-
THAM LUẬN:
-
VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO Ở XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI
-
Hội Thảo Quốc Tế “Phật Giáo trong Thời Hiện Đại: Cơ Hội & Thách Thức”
-
ngày 15 &
16/07/2006
tại Học Viện Phật Giáo Việt
Nam
TPHCM
A. LỜI MỞ ĐẦU
Thời hậu hiện đại là một minh chứng cho sự phát triển tột đỉnh trong
lãnh vực khoa học kỹ thuật, nhưng sự suy thoái về tư cách và đạo đức cũng
theo đó len lỏi vào. Quan điểm này đã được học giả nổi tiếng P.A. Payutto
phát biểu rất thuyết phục rằng:
Cùng
với sự tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt cái gọi là kỹ thuật cao đề cập đến những
thông tin liên lạc, ngày càng nhiều những công cụ làm việc mang lại hiệu
quả vì tính tham lam và lòng sân hận. Ngành kỹ thuật đã trở thành tai sai
của sự tham lam và lòng căm hờn, sự tiến bộ kỹ thuật trong hình thức phát
triển công nghiệp hầu như không giới hạn. Ngành khoa học, công nghệ và sự
tiến bộ kỹ thuật thông tin liên lạc thường ru ngũ con người vào trong sự
tiêu hũy, đần độn và say sưa lơ đà hơn là sự phát triển cá nhân hoặc sự
quân bình cuộc sống. Chúng được sử dụng như những công cụ để mưu cầu mục
đích khát vọng, và với việc làm như thế, khiến phát khởi lòng sân hận vì
sự ganh đua mà chúng tạo ra.
Ngài cũng nhận định với giọng nhấn mạnh và than phiền rằng sự phát
minh khoa học kỹ thuật như những công cụ mưu cầu mục đích khát vọng hơn là
sự phát triển nội tâm con người, và rằng con người ở thế kỷ 20 gây ra
nhiều hành vi nguy hại làm ảnh hưởng đến bản chất con người của thế kỷ 21.
Đó là một di sản của những vấn đề nan giải mà con người của thế kỷ 21 sẽ
phải đối phó.
Trên thực tế, di sản mà con người đề cập chính là những vấn đề rất nghiêm
trọng về sự gia tăng dân số, sự thoái hóa tài nguyên thiên nhiên và sự
khủng hoảng môi trường, đang đe dọa nền tảng của sự sống trên hành tinh
này, như Ngài H. H. Dalai Lama thứ 14 đã đề cập.
Hay nói cách khác, từ sự khủng hoảng đạo đức con người, nó đưa đến những
sự việc trầm trọng như: sự khủng bố và bạo động; chứng bệnh nan y và nguy
hiểm của HIV/AIDS; bệnh đồng tính luyến ái; sự hờ hững về nhân quyền và
các loài sinh vật; … Tất cả đều xuất phát từ ba phiền não (tham, sân, si)
của con người. Vì nhu cầu danh lợi, địa vị xã hội, tiền tài, vật chất,
chức tước, và nhiều sự mong muốn khác khau,… trong cuộc sống hiện đại; con
người đã trở thành tay sai cho sự tham lam, sân hận và si mê. Mặc dù, vị
ấy có thể chiến thắng và chinh phục thiên nhiên bằng tất cả những loại
phát minh khoa học tiên tiến, nhưng vẫn bị khuất phục và trói buột bởi sự
đau khổ của sanh, già, bệnh và chết trừ khi vị ấy biết tôn trọng và duy
trì sự tu tập đạo đức và nội tâm.
Đứng trước những tình huống hiện nay, làm thế nào để đối phó với
cái gọi là những làn sóng văn minh vật chất đang tấn công con người từ
nhiều phương diện khác nhau? Làm thế nào để duy trì truyền thống gia đình,
nhân cách và trật tự xã hội? Đề tài “Vai Trò của Tu Sĩ Phật Giáo ở Xã
Hội Đương Thời” không chỉ mở ra một tầm nhìn mới mẽ, năng động và sáng
tạo về hình ảnh người tu sĩ Phật giáo trong thời đại mới, với những phương
tiện thiện xảo về sự tu tập và tham gia xã hội, mà còn đóng góp cho sự
phát triển xã hội, Phật giáo, Tăng đoàn trong hiện tại và tương lai.
B. VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI MỚI
Như chúng ta biết, ngoài việc xiển dương Phật pháp đến số đông,
những vị tu sĩ Phật giáo với vai trò năng động tích cực nhập thế bằng
những phương tiện thiện xảo, cần phải tham gia và đóng một vai trò quan
trọng cần thiết trong việc xây dựng nền văn minh lành mạnh qua nhiều
phương diện giáo dục, văn hóa, đạo đức, từ thiện, và xã hội vì an lạc hạnh
phúc cho con người. Một quan điểm tích cực và năng động như thế được vị
thiền sư D.T. Suzuki diễn đạt rất thuyết phục rằng:
Trong những ngày nay, chùa chiền Phật giáo là những trường học, bệnh viện,
phòng khám bệnh, trại mồ côi, nơi nương tựa của những người già; và những
vị tu sĩ là những vị giáo viên, y tá, bác sĩ, kỹ sư, người quản lý nhà trọ
miễn phí, những người trồng trọt, những nhà thám hiểm ở vùng hoang dã, …Khi
cộng đồng đang trong giai đoạn tiến triển ban sơ, những người đệ tử Phật
là những nhà lãnh đạo trong mỗi chiều hướng, và chính quyền tự nhiên
khuyến khích về hoạt động của họ.
Thêm vào đó, Ngài Ajahn Tiradhammo Thera đã tô điểm thêm một đoạn
phát biểu rất lập luận trong lời nói đầu của ngài:
Một
người đệ tử Phật, đối với tôi không chỉ là người nào đó đơn thuần nằm lòng
những thể thức đúng đắn hoặc phải mặc đồng phục cần phải có, mà còn là
người sống một đời sống hành thiện trên tinh thần đúng với lẽ phải. Đây là
toàn bộ mục đích tối thượng về lời dạy của đức Phật. Một nhà hoạt động xã
hội khi ấy là người luôn sống với trí tuệ và lòng từ trong khung cảnh xã
hội; học tập để chia sẻ kho tàng tâm linh vị tha với tất cả chúng sanh.[5]
Hai quan điểm này không chỉ đủ để
thuyết phục những quan điểm khác, mà còn đủ để khẳng định vai trò tích cực
và khéo léo của người tu sĩ Phật giáo ngày nay. Theo quan điểm của người
viết, vai trò của người tu sĩ Phật giáo lý tưởng trong thời đại mới sẽ
được biểu lộ qua hai phương diện, đó là phương
diện đạo đức và xã hội. Phương diện đạo đức và trí tuệ thuộc về tự lợi đề
cập đến những nhu cầu tu tập và phát triển đạo đức cá nhân đối với người
tu sĩ Phật giáo. Phương diện xã hội chính là tinh thần lợi tha liên quan
đến vai trò tham gia xã hội của người tu sĩ với những phương tiện thiện
xảo. Vai trò này sẽ được biểu hiện qua mỗi phong cách khác nhau như
sau:
1.
NHƯ LÀ MỘT ‘BHIKKHU’
Khi đề cập đến thuật ngữ ‘Bhikkhu’, nó được dịch từ chữ
Pāli với ý nghĩa người được cứu tế, người hành khất, người tu sĩ Phật giáo,
hoặc vị linh mục;
và chữ Sanskṛit
là ‘Bhikṣu’
với nghĩa là vị ăn xin, người hành khất Phật giáo, hay là vị tu sĩ.
