- Kết thúc của Tây Du Ký,
sự chống lại đạo đức
- Thích Nhật Từ
Tây Du Ký còn gọi là Truyện
Tề Thiên Đại Thánh, một bộ tiểu thuyết trường thiên, cổ điển của
văn học Trung Quốc, đã được giới độc giả trên khắp thế giới hâm
mộ, ưa thích, mỗi khi đọc đến quên cả ăn và bỏ cả ngủ. Gần đây,
các đài truyền hình trong nước, từ đài Cần Thơ cho đến đài TP. HCM đã
cho chiếu rộng rãi bộ phim truyện này do nữ đạo diễn Dương Khiết thực
hiện, thì Tây Du Ký một lần nữa trở nên phổ biến hơn và quen
thuộc hơn đối với mọi người từ già đến trẻ, từ trí thức đến bình
dân.
Từ mọi góc độ, người đọc
cũng như người xem cảm nhận tác phẩm theo những nhận thức khác nhau,
và đúc kết cho mình những bài học cũng vô cùng khác nhau. Tác dụng của
tác phẩm rất đa dạng. Nó đến với lòng người dĩ nhiên không thể đồng
dạng với ý tưởng nắn ra tác phẩm của tác giả Ngô Thừa Ân. Và do vậy,
sự đánh giá, nhận định, bình phẩm, dù trải qua nhiều thời kỳ vẫn cứ
nghiễm nhiên diễn ra theo chủ kiến của người cầm bút.
Từ góc độ nghệ thuật cũng như
diễn xuất, Tây Du Ký của đạo diễn Dương Khiết phong phú và hấp
dẫn không kém gì nguyên tác truyện của Ngô Thừa Ân. Có thể nói, đạo
diễn Dương Khiết và các tay diễn viên lão luyện của bà đã thành công
đáng kể ở mặt này. Tuy nhiên, một bộ phim dài 25 tập, tuy có chọn lọc
từ bộ truyện dài hơn 2000 trang với 81 nạn trên đường thầy trò Đường
Tăng thỉnh kinh, cũng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Ngay cả nguyên tác, ngoài mặt thành công nghệ thuật và tính cách của
các tuyến nhân vật, thiện ác rõ ràng, đẹp xấu phân minh, Ngô Thừa Ân
cũng vấp phải nhiều thiếu xót rất lớn. Chẳng hạn như sự thiếu tính
logic trong diễn tiến các tình tiết của nhân vật Sa Tăng và Ngựa Bạch
giữa trước lúc còn là yêu quái với lúc sau khi được Đường Tăng nhận
làm học trò và theo thầy sang Thiên Trúc thỉnh kinh. Tôn Ngộ Không với 72
phép thần thông biến hóa phi thường, nhào một cái là mấy trục vạn dặm,
vậy mà phải mất đến 17 năm trời mới cùng thầy đến được Thiên
Trúc, một nước cách Đại Đường có là bao xa, so với cái nhào nhảy
"khôn lường" đó. Các vị Phật và Bồ-tát tuy được tác giả
mô tả trong truyện vượt xa 72 phép thần thông của Tôn Ngộ Không và dĩ
nhiên hơn cả Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân và bỏ xa Nương
Nương Thánh Mẫu, nhưng lại là các tuyến nhân vật đóng vai phản diện hơn
là chính diện. Chính Phật tổ Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm đã bắt
giam Tôn dưới chân núi Ngũ Hành ngót 500 năm dài và cũng chính Phật Tổ
Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm một lần nữa tạo ra 81 nạn cho 4 thầy
trò Đường Tăng, để rồi dẫn đến kết thúc của tác phẩm chẳng có
nghĩa lý gì: Như Lai là người chủ mưu cuộc hối lộ cái "bát
vàng" trước khi giao chân kinh có chữ về Đông Thổ. Hẳn rằng phim của
đạo diễn Dương Khiết giữ lại tình tiết này bằng một tập cuối,
trong khi đã lược bỏ rất nhiều nạn khác, hẳn không phải là không có
dụng ý và mục đích của nó. Điều này thiết tưởng không cần nói thì
người xem vẫn rõ.
