- VƯƠNG QUỐC NĂM XƯA
Lời nói đầu
Đây là tuyển tập từ hai kinh trọng
yếu do Đức Phật thuyết lần đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như tại
vườn Lộc Uyển gần Ba La Nại – đó là Kinh Chuyển Pháp Luân và Vô Ngã
tướng kinh. Khi thuyết kinh Chuyển Pháp Luân Đức Phật đã mở cửa vào vương
quốc chánh pháp và khi trình bày Vô Ngã tướng kinh Đức Phật đã chỉ
rõ kho báu vô giá và là chỗ dựa vững chắc của vương quốc. Quả thật
vậy, tinh thần Vô Ngã bàng bạc khắp lời dạy của Đức Phật, thiếu nó
Đạo Phật trở thành trống không, vô vị. Do đó, người nào không thấu
triệt lý Vô Ngã sẽ đứng bên lề Phật giáo và không thể hưởng được
hương vị của chánh pháp ? Tuyển tập này được phiên dịch từ nhiều
nguồn kinh điển Anh ngữ, nhất là tác phẩm «The Manuals of Buddhism» của
Mahāthera Ledi Sayadaw - bậc Aggamahāpandita của dân tộc Miến-Điện.
Mong rằng tập sách nhỏ này sẽ
đem lại lợi ích cho những ai có dịp đọc qua và đó cũng là phần thưởng
quý giá dành cho người phiên dịch.
Bhikkhu Pundariko
22-12-1999
S T T
Nơi Đức Phật thuyết pháp đầu
tiên là Isipatana, hiện nay là Sarnath, một công viên nai gần Varanasi. Sarnath
hiện tại là một ngoại ô của Varanasi, thành phố thiêng liêng của hằng
triệu người Hindu xứ Ấn. Đó là một ngôi làng nhỏ, nguyên nhân tồn tại
của nó là sự kết hợp lời dạy của Đức Phật. Giữa một công viên lớn
có ngôi đại tháp bằng gạch do Hoàng Đế Asoka xây và khắc bài kinh
"Chuyển Pháp Luân’’ – Căn bản của mọi lời dạy khác của Đấng
Giác Ngộ. Bây giờ chúng ta hãy hướng tâm vào lời Phật dạy để hành hương
về Vương quốc vô tướng.
CHUYỂN PHÁP LUÂN
(Quay bánh xe pháp)
"Pháp": là bản chất
thật của sự vật. Pháp cũng có nghĩa là con đường do Đức Phật chỉ dạy.
Con đường này dựa vào bản chất thật của Pháp và nó nâng đỡ bất cứ
ai thực hành theo.
"Chuyển": là sự giải
thích trình bày. Chuyển pháp là giải thích những gì có tính cách nâng đỡ.
Pháp - bản chất thật của sự vật luôn luôn ở mọi nơi, thường có mặt
nơi thân tâm nhưng do sự kiện trong tâm có những ô nhiễm nên ngăn trở
chúng ta nhìn thấy .
"Pháp Luân": Pháp được
tiêu biểu như một bánh xe vì bánh xe có đặc tính xoay tròn và tiến về
phía trước, cũng vậy Pháp giúp người ta ra khỏi thế giới Khổ và
đến nơi bất tử. Như một bánh xe không được sử dụng sẽ không
thể đưa người ta đi mọi nơi, Pháp chỉ được nghĩ đến nhưng không
được thực hành sẽ không dẫn đến bất cứ lợi ích thực tiển nào.
HAI CỰC ĐOAN
Mở đầu Kinh Chuyển Pháp Luân Đức
Phật dạy: "Này chư tỳ kheo, có hai cực đoan mà hàng xuất gia không
nên hành theo: Một là đắm say trong các dục, thấp hèn, thô tục, phàm
phu, không xứng bậc thánh, vô ích. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không
xứng bậc thánh, vô ích. Từ bỏ hai cực đoan này, Như Lai đã chứng ngộ
con đường Trung Đạo, đem lại tuệ nhãn, chánh trí, an tịnh, thắng trí,
giác ngộ, Niết Bàn."
Lần đầu tiên Đức Phật gọi
năm vị đạo sĩ là "các Tỳ Kheo" dù các vị này chưa xuất gia với
Đức Phật. Do vậy chúng ta có thể căn cứ theo chú giải từ:
"Tỳ Kheo" là chỉ
cho bất cứ ai hành theo pháp. Sau này nhiều kinh Đức Phật thuyết cho
chư tỳ kheo không có nghĩa là cư sĩ không hành theo được, đưa "Chư
tỳ kheo" lên hàng đầu bởi vì quí Ngài là tấm gương sáng về thực
hành pháp. Từ "Cực đoan" nghĩa là điều gì thái hóa, quá
độ, không hợp lẽ tự nhiên. Lợi dưỡng là một cực đoan vì làm
trì trệ sự tiến bộ tinh thần. Khổ hạnh là một cực đoan
vì làm suy nhược trí tuệ. Nên nhớ trước khi giác ngộ, Đức Phật đã
thực hành hai cực đoan trên: khi là một hoàng tử Ngài đã sống cực kỳ
xa hoa; khi từ bỏ cung vàng điện ngọc Ngài đã trải qua 6 năm khổ hạnh
chưa có đạo sĩ nào vượt qua khỏi. Do đó nêu ra hai cực đoan là một vấn
đề thực tiễn vì cả người giảng và người nghe điều có trải qua. Kế
đó Đức Phật thuyết về pháp hành trung đạo để chỉ cho thấy lợi
dưỡng là con đường lạc quan và khổ hạnh là con đường bi quan. Trung đạo
này không lạc quan cũng không bi quan và là pháp hành duy nhất đưa đến giác
ngộ.
TRUNG ĐẠO
Con đường này gọi là
"Thánh" bởi gì nó giúp người thực hành đạt đến Thánh tâm. Gọi
là "Trung đạo" bởi gì nó tránh tất cả lý thuyết và pháp hành
cực đoan, chỉ có hại cho những ai thọ trì hoặc tin tưởng. Gọi là
"Đạo thực hành (Paṭipadā)" bởi vì nó không quan tâm đến những
giáo điều, niềm tin suông, nhưng chỉ chú trọng đến sự đào luyện
chính mình, đến sự thực hành trong giây phút hiện tại.
BÁT THÁNH ĐẠO
Đức Phật dạy: "Này các tỳ
kheo, con đường trung đạo đưa đến tuệ nhản, chánh trí, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết Bàn do Như Lai chứng ngộ là gì? Chính là bát thánh
đạo, gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định."