Theo nguyên từ, nó được bắt nguồn từ gốc Sanskrit là ‘bhikṣ’
có nghĩa là yêu cầu, mong muốn, cầu xin điều gì, … Vì vậy, nó có nghĩa là
người xin những nhu cầu cần thiết, đặc biệt xin người khác; hoặc nói khác,
nó có nghĩa là người hành khất tôn giáo.
Theo quan điểm Phật giáo, đức Phật giải thích rất ngắn gọn rằng một
Tỳ kheo được gọi chính thức với sự đầy đủ giới hạnh (Pāli: Sīla;
Skt: Śīla’)
và trí tuệ (Pāli: Paññā; Skt: Prajñā).
Hay nói rõ hơn, là một tu sĩ chân chính khi vị ấy không những xa rời sự
tham dục và những trạng thái xấu ác, mà còn thể nhập vào 4 trạng thái của
thiền định (Skt: Dhyānas; Pāli: Jhānas). Người tu sĩ như thế đáng được
kính trọng và được gọi là vi tu sĩ chân chính.
Hơn nữa, vị Tỳ kheo nên làm những công việc đáng làm như sự tu tập về đức
tính tàm quý, về thân-khẩu-ý hành thanh tịnh, về mạng sống thanh tịnh, sự
phòng hộ các căn, sự tiết độ trong ăn uống, sự chánh niệm và tỉnh giác;
và phải sống như hòn đảo của chính mình, hãy nương tựa chính mình, không
nương tựa ai khác, … để giải thoát mọi tham dục và phiền não thông thường
ở đời.
Cuối cùng, đức
Phật kết luận lời dạy của Ngài rằng
một tu sĩ Phật giáo hoàn hảo được đức
Phật đề cập với 8 đặc tính:
Khi
nào, này các Tỳ kheo, vị ấy có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có thuyết
pháp, có sống với hội chúng, có vô úy thuyết pháp cho hội chúng, với bốn
Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khăn,
chứng được không mệt mõi, chứng được không phí sức, do diệt tận các lậu
hoặc, ngay trong hiện tại, với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và
an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; như vậy, vị ấy được đầy đủ
chi phần ấy. Thành tựu 8 pháp này, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo được tịnh tín
hoàn toàn và được viên mãn về mọi phương diện.
Noi theo quan điểm của đức Phật, Ananda
Guruge một lần nữa đã biểu lộ vai trò của người tu sĩ Phật giáo qua một
lối văn phong khác rằng bổn phận của người tu sĩ có đức hạnh theo truyền
thống là nghiên cứu giáo pháp, chú tâm vào những công việc hàng ngày liên
quan đến sự tôn thờ đức Phật, phát triển lãnh vực tâm linh, vâng giữ các
điều luật về phẩm hạnh và cuộc sống hoàn hảo, …Đó là những nền tảng về đời
sống hoàn hảo của người tu sĩ.
2.
NHƯ LÀ MỘT HÀNH GIẢ
Với vai trò như một hành giả Phật giáo trong thời đại mới, vị ấy cần phải
ứng dụng và thực hành nguyên tắc tu tập cơ bản một cách tích cực linh động,
đó là sự tu tập Tam Vô Lậu Học
(the Threefold Higher Training)
Trước khi tu học Tam Vô Lậu,
người tu sĩ trong thời đại mới nên duy trì đúng đắn tinh thần vô ngã, vô
chấp, thiện xão và khéo léo trong khi thực hành pháp và luật; và cần thấu
triệt nghiêm túc rằng lời dạy của đức Phật và sự tu tập pháp luật giống
như chiếc bè đưa con người qua biển sanh tử đến bờ giải thoát. Vì thế,
người hành giả không nên cố chấp. Trong kinh Trung Bộ I, đức Phật
dạy: “Cũng vậy, này chư Tỳ kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt
đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỳ kheo, các ông cần hiểu ví dụ
chiếc bè. Chánh pháp còn phải bỏ huống nữa là phi pháp”.
Một phương diện khác tu tập ứng dụng thích hợp cho vị tu sĩ ngày nay chính
là tiến trình dần dần tu tập tâm linh để đạt được trí và thức hoàn toàn.
Phương pháp này được đức Phật minh họa bằng ví dụ về đại dương như sau:
Ví
như, này các Tỳ kheo, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng,
tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm. Cũng vậy, này các
Tỳ kheo, trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thụ
là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình
lình.
Sau khi thấu triệt tinh thần tu tập như ở trên, hành giả bắt đầu
thực hành nền tảng đầu tiên bằng sự tu tập về Tam Vô lậu Học (the
Threefold Higher Training) bao gồm Giới- Định -Tuệ như sau:
a. Sự tu tập về Giới
(P: Sīla; S: Śīla- Morality or Moral Conduct)
Trên phương diện tu tập, ‘Giới’ được dịch từ chữ
Pāli là Sīla mang ý nghĩa
là sự thực hành đạo đức, là đặc tính tốt, là đạo đức Phật giáo, và là mực
thước về đạo đức.
Theo từ Sanskrit là Śīla được đề
cập như tư cách đạo đức, là một trong 6 hay 10 Ba-la-mật (Skt: Pāramitās);
hoặc những quy tắc về đạo đức (đối với Phật giáo, có 5 quy tắc nền tảng
hoặc những điều luật về hạnh kiểm đạo đức).
Từ định nghĩa trên, chúng ta có thể kết luận rằng từ ‘Sīla, or
Śīla’ được dùng để nhấn mạnh ý nghĩa về tư cách và những quy tắc đạo
đức. Trong học thuyết Phật giáo, các điều luật về đạo đức đã đến với chúng
ta từ hình thức ban đầu với cái tên Pāṭimokkha
or Prātimokṣa
(Giới bổn),
(i.e. cơ bản là sự liệt kê toàn bộ mực thước về những điều luật,
hay được gọi là bổn phận), nó được tập hợp lại từ những điều luật khác
nhau trong Tạng luật (Vinaya Piṭaka),
bao gồm 227 giới
đối với Tỳ kheo Tăng và 250 giới thuộc Tỳ kheo ni,…
Khi đề cập về Giới (Sīla
or Śīla) trong Phật giáo, con người trước hết cần phải thấu triệt
đúng đắn về khái niệm của giới. Sự tuân thủ giới là nhằm vào ý thức đạo
đức cá nhân để giải thoát con người khỏi sự thống khổ của tham sân si. Vì
vậy, đức Phật đã dùng phương tiện thiện xảo để thiết lập các điều luật. Rõ
ràng rằng sự thực hành giới thì không là gì cả; nó chỉ là những phương
tiện tạm thời để giải thoát mọi phiền não khổ đau của con người, là chiếc
bè đưa người qua biển khổ, và là chiếc cầu bắt qua sông. Từ đây, chúng ta
có thể mạnh mẽ nói rằng sự thực hành giới sẽ không còn hữu dụng nữa nếu
như con người nhổ bật toàn bộ cội rễ phiền não và khổ đau từ nội tâm của
chính mình.
Trong thời hậu hiện đại, sự tu tập giới
sẽ được những hành giả Phật giáo tuân thủ với thái độ tích cực và sáng tạo
tùy theo những tình huống và thời đại khác nhau, đặc biệt trong thiên niên
kỷ thư ba này. Một phó từ nghi vấn có lẽ được đặt tại đây là tại sao? Như
chúng ta biết, là một con người, chúng ta dĩ nhiên được nuôi nấng bởi hai
loại thức ăn: (1) thức ăn vật chất bao gồm gạo, sữa, rau, đậu, mì, bắp… để
nuôi dưỡng thân vật chất cho chúng ta, và (2) thức ăn tinh thần bao gồm
những thú tiêu khiển của cuộc đời như ca hát, thể thao, bơi lội, đá banh,
tình yêu, … để thỏa mãn nhu cầu cho chúng ta về mặt tinh thần. Điều quan
trọng là khi tiếp nhận những thức ăn đó, chúng ta có thấu triệt được hoàn
toàn về những kết quả tốt hay xấu từ hành vi của chúng ta hay không? Có
nghĩa là chúng ta nên hiểu đúng đắn làm thế nào để tiếp nhận hai loại thức
ăn này mà không bị bội thực, không đưa đến kết quả tồi tệ, và không có sự
cấu uế hay bất tịnh trong thâm tâm của mình. Giống như một người đang khát
nước trên đường đi, vị ấy tìm kiếm nước uống, sau khi uống xong, vị ấy hết
khát và tiếp tục đi thẳng trên con đường mình đang đi mà không có sự luyến
tiếc hay say đắm vì nước, không có sự ràng buột và cấu uế trong thâm tâm.