Chúng ta có thể thông cảm với
Ngô Thừa Ân rằng muốn cốt truyện ăn khách thì phải hư cấu. Tuy nhiên
hư cấu để cho người xem có thể chấp nhận được mà không gượng ép
thì hư cấu đó phải bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực. Nghĩa là mượn
những nhân vật có thật, chẳng hạn A, B, C, để tố cáo, phản ánh các
nhân vật A' B' C' mà mình không tiện nói thẳng hay không dám đụng tới.
Đối tượng cần được phản ánh núp sau tính cách bỉ lậu của nhân vật
được hư cấu phải được xác lập trên nền tảng sự thật và không
nên đi qúa đà. Vì khi hư cấu quá đà thì tác phẩm không những trở nên
kỳ cục mà quan trọng hơn, khó được người đọc chấp nhận. Trong truyện
cũng như trong phim Phậtt Tổ Như Lai chủ mưu cuộc hối lộ bằng cách
"ném đá dấu tay," mặc ra lệnh cho hai tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà,
những vị thánh tăng hàng đầu trong hàng đệ tử Phật, đòi "quà
thông cảm" với bốn thầy trò Đường Tăng. Điều đó đã làm cho ba
vị đồ đệ cương trực của Đường Tăng bất bình. Nhưng vì thấy tôn
giả Ca-diếp và A-nan-đà "xuống nước nhỏ" (nhưng thật chất là
đánh lừa), cả ba vị đã hỷ xả mà không làm lớn chuyện! Bốn thầy
trò tưởng mọi việc êm xuôi, hớn hở đem kinh về. Gần về đến Đại
Đường thì bổng đâu chim Đại Bàng của Phật Di-lặc cướp bay lên
không, rồi sau đó bỏ xuống đất. Lúc đó, thầy trò Đường Tăng mới vỡ
lẽ ra là kinh mà họ khổ công mang về là "kinh vô tự." Ở đây,
theo dụng ý của Ngô Thừa Ân, Phật Di-lặc cũng là người gián tiếp gây
họa, vì biết việc hối lộ mà không truy tố, đợi đi về gần tới nước
mới cho hay. Có lẽ tác giả cố nắn ra những cái éo le như vậy để ru
ngủ độc giả.
Cái gút "kinh vô tự và kinh hữu
tự" mà tác giả dựng lên không mang dụng ý thiền học như nhiều
người đã cố tình lý giải. Thật ra, nó nhằm tạo ra thái độ căm phẫn,
cay cú của độc giả đối với đức Phật và Bồ-tát, thông qua đó, bôi
bác, xuyên tạc Phật giáo. Mặc dù chúng ta co thể chấp nhận với tác giả
Ngô Thừa Ân rằng ở bất kỳ thời đại nào, sự đút lót, hối lộ, ăn
chận không thể tránh khỏi với những phần tử cơ hội và phản diện,
nhưng chúng ta không thể đồng tình với tác giả khi ông áp đặt các phần
tử xấu xa, đáng lên án bằng hình ảnh của đức Phật và các vị thánh
tăng. Không phải ở các xã hội phong kiến, nạn hối lộ mới có, mà cả
các xã hội tư bản và cộng sản, nạn này tràn lan không kém gì, thậm
chí còn tinh vi và thâm độc hơn nhiều, như gần đây báo chí trong và
ngoài nước đã vạch mặt điểm tên. Tác giả Ngô Thừa Ân thật là quái
đãng. Ông đã dựng lên một con khỉ không cha không mẹ, một con heo với
nhiều tính cách xấu và một con yêu quái phá hại dân lành. Nhưng khi làm
đồ đệ Đường Tăng, chúng đã trở thành nào là Chiến Đấu Thắng Phật,
Tịnh Đàn Sứ Giả và nào là Kim Thân A-la-hán, để rồi làm gì? Bất quá
chỉ thành cỡ Phật Tổ Như Lai hay tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà, những người
đã chủ mưu cuộc hối lộ là cùng !?