Phương pháp huấn luyện của Phật
giáo thường theo trình tự: Giới, Định, Tuệ. Nhưng trong bát chánh đạo,
chánh kiến và chánh tư duy (phầnTuệ) đến trước. Đây là
khía cạnh rất quan trọng về pháp: Nếu người nào không có tuệ
trong đời sống thì không thể hiểu rõ giá trị của Phật giáo. Thường
mọi người bị các phiền não áp chế và nếu chúng mạnh sẽ ngăn trở
việc nghĩ và hành động theo pháp.
Nhờ Tuệ người ta mới có
thể đánh giá cao phần Giới và Định. Chánh kiến (vô
si) đến trước vì nó như người lảnh đạo sáng suốt thấy biết con
đường đúng để theo và chánh tư duy là sự thôi thúc đi theo con
đường đó bằng vô tham, vô sân và vô hại. Do Tuệ đã được thiết
lập, người ta sẽ thanh tịnh khi tiếp xúc với ngoại cảnh qua chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng và sẽ thanh tịnh khi tiếp xúc với nội tâm
qua chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
TỨ THÁNH ĐẾ
Đoạn kinh kế tiếp Đức Phật dạy
về Khổ thánh đế, Tập thánh đế, Diệt thánh đế và Đạo thánh đế.
KHỔ ĐẾ
Gọi là Khổ bởi vì chân lý
này có tướng áp bức chúng sanh. Nơi đây sự áp bức diễn ra theo 3 cách:
1. Saṅkhata: Áp bức theo cách tạo
tác. Khi làm người phải tích cực làm các thiện nghiệp như bố thí, trì
giới để hi vọng được sanh nhàn cảnh. Đây là cách tạo tác để trừ
nổi lo âu rơi vào các đọa xứ như địa ngục, ngạ quỷ v.v…
2. Santāpa: Áp bức theo cách thiêu
đốt thường xuyên. Loài người bị thiêu đốt bằng nhiều cách. Từ lúc
trong bụng mẹ, người ta thọ khổ vì nhiệt độ, vật thực từ ngoài
vào và khổ lúc chào đời. Sự thiêu đốt vì mưu cầu sự sống, vì bịnh
tật, già yếu, tử biệt. Một loại thiêu đốt khác do phiền não nung nấu
như có người được giàu sang, danh vọng xuất phát từ quả phước của
những đời trước và tham đắm, kiêu mạn, dễ duôi trong thiện pháp sanh
lên từ nơi hạnh phúc kia và thiêu đốt tâm của người đó không lúc
nào ngừng.
3. Viparināma: Áp bức theo cách thay
đổi. Năm uẩn của loài người áp bức họ bằng sự thay đổi. Người
ta không thể nào muốn mình được an lạc mãi, hoặc trẻ mãi. Theo cách
này người ta có thể tái sanh trong những cõi hạ đẳng như làm trâu, bò,
gà, vịt, hoặc thậm chí rơi vào a tỳ địa ngục.
Qua ba cách của Khổ đế, chúng
ta lưu ý người đời cho đạo Phật là bi quan vì hiểu sai về chữ khổ.
Từ "dukkha" dịch là khổ thường không chính xác, bởi vì một
người đang hưởng phước đầy đủ vẫn gọi là dukkha – Vài bản Anh ngữ
thay từ khổ bằng từ không mãn nguyện. Quả thật như vậy, một
người đang sống sung túc thử hỏi có lúc nào trong lòng được mãn nguyện
không? Như vậy chân lý thứ nhất diễn tả cái khổ khi nó chưa
phát sanh rõ rệt nhưng cuối cùng hiện ra khổ tướng gọi là đau khổ
vì tiến trình của khổ đế đi theo con đường của vô thường tướng.
Đạo Phật khi nêu lên khổ đế không thể gọi là bi quan vì diễn tả
đúng thực tại của sự vật là có sanh phải có diệt và tòan bộ
tam giới đều nằm trong Khổ Đế, dù phạm thiên giới có hạnh
phúc lâu dài cũng nằm trên vực thẳm của vô thường, do đó cũng
không thoát khỏi tướng "Dukkha".
TẬP ĐẾ
Chân lý này có nghĩa là nguyên
nhân khiến cho tiến trình đau khổ tiếp tục sanh khởi.
Tập đế có 4 tướng:
1. Tích lũy nhân sanh khổ.
2. Thường xuyên cung cấp nhân sanh khổ.
3. Tạo ra sự kết hợp với khổ.
4. Ngăn che con đường thoát khổ.
Nơi đây nên được hiểu rằng ái
dục là nguồn gốc phát sinh đau khổ trong đời sống tất cả chúng
sanh. Do ái phát sinh khổ theo 3 cách áp bức trong khổ đế.
TÍCH LŨY NHÂN SANH KHỔ (Āyūhanaṭṭho)
- Theo cách này, sắc ái nghĩa
là tham đắm các sắc khả ái. Do ái người ta cứ phấn đấu và tìm sự
thỏa mãn mới mãi, họ không muốn từ bỏ các đối tượng đem lại dục
lạc như thế. Cũng vậy, thinh ái… Pháp ái là ái dục
đối với thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
THƯỜNG XUYÊN CUNG CẤP NHÂN SANH
KHỔ (Nidānaṭṭho)
- Theo cách này, người ta mong mỏi,
khao khát các đối tượng khả ái không cùng tận, không bao giờ được thỏa
mãn.
TẠO RA SỰ KẾT HỢP VỚI KHỔ
(Saṃyogaṭṭho)
- Theo cách này, người ta luôn luôn
muốn được kết hợp với các đối tượng khả ái. Họ không có ý định
chia tay với các dục này, dù là một ý định nhỏ nhoi.
NGĂN CHE CON ĐƯỜNG THOÁT KHỔ
(Palibodhaṭṭho)
- Theo cách này, người ta bị ngăn
che việc từ bỏ các đối tượng khả ái và cũng bị ngăn sự thành lập
các pháp thanh tịnh nơi tâm do kết hợp với đối tượng khả ái.