Bằng việc làm như thế, vị ấy đã thực hành đúng đắn, thích hợp và năng động.
Và sự tuân thủ giới uyển chuyển như thế được gọi là sự tu tập Giới theo
phương pháp uyển chuyển, thích hợp và chuẩn mực.
Tương tự, đối với giới của Tăng lữ, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm một
vài ví dụ điển hình liên quan đến giới điều mà người đệ tử Phật cần phải
tu tập với thái độ uyển chuyển và tích cực như vài điều luật trong 10 giới
như: không sát sanh; không ca múa hát xướng; không dùng giường cao tốt đẹp
và rộng lớn; không cất giữ vàng bạc châu báu, không ăn phi thời;
….
Có nghĩa là làm thế nào người đệ tử Phật xử sự và duy trì những giới điều
này khi một vài sinh vật độc hại (như: muỗi độc, ruồi, bò cạp, rắn độc…)
gây ra những bệnh truyền nhiễm, thương tích hoặc đi đến cái chết đối với
con người (như dịch cúm gia cầm hiện nay); hoặc khi vị ấy không có tiền để
chi phí cho việc học hành, xe cộ, các cuộc họp ngoại giao quốc tế, hay xây
dựng chùa chiền, tự viện, trường Phật học…; hoặc khi vị ấy được mời tham
gia trong các buổi hội thảo quốc tế ở nước ngoài và được bố trí ở tại
khách sạn sang trọng; hay khi các vị Tăng Ni sinh trẻ ăn uống phi thời vì
thời khóa biểu học tập ở các trường Đại học, học viện; … Đó là một vài ví
dụ tiêu biểu đủ để cho chúng ta hiểu rằng sự tu tập giới điều đối với Tăng
lữ ngày nay không nên giữ một thái độ cố chấp, bảo thủ; mà ngược lại họ
cần phải ứng dụng và thực hành sự tu tập đó với một tinh thần uyển chuyển,
đúng đắn, sáng tạo và tích cực để thể nhập vào những tình huống và hoàn
cảnh mới trong cuộc sống hiện đại. Đây chính là ý nghĩa tích cực về sự
thực hành giới luật của Phật giáo ngày nay.
b. Sự tu tập Định (Samàdhi)
Thuật ngữ Sanskrit and Pāli ‘Samādhi’ được bắt nguồn gốc từ ‘dhā’
nghĩa là ‘đặt, để’ cùng với tiếp đầu ngữ ‘sam’ và tiểu từ nhấn mạnh
‘ā’. Nó có nghĩa là ‘đặt lại với nhau’. Nghĩa bóng của từ ‘Samādhi’
được dùng trong Thánh điển Pàli Phật giáo với ý nghĩa là Định hay Thiền
định
(concentration or meditation) Tương tự, Samādhi có nghĩa ‘buột vào
nhau, hợp lại hoặc kết hợp với.’
Một sự giải thích rõ ràng hơn về từ Samādhi được bắt nguồn gốc từ dhā
và cùng tiếp đầu ngữ với sam và ā (sam + ā + dhā) do đó
mang nghĩa ‘Định’ (concentration). Nó là một trạng thái chăm chú,
bình tĩnh và tập trung của tâm và định mà nó đi kèm với lối sống thiện là
điều kiện cần thiết để đạt được trí tuệ và giải thoát.
Thêm vào đó, nhiều học giả khác đã đưa ra lời giải thích về Samādhi
rằng nó là sự nhất tâm, là sự tập trung của tâm về một đối tượng để loại
trừ toàn bộ tất cả những cái khác.
Theo truyền thống, người ta có thể hiểu lời dạy của đức Phật về Định mà
người tu sĩ Phật giáo cần tu tập là loại trừ năm triền cái (Skt. & Pāli:
Nīvaraṇās)
trong bản thân bằng thiền định, xa rời tham dục và từ bỏ tính khí bất
thiện; vị ấy tuần tự chứng và trú vào Sơ thiền (the first dhyāna), Nhị
thiền (the second dhyāna), Tam thiền (the third dhyāna), và Tứ thiền (the
fourth dhyāna)
Tâm vị ấy trở nên tịch tĩnh, nhất tâm. Sự chuyên chú như thế gọi là ‘Định
hoàn hảo’
Trên thực tế, xuyên qua những khái niệm về Định, người đệ tử Phật cần thấu
triệt rằng sự tu tập thiền định không có nghĩa là ngồi im bất động trong
khi thiền, mà phải được biểu lộ qua những công việc và lối sống hàng ngày
để thích nghi với những tình huống xã hội hiện nay. Có nghĩa là vị ấy tu
tập thiền định bằng cách luôn duy trì trạng thái chánh niệm và tỉnh giác
trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, ăn uống, ngủ nghĩ, lái xe, học tập,
tắm rữa, đọc sách, … Nói chung, tất cả những công việc và sự tu tập hàng
ngày được dẫn dắt bởi sự chánh niệm và tỉnh giác. Từ quan điểm trên, chúng
ta có thể suy luận rằng khi một hành giả đang lái xe hoặc bất kỳ loại xe
tải nào, vị ấy luôn giữ chánh niệm, tỉnh giác và luôn ý thức nghiêm chỉnh
khi đang lái xe, không có sự sao lãng và thờ ơ, không đưa đến kết quả bất
lợi, và luôn an toàn, … việc lái xe như thế được gọi là thiền trong khi
lái xe. Cũng vậy, những công việc và sự tu tập hàng ngày khác cũng đều
tương tự. Đây chính là ý nghĩa tu tập Định của Phật giáo mộït cách tích
cực và năng động trong thời hậu hiện đại.
c. Sự tu tập Tuệ (Pañña or Prajña)
Thuật ngữ Prajña (Skt.) or Pañña (Pāli) được bắt nguồn gốc từ ‘jña’
(sự hiểu biết) khi tiếp đầu ngữ ‘pra’
được thêm vào để mang ý nghĩa là ‘trí tuệ, sự hiểu biết, sự nhận thức đúng
đắn, sự nhận ra, cách phán xét, sự thấu triệt, sự hiểu biết về trực giác,
…’
Trong các bộ kinh thuộc truyền thống Nikāya, chúng ta có thể nhận thấy lời
dạy của đức Phật về Prajña hay Pañña (Pāli) rằng vị nào nhận biết như thật
về sự tập khởi, sự diệt trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu
chỗ xuất xứ, vị ấy sẽ có một sự hiểu biết vượt ngoài những điều trên.
Mặt khác, đức Phật nhấn mạnh rằng người đệ tử Phật không chỉ thấu triệt
hoàn toàn về nguồn gốc Duyên Khởi (Skt: Pratāya-samutpāda; Pāli:
Paticca-samuppāda; the Law of Dependent Origination) bắt nguồn từ vô minh
và tham ái, mà còn thấu hiểu đúng đắn về con đường chơn chánh đưa đến sự
tận diệt hoàn toàn các khổ uẩn bằng cách làm mất dần hoàn toàn tham ái và
đoạn diệt vô minh.
