền, để tạo duyên lành cho họ, để tạo những cơ
hội tốt cho họ xuất gia nếu thích hợp. Để tiếp nối con đường hoằng pháp
của các vị tiền bối, chúng ta phải hướng đến việc đào tạo lớp tu sĩ trẻ,
sinh ra hoặc trưởng thành tại bản địa.
Nếu vị Phật tử cư sĩ nào phát tâm xuất gia thì cũng cần
phải kiên nhẫn, để thực hiện từng bước, qua nhiều giai đoạn. Đầu tiên là
thường xuyên tham gia các khóa học Phật pháp phổ thông, các khóa thiền căn
bản, và cũng nên cố gắng học tụng đọc các bài kinh căn bản. Đời sống riêng
tư tại gia cũng cần phải giản dị hóa, giảm thiểu mọi ràng buộc, mọi nhu
cầu không cần thiết. Sau đó, nên thu xếp thì giờ để đến tu học ngắn hạn
tại tu viện, đóng góp Phật sự, gần gũi chư Tăng Ni, để làm quen với lối
sống tại đó. Dần dần, nếu cảm thấy thích hợp thì có thể tiến đến giai đoạn
lâu dài hơn, xin tu học như là giới tử, rồi thọ giới sa-di, tỳ khưu hoặc
là tu nữ.
Với những ai vì già yếu, hay bệnh tật, không thể sống
được tại tu viện, hoặc ở xa xôi, không thể tiếp cận được một tu viện thích
hợp, thì vẫn có thể tu ẩn cư tại nhà, giữ 8 giới. Tuy rằng phương cách nầy
có nhiều hạn chế, nhưng theo thiển ý, cũng là một phương cách tốt, một
phương cách tâm lý xuất gia, cũng có thể đưa đến nhiều kết quả tốt lành và
cao quý cho đời sống tâm linh.
* * *
Kính thưa quý vị,
Trong bài nầy, chúng tôi chỉ mạo muội trình bày tóm tắt
các sinh hoạt chính của chư Tăng Ni tại Tây Úc trong truyền thống Phật
giáo Nguyên thủy. Chúng tôi đã cố gắng trình bày một cách khách quan, qua
sự quan sát và ghi nhận của một người cư sĩ tại gia. Mỗi tu viện có đường
lối và nguyên tắc sinh hoạt riêng, không hoàn toàn giống nhau, tùy theo
hoàn cảnh và môi trường xã hội, văn hóa của từng địa phương. Những gì đã
trình bày trên đây không phải là một mẫu mực chung cho mọi nơi; mà chỉ có
thể xem như là một thí dụ để góp ý, không hẳn có thể thích nghi, áp dụng
được tại các địa phương khác.
Trước khi dứt lời, chúng tôi thành tâm kính chúc quý vị
thân tâm an lạc, tu hành tinh tấn trong hồng ân Tam Bảo.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Bình Anson
Perth, Tây Úc
27 tháng 10, 2005
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/tusi&thegioi.htm