BA LOẠI ÁI
Dục ái: là ái đối với
các đối tượng giác quan. Tâm của chúng sanh dục giới do lửa phiền não
thiêu đốt nên rất khô cằn và nóng. Khi họ không có dịp tiếp xúc với
ngoại cảnh, lập tức họ trở nên lạc lõng, lừ đừ, chán nản. Ái
trong lòng họ không thể nằm yên trong một phút và phải đuổi theo một
ngoại cảnh cho đến khi thỏa mãn sự khao khát của nó. Vì thế trong sự
tích luỹ lòng khát ái này chúng ta tìm vô số ác nghiệp và đau khổ
theo đời sống của chúng sanh. Dục ái này luôn luôn sát hại chúng
sanh bằng cách nhận chìm họ vào đại dương thống khổ. Y như nước chảy
xuống những ngọn đồi dốc và trôi vào biển, dục ái này mang tất
cả phàm phu không sống theo pháp vào bốn đọa xứ.
Hữu ái: là loại ái phát
sinh từ nơi người chứng thiền và tham đắm vào các đối tựơng đã chứng.
Do hữu ái vị ấy tái sanh vào phạm thiên giới, nơi đây vị ấy bị
thiêu đốt bởi các phiền não như ngã mạn, tà kiến, cuối cùng đọa lạc
vì chấp thủ vào các uẩn của phạm thiên.
Phi hữu ái: là ái liên quan
đến lý thuyết về sự tiêu diệt của ngã (đoạn kiến).
DIỆT ĐẾ
Bốn tướng của diệt đế:
1. Nissaranaṭṭho: có tướng giải
thoát khổ.
2. Pavivekaṭṭho: có tướng thoát khỏi phiền nhiễu.
3. Amataṭṭho: có tướng bất tử.
4. Asaṅkhataṭṭho: có tướng vô vi, tức Niết Bàn.
GIẢI THOÁT KHỔ
Đối với phàm phu mặc dù trong
vòng luân hồi được làm vua loài người, Đế Thích, Phạm Thiên, họ phải
tiếp tục tái sanh trong bốn đọa xứ vì còn chấp thủ các phiền
não như thân kiến, hoài nghi. Riêng vị đã chứng quả Dự Lưu được giải
thoát như sau:
1. Kilesavaṭṭa: thoát khỏi sự
xoay chuyển của các ác phiền não như thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ.
2. Kammavaṭṭa: thoát khỏi sự xoay
chuyển của các bất thiện nghiệp như mười ác nghiệp liên quan đến thân,
khẩu, ý.
3. Vipākavaṭṭa: thoát khỏi sự
xoay chuyển tái sanh trong bốn đọa xứ.
THOÁT KHỎI PHIỀN NHIỂU
Mặc dù bậc Dự Lưu luân hồi
trong các nhàn cảnh, tâm vị ấy sẽ mãi mãi thoát khỏi sự phiền nhiễu
của các tà kiến, ác nghiệp, tà mạng và đau khổ trong bốn đọa
xứ. Các phàm phu không được khả năng như thế, mặc dù họ phiêu dạt
trong vòng sanh tử có lúc làm vua loài người, Đế Thích, Phạm Thiên, tâm
của họ lúc thì có chánh kiến, chánh tín, thiện hạnh; lúc thì có tà kiến,
tà tín, tà hạnh, vì thế phải bị bất hạnh trong bốn đọa xứ.
BẤT TỬ
Trạng thái Niết Bàn mà những bậc
Dự Lưu đã chứng được không bao giờ bị diệt, mặc dù các uẩn của họ
bị vô thường ngấu nghiến. Từ sát na Dự Lưu Đạo đến vô dư Niết Bàn,
Diệt Đế của bậc Dự Lưu vẫn là nơi trú ẩn của vị ấy. Trạng thái
này gọi là bất tử mà bậc Dự Lưu đã chứng và hưởng.
VÔ VI
Hữu dư Niết Bàn của các Dự Lưu
không hề bị luật vô thường xâm phạm. Dù thọ giới hoặc sống đời
sa môn, các vị ấy không có đau khổ vì sự áp bức do tạo tác. Họ hành
Giới, Định, Tuệ chỉ vì mục đích xua tan thêm một số phiền não còn nằm
tiềm tàng trong họ và không cần lo âu về Thân Kiến, Hoài Nghi và mười
loại ác nghiệp đã diệt trừ.
Đối với các bậc Nhất Lai, Bất
Lai và A La Hán cũng có bốn tướng như trên.
ĐẠO ĐẾ
Đạo là gì? Những pháp này xua
tan các phiền não và do vậy có khả năng giúp chúng sanh chứng đạt Niết
Bàn, chấm dứt khổ đọa xứ và khổ luân hồi. Đây gọi là Đạo.
Tất cả bát chi đạo có mặt
trong tri kiến thanh tịnh siêu thế. Trong các thanh tịnh hợp thế, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng chỉ có trong giới thanh tịnh, chúng không có mặt
trong tâm thanh Tịnh v.v…
Chánh kiến của bậc Dự Lưu
là hiểu rõ Tứ Thánh Đế. Nó giống mặt trời mọc sau khi đêm tối đã
qua hoặc như người mù được chữa lành và từ đó thấy hết mọi cảnh
vật đang diễn ra trước mắt. Cũng vậy, các thánh Dự Lưu thấy rõ tam tướng
và tứ thánh đế - cái thấy nầy càng lúc càng tỏ sáng mãi cho đến khi
chứng vô dư Niết Bàn.
Chánh tư duy có ba loại: Ly dục
tư duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy.
Chánh tư duy kết hợp với thiền về
Tâm Từ gọi là Vô Sân Tư Duy.
Chánh tư duy kết hợp với thiền về Tâm Bi gọi là Vô Hại Tư Duy.
Chánh tư duy kết hợp với các thiền còn lại gọi là Ly Dục Tư Duy.
Như con chim bị nhốt trong lồng chỉ
có một sự thôi thúc mạnh mẽ là cố thoát khỏi sự giam cầm. Cũng vậy
sự mong mỏi tìm phương thế thoát khỏi sự giam hãm của nhiều nghiệp bất
thiện đã sanh và chưa sanh, ngay cả sự giam hãm của khổ luân hồi là Ly
Dục Tư Duy. Chánh kiến có thể được so sánh với một mũi tên và Chánh
tư duy với bàn tay cầm mũi tên nhắm thẳng vào mục tiêu.
Chánh ngữ là ly bốn khẩu
ác nghiệp.
Chánh nghiệp là ly ba thân ác nghiệp.
Chánh mạng là tránh xa việc nuôi mạng liên quan đến Khẩu Ác Nghiệp
và Thân Ác Nghiệp.
Chánh tinh tấn tức là Tứ Chánh Cần.