Ngày nay, bước vào thiên niên kỷ thứ ba, người đệ tử Phật tu tập trí tuệ
bằng cách thực hành chánh kiến và chánh tư duy. Có nghĩa rằng vị ấy cần
thấu triệt hoàn toàn lời dạy của đức Phật bao gồm Kinh (Discourses-
Sūtra), Luật (Disciplines-Vinaya) và Luận (Super Doctrine-AbhiDhamma)
để ứng dụng đúng đắn vào sự tu tập tâm; truyền bá giáo pháp tùy theo căn
cơ trình độ của con người; thấu suốt triệt để về Lý Nhơn Quả (the theory
of Cause and Effect) đưa đến kết quả thiện ác từ hành động, về Lý
Duyên Khởi (the theory of Dependent Origination) bắt nguồn từ vô
minh và tham dục của toàn bộ khổ uẩn, và đối với Tứ Đế (the Four Noble
Truths) cũng như Bát Chánh Đạo (the Eightfold Path) đưa đến sự đoạn diệt
hoàn toàn các khổ uẩn, đạt đến Niết bàn, giải thoát và giác ngộ tối thượng.
Ý nghĩa về Tuệ như thế được gọi là sự tu tập Tuệ với nghĩa đúng đắn và
thích hợp.
Nói chung, trong mối liên hệ mật thiết về Tam Vô Lậu Học, chúng
ta có thể nhận thấy rằng Giới - Định - Tuệ được phối hợp chặt chẽ và tác
động hỗ tương với nhau trên tiến trình tu tập giải thoát giác ngộ. Chính
vì vậy, đức Phật đã khẳng định quan điểm này trong Kinh Trường Bộ:
Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả
vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích
lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc,
tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.
Từ ý nghĩa trên, chúng ta có thể khẳng
định mạnh mẽ rằng Giới-Định-
Tuệ được xem như kiềng ba chân, vì nếu
thiếu một trong ba thì nó không thể đứng vững vàng trên mặt đất được. Sự
tu tập Tam Vô lậu cũng vậy. Nếu sự tuân thủ Giới mà không có sự hiện hữu
của Định và Tuệ, nó trở thành sự tuân thủ giới một cách cố chấp. Và sự
tuân thủ Định và Tuệ cũng như vậy. Quan điểm này đã được chuẩn y qua lời
dạy đầy súc tích của đức Phật như sau:
Giới, định và trí tuệ – Với ai khéo tu tập,
Vị ấy vượt qua khỏi – Thế lực của Ác ma,
Và chói sáng rực sáng – Như mặt trời chói sáng.
Ngoài việc tu tập Tam Vô Lậu Học,
một hành giả Phật giáo trong thiên niên kỷ thứ ba cần nên trao dồi tích
cực và ứng dụng khéo léo thêm về pháp môn Tứ Nhiếp Pháp
(Four Means of Attraction - Saṃgraha-vastu)
bao gồm bố thí (gift-giving, dāna), ái ngữ (kindly speech,
piyavaca or priyavacana), lợi hành (beneficial actions, arthacaryā
or atthacariyā) và đồng sự (sympathy, samanatthatā or samānārthatā);
Ngũ Minh
(Fivefold Learning - Pañcavidyā) bao gồm y phương minh (medical
science, cikitsāvidya), công xảo minh (professional skillfulness,
śilpakarmasthānavidya), nhân minh (logic, hetuvidya), thanh
minh (phonetics and languages, sabdavidya), nội minh (buddhist
studies, adhyātmavidya); các bộ môn khoa học hiện đại liên hệ đến Phật
giáo (như là: các tôn giáo thế giới, khoa học xã hội, thông tin và những
phương tiện liên lạc và mạng lưới internet hiện đại…) để phục vụ
cho công việc hoằng pháp vì lợi ích và an lạc hạnh phúc cho tất cả chúng
sanh, cho cuộc sống nhân loại và cho xã hội ngày nay.
3.
NHƯ LÀ NHÀ TRUYỀN GIÁO
Theo quan điểm của người viết, vai trò tham gia xã hội và hoằng pháp độ
sanh của một nhà truyền bá Phật giáo trong thời hiện đại được gói gọn
trong hai phương diện, đó là (1) truyền thừa Phật pháp tùy theo căn cơ của
thính giả và (2) tham gia xã hội dựa trên tinh thần tùy duyên bất biến,
như sau:
a.
Truyền thừa Phật pháp tùy theo căn cơ của thính giả
Đới với một nhà truyền bá Phật giáo, đức Phật xác định rõ ràng rằng nếu Tỳ
kheo thuyết pháp và thực hành pháp yếm ly, ly tham, đoạn diệt già và chết,
như vậy đủ để được gọi là Tỳ kheo thuyết pháp.
Lại nữa, trong khi thuyết pháp, người truyền giáo chỉ nói lời khéo nói,
không nói lời vụng nói; chỉ nói lời đúng pháp, không nói lời phi pháp; chỉ
nói lời khả ái, không nói lời phi khả ái; chỉ nói lời đúng sự thật, không
nói lời không đúng sự thật.
Hơn nữa, người truyền giáo khuyến khích những người khác không chỉ tu tập
và nói phù hợp với lễ giáo, mà còn đưa ra những quan điểm hợp theo chánh
pháp. Quan điểm này được đức Phật răn dạy vị Tỳ kheo nên thành tựu ba pháp
(1) khuyến khích các thân nghiệp tùy thuận, (2) khuyến khích các ngữ
nghiệp tùy thuận, và (3) khuyến khích các ý nghiệp tùy thuận. Thành tựu
với ba pháp này, một vị Tỳ kheo có danh tiếng, sống đem lại hạnh phúc cho
đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc, an lạc cho
chư thiên và loài người.
Đặc biệt, đức Phật nhấn mạnh về phẩm chất của vị truyền giáo rằng một nhà
truyền giáo cần phải liễu giải nghĩa và liễu giải pháp, và người nghe pháp
cũng vậy. Cả người dạy và người nghe đều phải liễu giải nghĩa và pháp. Đó
là ba phẩm chất làm nền tảng đối với người giảng dạy giáo pháp cho người
khác.
Ngày nay, một nhà truyền bá Phật giáo khi muốn hoằng pháp theo căn cơ của
thính giả, cần phải thông thạo về tâm lý học và xã hội học. Vì sao? Vì tâm
lý học sẽ giúp vị ấy hiểu rõ về những đặc tính tư tưởng của con người và
bản chất cũng như cư xử tâm lý của mỗi cá nhân trong xã hội hầu ứng dụng
giáo lý thích hợp vào trình độ căn cơ của thính giả. Xã hội học sẽ giúp vị
ấy hiểu được những mối quan hệ giữa con người sống trong quần thể, đặc
biệt là trong xã hội công nghiệp. Từ đó, khi hoằng pháp, vị ấy có thể ứng
xử đúng mức đối với nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Chúng ta có thể
đưa ra vài ví dụ thực tế và tiêu biểu rằng khi thuyết giáo cho những thính
giả có tính khí năng động, sáng tạo và thẳng thắn, một nhà truyền bá Phật
giáo sẽ thuyết giáo với lời nói năng động, sáng tạo và thẳng thắn; với
người có bản tính lịch thiệp và phóng khoáng, vị ấy sẽ thuyết giảng với
lời nói lịch sự và cởi mở; với người khó tính và ít nói, vị ấy sẽ dùng lời
nói súc tích và hợp lý; với những đối tượng lãng mạn và dễ xúc cảm, vị ấy
sẽ cư xử một cách nhẹ nhàng, tử tế và văn hoa; với người trí thức, vị ấy
sẽ dùng lời nói trí thức và gia giáo; hoặc với những người thuộc nhiều
tầng lớp khác nhau như bác sĩ, kỹ sư, công nhân, nhân viên, quan chức, nhà
khoa học, nhà triết học, nhà tâm lý, sinh viên, học giả, thi sĩ, nhà văn,…,
lời thuyết giảng của vị ấy sẽ tương xứng với kiến thức, nghề nghiệp và vị
trí của họ trong xã hội. Với một lối thuyết giảng khéo léo như thế, người
truyền bá Phật giáo không những sẽ thành công trong vai trò và nhiệm vụ
tôn giáo, mà còn thích hợp cả trình độ căn cơ của thính giả và tinh thần
truyền bá Phật giáo năng động bằng những phương tiện thiện xảo ngày nay.
b. Tham gia xã hội dựa trên tinh thần tùy duyên bất biến
Ngay tại đây, một câu hỏi rất hợp lý và thực tiễn được đặt ra rằng muốn
làm vơi đi nỗi đau khổ về tinh thần của con người và sự khủng hoảng xã hội
hiện nay, một nhà truyền bá Phật giáo trong thời đại mới cần phải làm gì
và bằng cách nào để thực hiện vai trò tham gia xã hội của mình?