Chánh niệm tức là Tứ Niệm Xứ.
Chánh định tức là bốn thiền kết hợp với Chánh Đạo.
BA CHUYỂN VÀ BỐN LUÂN HỒI
Ba chuyển là:
- Kilesa vaṭṭa (Phiền não luân).
- Kamma vaṭṭa (Nghiệp).
- Vipāka vaṭṭa (Quả luân).
Bốn luân hồi là:
- Apāya saṃsāra (Đọa xứ luân hồi).
- Kāmasugati saṃsāra (Thiện dục giới luân hồi).
- Rūpa saṃsāra (Sắc giới luân hồi).
- Arūpa saṃsāra (Vô sắc giới luân hồi).
BA CHUYỂN LIÊN QUAN ĐỌA XỨ LUÂN
HỒI
Phiền não luân: tức là Thân Kiến,
Hoài Nghi, Giới Cấm Thủ.
Nghiệp luân: tức là 10 ác
nghiệp, bao gồm 3 Thân nghiệp, 4 Khẩu Ác nghiệp và 3 Ý Ác nghiệp.
Quả luân: tức là năm uẩn dị
thục của chúng sanh địa ngục, thú, ngạ quỉ và A tu la.
Bất cứ người nào không từ bỏ thân
kiến và hoài nghi, dù y tái sanh trong cõi cao nhất trong một khoảng
thời gian vô hạn, y vẫn được định đoạt để rơi vào cảnh giới của
10 ác nghiệp như làm ngư phủ, thợ săn, ăn trộm hoặc một trong bốn đọa
xứ.
BA CHUYỂN LIÊN QUAN THIỆN DỤC GIỚI
LUÂN HỒI
Phiền não luân: tức tham muốn
sắc khả ái, thinh khả ái v.v…
Nghiệp luân: tức là ba phạm vi của phước hành - bố thí, trì giới
và tham thiền.
Quả luân: tức là năm uẩn dị thục của người và sáu cõi chư thiên
dục giới.
BA CHUYỂN LIÊN QUAN SẮC VÀ VÔ SẮC
GIỚI LUÂN HỒI
Phiền não luân: là tham đắm
trong Thiền Sắc và Vô Sắc.
Nghiệp luân: là thiện nghiệp dẫn đến các cõi Sắc và Vô Sắc.
Quả luân: là năm uẩn dị thục của Phạm thiên sắc giới và tứ
danh uẩn quả của Phạm thiên vô sắc.
ĐỌA XỨ LUÂN HỒI
Ba đọa xứ luân liên quan đọa xứ
luân hồi là quan trọng nhất đối với Phật tử ngày nay. Khi đầu của một
người đang cháy, vấn đề khẩn cấp đối với y là dập tắt lửa,
không được trì hoãn một phút nào và vấn đề khẩn cấp hơn nữa, quan
trọng hơn nữa cho người con Phật là diệt ba đọa xứ luân. Bởi vì thân
kiến là căn bản, diệt thân kiến ngụ ý diệt hoài nghi
và mười ác nghiệp cũng biến mất hoàn toàn, cuối cùng luân
hồi đọa xứ chấm dứt.
BA UẨN TRONG BÁT CHÁNH ĐẠO
Giới uẩn gồm có: chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng.
Định uẩn gồm có: chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Tuệ uẩn gồm có: chánh kiến, chánh tư duy.
BA GIAI ĐOẠN CỦA THÂN KIẾN
Anusaya bhūmi: giai đoạn tiềm tàng.
Pariyuṭṭhā na bhūmi: giai đoạn tâm bị xao động do thân kiến.
Vītikkama bhūmi: giai đoạn gây ra nghiệp.
* Ba chi của thân nghiệp và bốn
chi của khẩu nghiệp thuộc giai đoạn 3.
* Ba chi của ý nghiệp thuộc giai đoạn 2.
* Giai đoạn 1 là thân kiến theo Hộ Kiếp của chúng sanh trong vô thủy
luân hồi như hạt giống cho ba nghiệp trước khi tác thành nghiệp thật sự.
Khi các đối tượng tiếp xúc với nhãn môn v.v… Các nghiệp bất thiện bị
thúc đẩy bởi thân kiến tiềm ẩn đó đi đến giai đoạn thứ nhì
(ý ác nghiệp). Nếu không bị chận lại, các bất thiện nghiệp này sẽ vọt
lên giai đoạn thứ ba (thân ác nghiệp và khẩu ác nghiệp).
Như vậy:
Giới uẩn của Bát Chánh Đạo
diệt giai đoạn thứ ba của Thân kiến.
Định uẩn diệt giai đoạn thứ hai của Thân kiến.
Tuệ uẩn diệt giai đoạn thứ nhất (tùy miên địa) của Thân kiến.
Nó có nghĩa rằng Chánh Kiến
và Chánh Tư Duy có khả năng diệt thân kiến tiềm ẩn
trong Hộ Kiếp của chúng sanh.
BA CHUYỂN VÀ MƯỜI HAI HÀNH TƯỚNG
TRONG TỨ THÁNH ĐẾ
Đức Phật chuyển pháp luân
qua ba giai đoạn Tuệ Quán trong Tứ Đế gọi là ba chuyển và mười hai bước,
mô thức gọi là hành tướng.
TAM CHUYỂN PHÁP LUÂN
Saccañāṇa: Tuệ Quán thấy thực
tướng của Tứ Thánh Đế.
Kiccañāṇa: Tuệ Quán về phận sự trong Tứ Thánh Đế.
Katañāṇa: Tuệ Quán về phận sự trong Tứ Thánh Đế đã hoàn
thành.
* Giai đoạn 1: Trí Tuệ soi thấu rằng
đây là Khổ, đây là nguyên nhân của Khổ, đây là sự Diệt Khổ, đây
là con đường dẫn đến sự Diệt Khổ.
* Giai đoạn 2: Trí Tuệ soi thấu rằng Khổ Đế đang được biết rõ, Tập
Đế đang được trừ, Diệt Đế đang được chứng và Đạo Đế đang
được phát triển.
* Giai đoạn 3: Trí Tuệ soi thấu rằng Khổ Đế đã được biết rõ, Tập
Đế đã được trừ, Diệt Đế đã được chứng và Đạo Đế đã được
phát triển.
Mỗi giai đoạn xoay chuyển trong Tứ
Đế và 3 chuyển x 4 đế = 12 hành tướng.
Chúng ta nhận thấy ba chuyển này
thực hiện bốn chức năng trong Tứ Đế như sau:
Pariññā: chức năng biết rõ Khổ
Đế.
Pahāna: chức năng từ bỏ Tập Đế.
Sacchikaraṇa: chức năng chứng ngộ Diệt Đế.
Bhāvanā: chức năng phát triển Đạo Đế.
Đức Phật đã chuyển pháp luân
và không có nhân vật nào đảo ngược được Pháp Luân của Ngài, nghĩa là
không có ai bác bỏ được. Chúng ta cũng có thể Chuyển Pháp Luân nơi
chính mình bằng cách theo con đường Trung Đạo cho đến khi nào Bát
Chi Đạo được hợp nhất. Sát na này gọi là Maggasamangī, lúc đó Phàm
Tâm sẽ chuyển thành Thánh Tâm và Niết Bàn được chứng ngộ.
Khi Đức Phật giảng xong kinh Chuyển
Pháp Luân, Ngài Kiều Trần Như là người đầu tiên khởi lên pháp nhãn
và nhận thức bằng như thực trí về bản chất của chính mình và của tất
cả các pháp như vầy:
- Yaṃ Kiñci samudayadhammaṃ.
- Sabbantaṃ Nirodhadhamman’ti
"Bất cứ pháp nào có bản
chất Sanh, tất cả pháp đó có bản chất Diệt."
Theo các chú giải, một người đã
phát triển pháp nhãn này được gọi là bậc Dự Lưu, nghĩa là vào dòng
suối Giác Ngộ, vì vậy pháp nhãn tương đương với sát na tâm Đạo
Dự Lưu.
Từ chủ yếu của kệ ngôn trên
là "Sabbaṃ (tất cả)":
- Mắt và các sắc,
- Tai và các tiếng,
- Mũi và các mùi,
- Lưỡi và các vị,
- Thân và các xúc,
- Ý và các pháp.
Tất cả pháp này có bản chất sanh
và vì vậy có bản chất diệt. "Tất cả" này không đâu
bên ngoài mà ở nơi con người. Ngài Kiều Trần Như đã khám phá ra Chân
Lý nơi chính Ngài bằng sự hiểu rõ "Tất cả" này. Thế giới mà
chúng ta nhận thức từ bên ngoài hoặc từ bên trong, tất cả là Vô Thường.
Sanh đi theo diệt, diệt theo sanh. Không bao giờ có
thể có cái này mà không có cái kia trong thế giới hữu vi. Bởi vì các
pháp hữu vi không thể sanh độc lập, diệt độc lập, trái lại
chúng hoàn toàn dựa vào các Nhân Duyên mới sanh và diệt được.
– Thí dụ: Đôi mắt sáng cũng vô dụng nếu không có ánh sáng hoặc thần
kinh nhãn bị bệnh hoặc nếu không có cảnh sắc. Tất cả duyên phải hội
đủ trước khi ta có thể nói: "Tôi thấy một đối tượng như thế
như thế". Những ý nghĩ cũng không thể sanh mà không có các duyên bên
trong và bên ngoài. Giả tỷ một người đau đớn nơi thân và cái đau đó
là nguyên nhân chính cho sầu muộn nơi tâm. Một thức ăn ngon do sự cảm
nhận của mắt, mũi, lưỡi, còn thân thì có thể là duyên do sự
phát sanh cảm giác dễ chịu và kế đó có Tham. Trong những trường hợp
như thế, người ta chỉ đề cập các Duyên chính, nhưng dĩ nhiên các
Duyên thì vô số, sanh và diệt tiếp nối quanh chúng ta luôn và
thành phần trong chúng ta gồm có Danh Sắc này, tất cả đều sanh dựa
vào các Duyên và diệt khi các Duyên đó thay đổi.
Điều trở ngại cho chúng ta là
không ý thức về sự hiện hữu như là một tập hợp của các Duyên đang
thay đổi. Trái lại, thường chúng ta cho rằng có một cái Ta sâu kính nào
đó trong tất cả tướng Vô Thường này. Quan điểm đó tiến dần đến
nhận định rằng có một linh hồn hoặc Ngã trường tồn. Tà Kiến này ngăn
người ta thấy dòng sanh diệt đang diễn ra không ngừng, cho nên người
ta chấp thủ rằng: ‘‘Đây là Ngã của tôi’’. Cho rằng cái gì
không thật có là ‘‘của ta’’. Đa số bị lôi kéo đó đây bởi sức
mạnh của Dục liên quan đến thân tâm. Họ nghĩ các pháp hữu vi là
thường trong khi bám lấy chúng và vì vậy chỉ chuốc lấy quả khổ. Từ
các pháp hữu vi người ta có thể mong đợi hạnh phúc nhất thời qua con
đường Thiện nghiệp. Nhưng người có Trí Tuệ không mong hạnh phúc để
kéo dài đau khổ như thế. Từ quan điểm Siêu Thế Đạo, hạnh phúc kia
được gọi là ‘‘Khổ Sanh, Khổ Diệt’’. Hạnh phúc mà bậc Thánh
nhân đã khám phá là toàn hảo và bất tử. Điều này không thể
được hiểu bằng trí óc thông minh. Chúng ta phải thâm nhập nó qua sự
hành Tuệ Quán để thấy ngay cả trí thông minh cũng là pháp sanh
diệt. Những ai đã phát triển Tuệ Quán đến mức tuyệt hảo không
cần quá trình học và hành lâu dài nhưng chỉ cần một ít lời dạy là
đủ.
Ngài Kiều Trần Như như đã đủ
nhạy bén để thâm nhập trái tim Chân Lý bằng pháp nhãn: ‘‘Bất cứ
Pháp nào có bản chất sanh, tất cả Pháp đó có bản chất diệt’’.
VÔ NGÃ TƯỚNG KINH
Được biết Ngài Kiều Trần Như là
người chứng Quả Dự Lưu đầu tiên và được thọ giới tỳ kheo theo cách
‘‘Ehi Bikkhu’’. Trong bốn đạo sĩ còn lại, Vappa và Bhaddiya dưới sự
hướng dẫn của Đức Phật cũng chứng Quả Dự Lưu và thọ giới tỳ
kheo theo cách trên. Ba vị thánh đệ tử đi khất thực cho nhóm sáu người,
cho đến khi hai đạo sĩ cuối cùng Mahānāma và Assaji chứng Quả Dự Lưu và
thọ đại giới như thể thức của các đồng đạo. Đó là vào ngày thứ
năm kể từ lúc Đức Kiều Trần Như chứng pháp nhãn. Vài ngày sau Đức
Phật thuyết bài kinh thứ hai là Vô Ngã Tướng kinh và tất cả năm
vị đệ tử đều chứng Quả A La Hán.