Trở về thời của đức Phật, bản thân Ngài, với vai trò là một vị Đạo
sư cũng như một nhà truyền bá với những phương tiện thiện xảo phục vụ xã
hội trong suốt 45 năm, Ngài chưa từng ruồng bỏ xã hội; ngược lại, chính
Ngài lại tham gia nhiều lãnh vực chính trị, xã hội, văn hóa khác nhau mà
vẫn không thay đổi bản chất Phật của mình với mục đích duy nhất là ‘vì an
lạc hạnh phúc số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì sự lợi ích, an lạc,
hạnh phúc cho Chư thiên và loài người.’ Ngài không chỉ hướng dẫn các hàng
vua chúa làm thế nào mang lại cuộc sống sung túc và hạnh phúc cho bá tánh;
mà còn khuyến khích và chỉ dạy con người làm thế nào để biểu hiện những
phong cách và thái độ tốt đẹp với nhau trong lề lối đạo đức đúng đắn, đặc
biệt trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, chồng và vợ, chủ và tớ, và
bạn bè với nhau…
Bước vào ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ ba, một nhà truyền bá Phật
giáo của thế hệ trẻ hậu tấn, ngoài việc noi gương tham gia xã hội khéo léo
của đức Phật và chư vị tiền bối lỗi lạc Phật giáo, cần thực hiện tích cực
vai trò thiết thực của mình qua hai phương diện chủ yếu: xã hội và kinh tế
với những phương tiện thiện xảo như sau:
b1. Phương diện xã hội
Để đối diện với những vấn đề khủng hoảng xã hội hiện nay như: môi trường
sinh thái, bệnh dịch HIV/AIDS, bệnh đồng tính luyến ái, nạn mại dâm, chiến
tranh, bạo động và khủng bố, tình yêu, tình dục và hôn nhân…; một nhà
truyền bá Phật giáo không những nắm bắt thấu đáo về các tình huống xã hội
và tính khí con người hiện nay, mà còn thực hiện khéo léo làm thế nào để
giãm bớt nỗi khổ đau và khủng hoảng xã hội. Ở đây, chúng ta sẽ nghiên cứu
và thảo luận vài trường hợp tiêu biểu liên quan đến từng vấn đề sau đây:
Với môi trường sinh thái, đặc biệt về những thảm họa về ô nhiễm
không khí, một nhà truyền bá Phật giáo một mặt giải thích súc tích và hợp
lý cho con người về giá trị và tầm quan trọng thực tế môi trường sinh thái;
khuyến khích họ biết tôn trọng, bảo vệ và duy trì mạng sống của nhân loại,
các loài thuẹc vật, động vật và thiên nhiên; và mặt khác kết hợp với họ
trồng cây gây rừng, tôn trọng, bảo vệ tất cả các loài thực vật và động vật,
giữ gìn không khí và nguồn nước trong sạch và không ô nhiễm, … Một hành
động khéo léo như thế sẽ làm giãm bớt sự đau khổ tinh thần cho con người
và sự khủng hoảng môi trường sinh thái.
Với bệnh dịch HIV/AIDS,
người truyền bá lý tưởng trước hết cần thấu hiểu rõ ràng về ý nghĩa và
nguyên nhân bệnh dịch HIV/AIDS. Đó là bệnh nhiễm vi rút thiếu hụt hệ thống
miễn dịch con người (HIV: Human Immunodeficiency Virus) gây ra hội
chứng liệt kháng thể (AIDS: Acquired Immune Deficiency Syndrome)
qua ba đường truyền chính: quan hệ sinh lý với người bị nhiễm; truyền máu
của người bị nhiễm; và người mẹ bị nhiễm đang mang thai.
Kế đến, vị ấy kết hợp với những đoàn thể xã hội thành lập và tham gia vào
việc tuyên truyền cho mọi người về cách ngăn ngừa bệnh dịch HIV/AIDS; theo
dõi chăm sóc thuốc men kỹ lưỡng, chăm sóc những bệnh nhân bị nhiễm
HIV/AIDS ở giai đoạn cuối; ủng hộ những bệnh nhân mới bị nhiễm HIV/AIDS
bằng cách đào tạo hướng nghiệp, khuyên nhũ họ theo tâm lý, hướng dẫn
phương pháp thiền định của Phật giáo một cách có hiệu quả và có lợi, tạo
ra những thú tiêu khiển lành mạnh và các môn thể thao ưa thích (như: bóng
đá, bơi lội, cầu lông, võ thuật, …), … hầu làm cho họ tăng thêm sức đề
kháng mạnh mẽ.
Việc làm như thế không chỉ làm giãm đi bệnh dịch HIV/AIDS mà còn giãm đi
những tai họa cho xã hội.
Đối với nạn mại dâm
và bệnh đồng tính luyến ái,
đó là những vấn đề vô cùng phức tạp nhưng rất tế nhị gây nhiều cuộc tranh
luận và sự giải thích từ những quan điểm của các nhà học giả nổi tiếng,
đặc biệt là bệnh đồng tính luyến ái. Đối với nạn mại dâm, nó chính là
nguyên nhân chủ chốt dẫn đến bệnh dịch HIV/AIDS từ việc quan hệ tình dục
con người, và dẫn đến tai họa cho xã hội. Để tháo gỡ tế nhị về những vấn
đề phức tạp này, một nhà truyền bá Phật giáo cần cư xử tốt với họ bằng
những phương tiện thiện xảo của mình như: đối với những người đồng tính
luyến ái, vị ấy thực hiện vai trò tích cực bằng cách khuyên răn và hướng
dẫn chuyên nghiệp về tâm lý sống, về giá trị của một con người đúng đắn,
về những hậu quả tai hại từ những hành vi không hợp lý và không tự nhiên
của con người; khêu gợi dần dần dục tình của họ bằng cách khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi về sự quan hệ với người khác giới tính từng bước
một; khuyến khích những môn thể thao và những thú vui lành mạnh cũng như
chuyển đổi liệu pháp tâm lý hoóc môn và diện mạo cơ thể bên ngoài của họ
để thích hợp với tâm lý giới tính thật sự của họ. Với những người mại dâm,
vị ấy hướng dẫn khóa học đào tạo hướng nghiệp đặc biệt cho họ, tìm cho họ
những công việc đúng đắn và thích hợp, và dùng những lời khuyên chuyên
nghiệp về tâm lý sống, về giá trị của một con người đúng đắn, về những hậu
quả tai hại từ những hành vi không hợp lý và không tự nhiên của con người…Một
vai trò sáng tạo và khéo léo như thế sẽ làm mất dần về nhũng vấn đề nan
giải của xã hội ngày nay.