Giáo lý Vô Ngã được xem là
đặc trưng nhất trong Phật giáo. Những ai ở trong môi trường hữu thần
giáo sẽ khó hiểu giáo lý này. Chính nhà triết học Pháp Descartes nói:
‘‘Tôi suy nghĩ, do vậy tôi hiện hữu (I think, therefore I am)’’. Saccaka
một luận sư thời Đức Phật cũng nói "Sắc là tự Ngã của ta, Thọ
là tự Ngã của ta, Tưởng là tự Ngã của ta, Hành là tự Ngã của ta, Thức
là tự Ngã của ta". - Cả hai nhân vật trên hoàn toàn không hiểu lý Vô
Ngã. Một trong nhiều yếu tố để thành lập Ngã của chúng ta là Tư
(Cetanā). Chính Tư này mà nhiều người đồng hóa với Ngã, "Tôi
muốn, Tôi ô nhiểm, hay Tôi thanh tịnh". Toàn thể nghiệp dựa vào yếu
tố Tư này.
Trong kinh Vô Ngã Tướng, Đức
Phật dạy: "Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức" là Vô Ngã. Vì năm
uẩn là vô thường và khổ nên không hợp lý để nghĩ chúng
là Ngã của Tôi. Cho rằng "Cái không phải Ngã là Ngã" thuộc về Thân
Kiến hoặc Ngã Kiến. Do Thân Kiến người ta làm ác và phải
tiếp tục trôi lăn trong đọa xứ luân hồi. Cho nên thâm nhập giáo lý Vô
Ngã là một vấn đề quan trọng bậc nhất trong việc giải thoát vòng
sanh tử vô thủy vô chung.
Vô Ngã nghĩa là không có thực
thể, không có cái Ta, không có linh hồn. Cái bình là tên gọi theo
hình thức chế định, nó không phải là tên cho đất và hình thức chế
định không có thực tính như một pháp chân đế. Nếu có người hỏi
"Có phải cái bình tồn tại trong đời không?" - Những ai không thể
phân biệt hai loại chân lý - Tục đế và Chân đế sẽ trả lời là cái
bình tồn tại. Ở đây cái bình không tồn tại trong thực tế trở thành
cái bình tồn tại, đất và bình trở thành một, thường khi lẫn lộn cái
này qua cái kia. Trong minh họa này, "đất" tượng trưng năm uẩn
và "bình" tương đương với người, chúng sanh. Y như đất
trở thành ngã của bình trong câu "đất là bình", cũng vậy năm uẩn
trở thành ngã của người, chúng sanh khi người ta nói "các uẩn là người
và chúng sanh". Đây là ý nghĩa về Ngã.
Bây giờ đối với Vô Ngã trong từ
"bình đất". Nếu người ta có thể phân biệt rằng đất là một
pháp và bình là một pháp khác; đất là pháp Chân Đế và bình là một
pháp Tục Đế; lại nữa, đất đó không phải là bình và bình không phải
là đất, lúc đó đất trở thành Vô Ngã và bình được xem là trống rỗng
như không gian vì nó chỉ là một chế định của Sắc pháp. Cũng vậy, nếu
người ta có thể phân biệt năm uẩn như vầy "Ngũ uẩn là các pháp
chân đế". Nếu pháp sanh diệt được gọi là người và
chúng sanh, đây là một tên giả và nếu người, chúng sanh được gọi là
pháp sanh diệt, đây cũng là giả. Người và chúng sanh trở nên hoàn toàn
trống không. Vì vậy danh pháp và sắc pháp không được coi là
Ngã của người và chúng sanh. Chính trong cách này mà tướng vô ngã
trở thành tướng vô thường, phù hợp với kinh văn "Asārakaṭṭhena
anattā": Do không có lõi, gọi là Vô Ngã.
Nếu danh pháp và sắc pháp
là Ngã thì chúng phải tương xứng với ước muốn của người. Nhưng nếu
chúng không phải là thế, lúc đó mỗi phần phải là một pháp riêng biệt
với nhau. Một đặc điểm chính của người là Tham muốn thân tâm được
an lạc và một đặc điểm của danh pháp là sự tương xứng, đồng dạng
với các duyên của nó và hoàn toàn phù hợp với những ước muốn của
người. Thí dụ nếu người ta muốn sống lâu, người ta phải hội đủ
nhân duyên như khí hậu, vật thực, phước v.v… Vì không có người có thể
sống lâu chỉ bởi ước muốn sống lâu. Nếu muốn tái sanh trong những
cõi lành, người ta phải tạo nhân duyên cho việc đó, tức là những hành
động thiện. Vì không ai có thể sanh vào những cõi đó chỉ bởi lòng
mong muốn được tái sanh tốt đẹp.
Một khi chúng sanh đào thải ngã
kiến, tất cả ác tà kiến, các ác pháp, ác nghiệp mà dẫn chúng đến
các cõi Khổ sẽ biến mất cùng với ngã kiến, chúng sẽ mãi mãi
thoát khỏi tất cả các điều ác. Chúng sanh nào còn ngã kiến, dù
tái sinh trong cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Ngã kiến này sẽ cho quả
lôi kéo chúng vào bốn đọa xứ và cũng do ngã kiến trong những đời
sống tương lai, chúng sẽ theo các ác hạnh, thậm chí rơi vào đại trọng
nghiệp như tội ngũ nghịch. Do đó ngã kiến là nhân chủ chốt của
tất cả điều ác. Diệt ngã kiến là nguồn gốc của sự chấm dứt
mọi ác pháp đưa đến đọa xứ. Nơi đây tầm quan trọng của kinh Vô
Ngã tướng đã được minh bạch.
BA NGHĨA VÔ NGÃ
Asārakaṭṭhena anattā: do không
có thực thể, không có lõi gọi là Vô Ngã.
Asāmikaṭṭhena anattā: do không có ai làm chủ gọi là Vô Ngã.
Avasāvattanaṭṭhena anattā: do không chìu theo ý muốn của chúng sanh gọi
là Vô Ngã.