Về vấn đề chiến tranh, bạo động và khủng bố, người truyền bá Phật
giáo đầu tiên trao đổi với họ bằng những lời giải thích đầy thuyết phục và
những bằng chứng thực tế về những thiệt hại trầm trọng cho con người và xã
hội từ những hành vi chiến tranh, bạo động và khủng bố; sau đó khuyến
khích và hướng dẫn họ một cách khéo léo thực hành tinh thần bất bạo động
của Phật giáo (non-violence - ahiṃsā)
bằng cách tu tập lòng từ và sự đồng cảm vì hòa bình, hạnh phúc và an lạc
thật sự cho mình và cho tất cả chúng sanh. Thật sự, chính việc thực hành
bất bạo động này không những hàn gắn lại vết thương chiến tranh, xung dột
và bạo động cũng như làm giãm đi tất cả những tai họa cho con người và xã
hội; mà còn xây dựng một xã hội hòa bình và lành mạnh, cũng như thắt chặt
nguyên tắc quý trọng về sự bình đẳng, hữu nghị và tự do.
Tình dục, tình yêu và hôn nhân
là ba vấn đề quan trọng và cần thiết đối với cuộc sống chúng sanh nói
chung và con người nói riêng, đặc biệt về cuộc sống hôn nhân; ngược lại,
ba điểm này cũng có thể làm cho con người đau khổ và bất hạnh trong nhiều
phương diện trừ khi họ thấu triệt hoàn toàn và thực hiện đúng đắn những
vấn đề này với một thái độ tử tế và lịch thiệp. Trước khi thực hiện vai
trò và nhiệm vụ tôn giáo của mình, người truyền bá Phật giáo không chỉ
thấu hiểu triệt để về bản chất tâm lý của họ mà còn duy trì quan điểm cởi
mở hầu truyền đạt và hướng dẫn kiến thức về những vấn đề này cho con người.
Đối với tình dục, nó đóng một vai trò quan trọng và then chốt trong việc
duy trì và phát triển lâu dài về tình yêu và cuộc sống hôn nhân con người.
Tuy nhiên, tình dục có thể là một đầy tớ tốt và cũng có thể là một ông chủ
bất lợi. Nếu con người sử dụng tình dục điều độ với lý do chính đáng, tình
dục sẽ trở thành một đày tớ tốt; ngược lại nó là một ông chủ có hại. Vì
thế, người truyền bá không chỉ cung cấp nền giáo dục đúng đắn và kiến thức
chuyên môn về kỹ thuật và thực hành sinh lý với một phương pháp có hiệu
quả và chuẩn mực thích hợp đối với đạo đức con người và cuộc sống xã hội;
mà còn hướng dẫn họ làm thế nào tiết độ tình dục của mình hầu có được một
thân thể và tinh thần khỏe mạnh. Tương tự tình yêu và hôn nhân cũng vậy.
Đối với vấn đề tình yêu, nó cũng có thể là một liều thuốc bổ nhất hay trở
thành liều thuốc độc và thuốc phiện nguy hiểm nhất khi chứng bệnh tâm thần
của họ đang tái phát, và cũng có thể là một nguồn nước tinh khiết và mát
mẽ hay trở thành một nguồn cung cấp nước ô nhiễm và có hại khi con người
đang khao khát nước. Tất cả tùy thuộc vào lý trí, sự hiểu biết, việc làm
và thái độ về những hành vi ý thức hay không ý thức của con người. Do đó,
một nhà truyền bá lý tưởng cần hướng dẫn đúng đắn về tình yêu cho họ tùy
theo tuổi tác, căn cơ, phong cách và sự hiểu biết… Vị ấy hướng dẫn họ làm
thế nào tạo mối liên hệ tình yêu lâu dài bằng thái độ lịch sự và nhã nhặn,
sự hiểu biết lẫn nhau, sự tôn trọng và thông cảm lẫn nhau; chia sẽ cho
nhau trong lúc khó khăn và hạnh phúc; xây dựng cho nhau khi có lỗi lầm; …
Sự hướng dẫn khéo léo về tình yêu của vị ấy sẽ làm con người thỏa mãn và
thành công trong một tình yêu đầy ý nghĩa.
Tóm lại, tình dục và tình yêu là nhu cầu quan trọng và không thể thiếu đối
với cuộc sống con người đời thường. Nếu tình dục mà thiếu đi vị ngọt của
tình yêu, nó chỉ là một cảm giác trống vắng; ngược lại, tình yêu mà không
có sự hiện hữu của tình dục, nó trở thành một tình yêu vô vị. Chúng ta có
thể nói nghiêm túc rằng tình dục và tình yêu giống như một người có đủ hai
chân trong hình dáng tự nhiên của con người. Nếu thiếu một trong hai, dáng
vẽ vị ấy trông có vẽ không được tự nhiên. Hôn nhân chính là kết quả cuối
cùng của một tình yêu đúng đắn mà con người khao khát muốn có được. Ý
nghĩa và cách cư xử của nó tương tự như tình yêu nhưng thêm vai trò trách
nhiệm của họ đối với cuộc sống và hạnh phúc lứa đôi, đối với cha mẹ chồng
hoặc cha mẹ vợ, … Trong tình huống này, một nhà truyền bá Phật giáo cần
dùng những lời khuyên chân thành cho đôi vợ chồng mới cưới bằng cách hướng
dẫn họ làm thế nào để cư xử, tôn trọng, thông cảm, và có trách nhiệm với
nhau theo năm cách mà đức Phật đã chỉ dạy trong kinh Trường Bộ;
làm thế nào tiết độ tình dục một cách hợp lý hầu làm cho thân và tâm dễ
chịu, hoặc sức khoẻ và tinh thần tráng kiện,…; làm thế nào chia sẽ và xây
dựng cho nhau những lỗi lầm để trở thành con người hoàn hảo;… cuộc hôn
nhân đầy ý nghĩa như thế gọi là cuộc nhân hạnh phúc hoàn mỹ.
b2. Phương diện kinh tế
Song song với phương diện xã hội, kinh tế cũng đóng một phần then
chốt trong vai trò tôn giáo của nhà truyền bá Phật giáo. Thông thường, hầu
hết cuộc sống tu hành tôn giáo của các vị tu sĩ Phật giáo được duy trì
vững chắc nhờ vào sự ủng hộ và cúng dường vật chất của các vị Phật tử với
bốn nhu cầu cần thiết của một tu sĩ như: quần áo, thức ăn, nệm lót và
thuốc men. Mặt khác, đời sống tu sĩ tùy thuộc vào việc khất thực từ sự
cúng dường của những tín đồ Phật tử. Vì vậy, cuốc sống lâu dài của họ sẽ
không được duy trì trừ khi có sự ủng hộ và cúng dường của những tín đồ
Phật tử, thậm chí bản thân họ tùy thuộc vào nhiều phương diện cuộc sống,
đặc biệt trong sự giao thiệp và cư xử.
Ngày nay, một nhà truyền bá Phật giáo một mặt nên giảm bớt việc tùy thuộc
vào sự khất thực từ các tín đồ Phật tử và mặt khác nên tự làm kinh tế để
duy trì đời sống tôn giáo của mình với nhiều phương thức khác nhau: trồng
trọt rau quả; cày ruộng trồng lúa; làm đậu hũ, sữa đậu nành và bột mì;…làm
nhang; ấn hành kinh sách Phật giáo; làm các vật phẩm cho việc thờ phượng;
… Vai trò kinh tế khéo léo như thế không chỉ cung cấp và ủng hộ điều kiện
vật chất cho nhà truyền bá Phật giáo thực hiện thành công nhiệm vụ tham
gia xã hội cả hai phương diện xã hội và giáo dục, mà còn tạo ra cho vị ấy
có đủ tài sản để duy trì cuộc sống tôn giáo lâu dài và vững chắc.
C. CONCLUSION
Nhìn chung, qua những quan điểm tích cực và mới mẽ được đề cập ở
phần trên, chúng ta nhận thấy giá trị của một tu sĩ Phật giáo lý tưởng ở
thiên niên kỷ thứ ba được biểu hiện qua hai phương diện đạo đức và xã hội.
Phương diện đạo đức thuộc về ý nghĩa ‘tự lợi’ đề cập về những yêu cầu tu
tập và phát triển đạo đức cá nhân của một tu sĩ Phật giáo lý tưởng (vai
trò như là một Bhikkhu, một hành giả). Phương diện xã hội chính là tinh
thần ‘lợi tha’ liên quan đến vai trò tham gia xã hội của một tu sĩ lý
tưởng vời những phương tiện thiện xảo (vai trò như là một nhà truyền bá).
Dựa trên hai phương diện này, vị ấy có khả năng thực hiện khéo léo vai trò
tôn giáo của mình về sự tu tập và truyền bá Phật pháp cho số đông, có khả
năng ứng dụng giáo pháp một cách linh hoạt và sáng tạo vào việc tham gia
xã hội vì an lạc và hạnh phúc cho con người. Hình ảnh một vị tu sĩ Phật
giáo lý tưởng như thế không chỉ mở ra một đạo lộ mới cho thế hệ trẻ tu sĩ
Phật giáo ở tương lai trong vai trò và nhiệm vụ tôn giáo thích hợp với
quan điểm Phật giáo ngày nay, mà còn đóng góp cho sự nghiệp phát triển đạo
đức và giáo dục con người trong bất kỳ tình huống xã hội nào trong thiên
niên kỷ thứ ba.
THƯ MỤC
THAM KHẢO
A. KINH
Kinh Trường Bộ,
Thích Minh
Châu (dịch), Vol. I, & II, TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1991.
Kinh Tăng Chi Bộ,
Thích Minh
Châu (dịch),Vol. I II, III & IV, TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam, 1996.
Kinh Trung Bộ,
Thích Minh
Châu (dịch), Vol. I, II & III TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam, 1992.
Kinh Tương Ưng Bộ,
Thích Minh
Châu (dịch), Vol. I, II, III & V, TPHCM: Viện Nghiên Cứu
Phật Học Việt Nam, 1993.
Kinh Tiểu Bộ,
Thích Minh
Châu (dịch),Vol. I, TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt
Nam, 1992.
The
Sacred Books of the East,
T. W. Rhys Davids & Hermann Oldenberg (trans.), F. Max Müller
(ed.), Vol. 13, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 1996.
B. SÁCH
Ajahn Chah,
Food for the Heart, Taiwan: The
Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, 1999.
Ananda
Guruge (ed.) Return to Righteousness, Sri Lanka:
Department Cultural Affairs, 1991.
Bapat, P. V. (ed.), 2500 Years of Buddhism,
Delhi: Publication Division, 1997.
Barua, D. K., An Analytical Study of Four
Nikāyas, Delhi:
Munshiram
Manohalal Publishers Pvt. Ltd., 2003.
Barua, Dipak K., An Analytical Study of Four
Nikāyas, Delhi:
Munshiram
Manohalal Publishers Pvt. Ltd., 2003.
Buddhaghosa, B. (au) &
Ñānamoli (trans.), The Path of Purification,
Kandy, Sri-Lanka: Buddhist Publication Society, 1991.
Conze, E.
(trans. & ed.), The Large Sutra on Perfect Wisdom, Delhi:
Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1990.
Conze, E.,
Buddhist Thought in India, Delhi:
Munshiram Manohalal Publishers Pvt. Ltd., 2002.
Copleston,
R. S., Buddhism Primitive and Present in Magadha
and in Ceylon, New Delhi & Madrad: Asian Educational
Services, 1994.
Dutt,
N., Early Monastic Buddhism,
Calcutta: Firma KLM Private LTD., 1981.
Fowler,
M., Buddhism: Beliefs and Practices,
Brighton & Portland: Sussex Academic Press, 1999.
Geoffrey
DeGraff
(Thanissaro
Bhikkhu), The Wings to Awakening, Taiwan: The
Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, 1999.
Gethin, R.,
The Foundations of Buddhism, Oxford
& New York: Oxford University Press, 1998.
Goldstein,
J., Insight Meditation: The Practice of
Freedom, Boston & London: Shambhala Publications, 1994.
H.H. The
Dalai Lama, The Way to Freedom, Dharmshala: The
Library of Tibet, 2000.
H.H.Dalai
Lama (au.) &
Ramanan, R.
(compiler), The Heart of Compassion, Delhi: Full Circle
Publishing, 2001.
Harvey,
P., An Introduction to Buddhism:
Teachings, History and Practices, Delhi: Munshiram Manohalal
Publishers Pvt. Ltd., 1990.
Jones, K.,
The
Social Face of Buddhism: A Approach to Political and Social Activism,
London: Wisdom Publications, 1989.
Joshi, L. M.
& et.al., Buddhism, Patiala: Publication
Bureau, Punjabi University, 1999.
Karunyakara,
L., Modernisation of Buddhism: Contribution of
Ambedkar and Dalai Lama XIV, New Delhi: Gyan Publishing House, 2002.
Kern, H.,
Manual of Indian Buddhism, Delhi:
Motilal Banarsidass Publishers, Ptv. Ltd., 1996.
King, B. M.,
Human Sexuality Today, Upper Saddle
River, New Jersey: Prentice Hall, 2002.
Kirthisinghe,
B. P.(ed.), Buddhism and Science, Delhi: Motilal
Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1999.
Kyabgon,
T., The Essence of Buddhism: An Introduction
to Its Philosophy and Practice, Boston & London: Shambhala
Publications, Inc., 2001.
Lamotte, E.
(author) &
Boin, S. W.
(trans.), History of Indian Buddhism,
Louvain-le-Neuve: Institut Orientaliste de I’Universite’ Catholique de
Louvain, 1988
Lester, R.C.,
Theravada Buddhism in Southeast Asia,
USA: the University of Michigan Press, 1973.
Malik, I. L.,
Dalai Lamas
of Tibet,
New Delhi: Computer Prints Combine, 1984.
Mittal, M. P. (compiled), Buddha and Early Buddhism, Vol.
1, Delhi: Originals, 2002.
Morgan, K.W. (ed.), The Path of the Buddha: Buddhism
Interpreted by Buddhists, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers
Pvt.Ltd, 1997.
Ñāṇamoli
Thera (trans.), The Pāṭimokkha:
The Rule for Buddhist Monks,
Bangkok: King Mahā Makuta’s Academy, 1992.
Narasu, P.
L., The Essence of Buddhism, Taiwan: The
Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, 1999.
Pachow,
W.,
A
Comparative Study of the Pratimokṣa,
Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Pvt. Ltd., 2000.
Pandit, M.
L., Buddhism in Perspective, Delhi:
Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 2001.
Pandita, U.
S. (author);
U Aggacitta
(trans.);
Wheeler, K.
(ed.), In This Life: The Liberation Teachings of the
Buddha, Kandy, Sri Lanka: Buddhist Publication Society, 1993.
Phra
Sunthorn Plamintr, Basic Buddhism Course, Taiwan: The
Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, 1999.
Piburn, S.
(comp.& ed.), The Dalai Lama—A Policy of Kindness, Delhi:
Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 2002.
Piyadassi,
M., The Spectrum of Buddhism: Writings of
Piyadassi, Colombo: Printers & Publishers Karunaratne & Sons Ltd.,
1991.
Rahula, W.,
What the Buddha Taught, Sri Lanka:
Buddhist Cultural Centre, 1996.
Rinchen, G.
S. (au.) &
Sonam, R.