* Nghĩa một: Chúng sanh không phân
biệt sát na sanh diệt trong danh và sắc pháp của năm uẩn nên không nhận
ra Vô Thường tướng, chấp rằng ‘‘Sắc uẩn là Ngã, Thọ uẩn là Ngã
v.v… Loại tà kiến này được biết là ngã kiến. Một cái tô làm
bằng gỗ, có gỗ như là thực tính của nó và được gọi là một cái
tô gỗ. Ở đây từ cái tô chỉ là tên theo hình thức chế định và nó
không có thực tính như một pháp chân đế. Cái tô như người, chúng sanh;
gỗ như năm uẩn. Một số chấp như sau ‘‘chừng nào năm uẩn còn,
chúng sanh còn và trong giai đoạn như thế năm uẩn không hoại diệt’’.
Kiến này là ngã kiến.
Một số người hiểu rằng thực tính
của cái tô gỗ là gỗ, nhưng họ không thể thâm nhập chân lý và phân
tích rằng gỗ này gồm có một số lớn Atthakalāparūpa (tức đoàn bát thuần:
đất, nước, lửa, gió, sắc, khí, vị và vật thực). Vì thế họ chỉ
có thể hiểu một cách nông cạn rằng thực tính của tô gỗ là gỗ. Làm
sao sắc uẩn sanh diệt trở thành ngã của người. Ngay cả dòng hộ
kiếp dường như bình lặng cũng sanh và diệt trong tâm. Nó có thể bị
cắt dứt khi một đối tượng mới tiếp cận với nó. Một số hiểu rằng
danh sắc là thực tính của chế định pháp, nhưng họ không thể nhận ra
già và chết chớp nhoáng trong các danh sắc pháp này. Năm uẩn sanh diệt
này không có ngã và không phải là ngã của chúng sanh. Thật ra
danh sắc trong năm uẩn mà con người coi là ngã, sanh diệt hơn hằng
triệu lần trong thời gian một cái nháy mắt. Nếu người ta khẳng định
rằng năm uẩn là ngã thì ngã đó sẽ liên quan với già, chết
trong chớp nhoáng.
* Nghĩa hai: Trong dòng sanh diệt
không ngừng và quá nhanh của năm uẩn không có bất cứ cái ngã nào
ngự trị, ở đấy không có người chủ nào, cũng thể là của riêng ai. Ta
không thể nói năm uẩn thuộc về mình, là của chính mình hoặc mình là
chúa tể của các pháp này. Vì thế theo nghĩa thứ hai, năm uẩn là Vô
Ngã.
* Nghĩa ba: Vì năm uẩn là Vô Thường
và Vô Ngã, chúng không chìu theo ý muốn của bất cứ ai. Thật là sai lầm
khi cho rằng năm uẩn sẽ tuân lịnh hoặc người ta có thế lực đối với
chúng. Năm uẩn sanh lên do nhân duyên và khi duyên đó diệt chúng cũng diệt.
Người ta không thể ước muốn chúng đừng sanh diệt hoặc sanh diệt
theo ý của mình. Đây là nghĩa thứ ba của Vô Ngã.
Người ta nhận lầm điều không phải
Attaniya (đối tượng liên hệ với Ngã) là Attaniya như con trai của ta, con
gái của ta, vàng bạc, tài sản của ta. Theo chân đế không tồn tại ngã
của riêng ai và trong trường hợp như thế làm thế nào có thể có
Attaniya nào. Người nào không có tà tưởng về Attaniya đối với mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý và không có tà tưởng về Attaniya đối với
sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp là người đã trừ ngã kiến. Đối với
người này dù đã gầy dựng tài sản và nuôi gia đình, y làm thế không
vì tưởng về Attaniya nhưng do còn ái này không đủ lực
để khiến họ thực hiện những nghiệp dẫn đến đọa xứ. Khi người
này muốn chứng Tuệ Nhất Lai, y sẽ phấn đấu để đạt đến Nhất Lai
Đạo. Cũng vậy đối với Bất Lai Đạo. Khi người này cảm thấy rằng
không có gì đáng bị cột trói ngay cả phạm thiên giới, y sẽ phấn đấu
để chứng A La Hán Đạo và trở thành bậc A La Hán. Nơi đây người này
không cần phấn đấu thêm nữa vì y đã trở thành bậc Khīnāsava –
Dakkhineyya – Arahanta (A La Hán đã diệt tất cả Lậu Hoặc và xứng đáng
được cúng dường). Qua kinh Vô Ngã tướng, chúng ta nhận thấy rằng
tam tướng liên quan chặt chẽ với nhau. Vô Thường và Khổ như công
thức để suy ra Vô Ngã. Theo đó, năm uẩn sanh diệt là vô thường.
Chúng là khổ bởi vì kết hợp với sự không an toàn trong dòng sanh
diệt không ngừng. Chúng là vô ngã bởi vì không có lõi hoặc thực
thể.
CÁCH TRỪ NGÃ KIẾN
Có bốn ngã kiến:
Ati – olārika – attādiṭṭhi:
Ngã kiến rất thô.
Olārika – attādiṭṭhi: Ngã kiến thô.
Sukhuma – attādiṭṭhi: Ngã kiến tế.
Ati – sukhuma – attādiṭṭhi: Ngã kiến rất tế.
Bốn loại ngã kiến này được
diệt trừ do nhờ phương tiện của bốn loại chánh kiến:
Nāmarūpapariggaha sammādiṭṭhi: Chánh
kiến phát sanh từ việc biết rõ các duyên của danh sắc.
Như có người chấp rằng năm uẩn
là Ngã hoặc linh hồn hoặc chấp rằng ngoài năm uẩn có Ngã thống trị
mình. Tất cả loại ảo tưởng này có tên là ngã kiến rất thô.
Loại chánh kiến trên sẽ trừ được ngã kiến này.
Hetupacca ya – pariggaha sammādiṭṭhi:
Chánh kiến phát sanh từ việc biết rõ duyên khởi của các pháp.
Có người chấp rằng có một người
làm các nghiệp (Kārakadiṭṭhi) và có người nhận hậu quả (Vedakadiṭṭhi).
Ngã kiến này có tên là ngã kiến thô và loại chánh kiến thứ hai sẽ
trừ được nó.
Vipassanāñāṇādassanasammādiṭṭhi:
Chánh kiến phát sanh từ thiền quán về Vô Thường, Khổ, Vô Ngã.