(trans.& ed.), The Six Perfections, Ithaca, New York:
Snow Lion Publications, 1998.
Roscoe,
G., The Triple Gem: An Introduction to
Buddhism, Chiang Mai, Thailand: Silkworm Books, 1994.
Saddhatissa,
H., Buddhist
Ethics, Boston: Wisdom
Publications, 1997.
Saint-Hilaire,
J.B., The Buddha and His Religion, Delhi:
Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1997
Santina, P.
D., The Tree of Enlightenment, Taiwan: The
Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, 1999.
Silva, de
L., Buddhism: Beliefs and Practices in Sri
Lanka, Delhi: Indian Books Centre, 1980.
Singh,
Sanghasen,
A Study of
the Sphuṭārthā
Śrīghanācārasaṅraha
Ṭīkā,
Patna: K. P. Jayaswal Research Institute, 1983.
Sivaraksa,
S. (Hon.ed.), Socially Engaged Buddhism for the New
Millennium, Bangkok: Sathirakoses–Nagapradipa Foundation & Foundation
For Children,
1999.
Sivaraksa,
S.,
& et.al
(ed.), Buddhist Perception for Desirable
Societies in the Future, Bangkok: Thai Inter-Religious Commissionfor
Development Sathirakoses-Nagapradipa foundation, 1993.
Snelling,
J., Buddhism: An Introductory Guide to
the Buddhist Tradition, Shaftesbury, Boston & Melbourne: Element Books
Limited, 2000.
Suzuki, D.T., Essay in Zen Buddhism,
Third Series, Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd, 2000.
Tachibana,
S., The Ethics of Buddhism, Delhi: Cosmo
Publications, 1986.
Thich Nhat
Hanh, The Heart of the Buddha’s Teaching, New
York: Broadway Books, 1998.
Warder, A.K.,
Indian Buddhism, Delhi: Motilal
Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 2000.
Williams,
P.,
Buddhist Thought: A Complete Introduction to the Indian Tradition,
London & New York: Routlege, 2000.
C. TỰ ĐIỂN &
BÁCH KHOA TỰ ĐIỂN
Pali-English
Dictionary,
Rhys Davids, T.W. & William Stede (ed.), Delhi: Motilal Banarsidass
Publishers, Ptv. Ltd., 1997.
Sanskrit-Enghlish
Dictionary,
Williams, Monier. M. (ed.), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Ptv.
Ltd., 1999.
The
Buddhists Encyclopaedia of Buddhism,
Kapoor, S. (ed.), Vol. I, II, IV & V, New Delhi: Cosmo Publications,
2001.
The Encyclopaedia of Buddhism,
G. P. Malalasekera (ed.), Vol. III, (1971, rep. 1999);
W.G.
Weeraratne & Jotiya Dhirasekera (ed.),
Vol. IV (1979, rep. 1989),
W.G. Weeraratne (Editor-in-Chief), Vol. V, (1990, rep. 2000),
Sri Lanka: The Department of Buddhist
Affairs, Ministry of Buddhasasana.
The
Encyclopaedia of Religion,
Mircea Eliade (ed.), Vol. 11, New York: Macmillan Publishing Company,
1987.
Từ Điển Phật
Học Hán-Việt (Chinese-Vietnam Buddhist Dictionary),
Kim Cương Tử (chủ biên), Hà Nội: Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học, Vol I,
1992.
E. TRANG
WEB
www.buddhismtoday.com
Bài tham luận của P. A. Payutto, Buddhist Solutions
for the 21st Century (Các Giải Pháp của Phật Giáo đối với
Thế Kỷ 21), đọc tại Nghị Viện Tôn giáo Thế Giới ở Chicago, 1994,
có giá trị tại trang Web:
www.buddhismtoday.com/index/ sociology.htm.
Bài diễn văn của Ngài His Holiness The XIV Dalai Lama
of Tibet, Human Rights and Universal Responsibility (Nhân Quyền và
Trách Nhiệm Toàn Cầu), June 15, 1993, đọc tại Hội Thảo Quốc Tế
Liên Hiệp Quốc về Nhân Quyền ở Vienna-Úc, có giá trị tại trang Web
www.buddhismtoday.com/index/sociology.htm
Trích từ ‘Lời tựa của
Venerable Ajahn Tiradhammo Thera’, trong Ken Jones, The Social Face
of Buddhism: An Approach to Political and Social Activism,
London:
Wisdom Publication, 1989, trang 16.
Kinh T ương Ưng Bộ II.38f.
Xem thêm ‘10 giới’ trong The
Sacred of Books of the East,
Vol. 13, 1996:211; H. Kern, Manual of Indian Buddhism,
1996: 70; Sanghasen Singh, A Study of the Sphuṭārthā
Śrīghanācārasaṅraha
Ṭīkā,
1983: 15ff-138ff; H. Saddhātissa,
Buddhist Ethics, 1997: 59ff; như trên., History of
Indian Buddhism, 1988:42-54; như trên, The Ethics of Buddhism,
1986: 76f; P. Lakshmi Narasu, The Essence of Buddhism, 1999:
39ff; Shanti Bhikshu Shastri, ‘Buddhist Ethics and Social Ideas’,
trong L.M. Joshi & et.al, Buddhism, 1999: 44f; như trên,
Theravada Buddhism in Southeast Asia, 1973: 50; như trên,
The Foundations of Buddhism, 1998: 87ff;
Dipak Kumar Barua, An Analytical Study
of Four Nikāyas, 2003: 128f.
Xem thêm Pātimokkha (Giới bổn) của C.A.F. Rhys Davids, ‘Pātimokkha’,
như trên, The Buddhists
Encyclopaedia of Buddhism, Vol. IV, 2001: 1062f-1066ff-1109ff;
Reginald Stephen Copleston, Buddhism Primitive and Present in
Magadha and in Ceylon, 1994: 119ff;
như trên, The Triple Gem: An
Introduction to Buddhism, 1994: 123ff.
Kinh Tương Ưng Bộ
II.11ff-14f-29-33ff-43-48-51ff-56-78ff-82ff-83f-84f-104ff-142ff. Xem
thêm ‘Lý Duyên Khởi’ trong Kinh Tiểu Bộ I.115f-116f; Kenneth K.
Inada, ‘Buddhist Observance’, như trên, The Buddhists Encyclopaedia
of Buddhism, Vol. I: 239f; Bhikkhu Khantipalo, ‘Wheel of Life’,
như trên, The Buddhists Encyclopaedia of Buddhism, Vol. V,
2001: 1479ff; như trên, History of Indian Buddhism: 36ff; như
trên, The Path of Purification:
539ff; như trên, The Path of the Buddha: Buddhism
Interpreted by Buddhists: 154; như trên, The Buddha and His
Religion: 134ff; như trên, The Buddha and His Teachings:
240ff; như trên, An Introduction to Buddhism: Teachings, History
and Practices: 54ff; Edward Conze, Buddhist Thought in India,
2002: 144ff; như trên, The Heart of the Buddha’s Teaching,
1998: 221ff; như trên, The Tree of Enlightenment: 96ff; như
trên, Buddhist Ethics: 16ff; như trên, Theravada Buddhism in
Southeast Asia: 29ff; như trên, The Spectrum of Buddhism:
Writings of Piyadassi: 137ff; Lella Karunyakara,
Modernisation of Buddhism: Contribution of Ambedkar and Dalai Lama XIV,
2002: 74ff; như trên, Buddhist
Thought: A Complete Introduction to the Indian Tradition: 62ff;
như trên, The Foundation of Buddhism: 141f; như trên, Return
to Righteousness: 299ff; như trên, The Essence of Buddhism: An
Introduction to Its Philosophy and Practice: 73ff; K. Rama,
Buddhism: A World Religion, 1999:
16f.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/tusi_duongthoi.htm