Hai loại chánh kiến trên chỉ thấy
ngã kiến còn thô phát sanh trong chúng sanh, nhưng chúng không thể thấy ngã
kiến tế nằm tiềm tàng trong chúng sanh và chính là nhân chủ chốt
hoặc mầm mống của tất cả tà kiến. Khi chứng được Tuệ quán về
tam tướng, ngã kiến tế và hoài nghi bị diệt, nhưng ngã kiến cực vi
và nghi tùy miên vẫn còn y nguyên.
Lokuttara – maggaphalasammādiṭṭhi:
Chánh kiến phát sanh từ việc chứng Đạo, Quả Siêu Thế.
Đến giai đoạn này, ngã kiến cực
vi và nghi tùy miên bị diệt hoàn toàn. Tất cả ác nghiệp khiến
sanh trong bốn đọa xứ cũng tan biến, vương quốc của thân kiến đến
đây hoàn toàn bị sụp đổ. Bậc chứng chánh kiến này là một Dự Lưu.
Sự chấp thủ của ái và mạn không phải là những chấp thủ
của thân kiến. Ái phát triển sự chấp thủ vào các pháp trong ba
cõi dưới hình thức ‘‘Đó là sở hữu của tôi’’. Mạn phát
triển sự chấp thủ vào các pháp dưới hình thức ‘‘Đó là tôi’’.
Trong trường hợp chúng sanh có thân kiến, ái và mạn theo thân kiến.
Trong trường hợp của các Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, ái và mạn theo
Saññā – Vipallāsa (ảo giác của Tưởng) và Citta – Vipallāsa (ảo giác của
Tâm). Sự chấp thủ do tưởng và tâm tạo ra
là không đáng kể. Sự chấp thủ do thân kiến tạo ra là sâu
đậm. Do Thân kiến, nhân loại, chư thiên, phạm thiên hiện tại
là những bậc hiền thiện, sống trong ánh sáng Phật pháp, nhưng vị lai có
thể phạm các ác nghiệp, phá hoại Tam Bảo, thậm chí rơi vào ngũ nghịch
đại tội. Đó là những điểm tế nhị trong kinh Vô Ngã tướng và chúng
ta đã hiểu lý do Đức Phật thuyết kinh này để giúp năm đệ tử diệt
trừ tất cả Lậu Hoặc, trở thành những bậc A La Hán đầu tiên trong lịch
sử Phật giáo.
Chúng ta cũng nên biết rõ tại sao
Đức Phật không đề cập đến "Thập Nhị Duyên Khởi" là giáo
lý được chính Đức Phật trân trọng như là thậm thâm về nghĩa và
pháp. Trước khi trả lời câu hỏi lý thú này ta hãy tìm hiểu giai đoạn
ngộ đạo của Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên lúc khởi đầu.
Như được biết qua sử Phật giáo, đôi bạn Upatissa và Kolita (tên thời
trẻ trung của hai vị trên) sau khi nhận thấy giáo lý của Sanjaya là trống
không, đã hẹn với nhau ai tìm ra đạo bất tử trước phải báo
ngay cho người kia. Một hôm thanh niên Upatissa (tức Xá Lợi Phất) tình cờ
gặp Đức Assaji trên đường và được nghe giải đại ý của lời Phật
dạy qua kệ ngôn:
Ye dhammā hetuppabhavā
Tesaṃ hetuṃ Tathāgato āha
Tesanca yo nirodho ca
Evaṃ vādi mahāsamano’ti.
"Các pháp nào phát sanh từ một
nhân
Đức Như Lai đã chỉ ra nhân đó
Và cách để tận diệt chúng
Vị Đại Sa Môn đã dạy như vậy."
Sau khi nghe kệ ngôn của Đức
Assaji, thanh niên Upatissa đã khởi lên pháp nhãn, nhờ vậy chàng nhận thức
được rằng "Bất cứ pháp nào có bản chất sanh, tất cả
pháp đó có bản chất diệt". Khi thanh niên Kolita nghe Upatissa lập lại
bài kệ giải thoát cũng được pháp nhãn, như bạn mình. Cả hai tìm
đến Đức Phật vả trở thành hai đại đệ tử ưu tú nhất.
Từ "Dhammā" (các pháp)
trong kệ ngôn trên chỉ cho các pháp hữu vi luôn luôn sanh diệt trong con người
của chính mình vào lúc hiện tại. Chúng ta cần phân biệt giữa Nhân và
Duyên. Một nhân cần thiết đưa đến quả. Một Duyên có thể là cần thiết,
nhưng chưa đủ. Nhân ngụ ý rằng nếu cái gì có mặt, cái kia phải theo.
Duyên nói rằng nếu cái gì có mặt, cái kia phải có mặt trước hoặc phải
có mặt bây giờ. Nhân chuyển từ hiện tại đến tương lai bằng một cách
nhất định. Duyên thì không quyết định và ngụ ý rằng không có gì sanh
từ một nhân đơn độc. Trí Tuệ mà có khả năng thâm nhập sự sanh diệt
đang diễn ra và giải thoát người ta khỏi các pháp hữu vi, đó
là Trí Tuệ duy nhất đưa người vượt qua đại dương sanh tử, giải thoát
những ràng buộc của Vô Thường tướng và các pháp phù du trong đời.
Trí Tuệ đó gọi là Đạo Tuệ, tức là chứng ngộ Bát Thánh Đạo.
Tóm lại, kệ ngôn trên có nghĩa là Đức Phật đã tuyên thuyết nhân
sanh khổ và nhân diệt tận đau khổ. Đây là bài kệ tóm lược
về Tứ Thánh Đế.
Bây giờ trở lại với câu hỏi
trên về lý duyên khởi. Kệ ngôn của Đức Assaji đã giải đáp thỏa
đáng. Thuyết duyên khởi trình bày hai tiến trình: tiến trình chấp thủ
của ngã kiến và tiến trình ly chấp thủ ngã kiến do giác ngộ lý
duyên khởi. Kệ ngôn bốn câu trên đã cô động được Tứ Thánh Đế,
đồng thời cũng nêu ra định lý của duyên khởi pháp môn "Do cái này
có cái kia có. Do cái này không có cái kia không có". Như vậy về đại
thể Tứ Thánh Đế và Thập Nhị Duyên Khởi chỉ là một, chỉ khác là mỗi
pháp môn được thuyết tùy theo căn cơ của đối tượng nghe pháp. Hơn nữa,
trong Vô Ngã tướng kinh Đức Phật trích ra những phần cương yếu của lý
duyên khởi để giảng, kết quả là Tứ Thánh Đế và Thập Nhị Duyên
Khởi đã được giảng cho năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật ./.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/vuongquoc.htm