Có rất nhiều hình tượng để chúng
ta hư cấu, mà thông qua đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc
giáo dục thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng là
những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc vĩ nhân của nhân
loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý tưởng hóa). Các ngài là những
con người lịch sử thật. Các đóng góp về đạo đức và trí tuệ của
các ngài cho nhân loại là những sự thật lịch sử không phủ nhận được.
Những người cầu tiến bộ về đời sống đạo đức và tâm linh phải học
hỏi ở các ngài. Do đó, người làm công tác văn học không nên tùy tiện
đem các ngài ra mà mua bán, mà giễu cợt với một thái độ trịch thượng
với dụng ý kích bác và vu khống. Phật và Bồ-tát không những không thể
có các thói hư thế tục đó mà các ngài là những người đã giáo dục
cuộc đời từ bỏ chúng. Do đó không thể tô đen các ngài để giáo dục
xã hội. Bởi lẽ chính các ngài bằng hành động, lời nói và ý nghĩ đã
để lại nhiều bài học đạo đức vô giá để cho toàn nhân loại học hỏi
và trau dồi.
Tôi cho rằng Ngô Thừa Ân đã xúc
phạm một cách trịch thượng đến đức Phật, các vị Bồ-tát và các vị
thánh tăng, khi ông bất chấp dư luận, dựng lên một tình tiết trái ngang
"tồi" như trên. Nếu Ngô Thừa Ân biết hư cấu một vị Hòa thượng
tu đến cuối cuộc đời, chỉ vì tham vọng cưỡng đoạt y bát của Đường
Tăng mà gây ra thảm họa thiêu hủy ngôi đại Già-lam và cuối cùng phải
bị chết thiêu một cách tàn khốc; nếu Ngô Thừa Ân biết hư cấu một
nhà sư chỉ vì đam mê sắc đẹp của yêu tinh Ngọc Thố mà phải bị yêu
tinh này giết chết lúc nửa đêm, và nhiều hư cấu khác có thể chấp nhận
được trong cuộc sống v.v... thì tại sao Ngô Thừa Ân không biết hư cấu
những vị "phàm tăng" nào đó trông coi hay cận phụ Linh Sơn Tự
đã bày trò "đúc lót" bốn thầy trò Đường Tăng thì có phải khả
dĩ chấp nhận hơn không? Vì đó có thể là chuyện đời thường, có thể
xảy ra ở bất kỳ nơi nào, và ở bất kỳ con người nào chưa dứt trọn
vẹn lòng tham lam, ích kỷ, Đây là mà điều đức Phật dạy không chỉ
mang lại kết quả xấu xa, bất hạnh cho mình mà còn cho người khác,
không chỉ ở đời nay mà còn ở đời khác nữa. Những điều gì mà đức
Phật khuyên người ta nên từ bỏ, xa lìa thì Ngô Thừa Ân lại đem những
cái đó gán lên đức Phật. Như vậy mục đích của Ngô Thừa Ân nhằm
vào đâu: truyền bá đạo đức hay chống lại đạo đức? Dĩ nhiên câu trả
lời là chống lại đạo đức Phật giáo. Mục đích giáo dục của Ngô Thừa
Ân nếu có thông qua truyện cũng đã trở nên vô nghĩa, khi ông dựng lên
cái trò quái gỡ ở đoạn cuối của truyện: Phật Tổ hối lộ một cách
trắn trợn lại còn lên tiếng mắng Tô Ngộ Không, khi chú khỉ này đòi
làm lớn chuyện:
"Nhà ngươi chớ nói ồn lên!
Chuyện hai người đó [Ca-diếp và A-nan] đòi lễ bọn ngươi, ta đã biết
rồi. Có điều là kinh không phải ai cũng cho, mà cũng không thể lấy
không được. . ." và "chỉ lấy được của nhà ấy ba đấu, ba
thăng vàng cốm đêm về, ta còn bảo bọn họ bán quá rẽ, con cháu đời
sau lấy tiền đâu mà dùng!"
Để làm cơ sở cho việc Phật tổ
chủ mưu hối lộ, Ngô Thừa Ân còn dựng chuyện Đường Tăng đã chấp nhận
thủ tục "đầu tiên" để lấy được các loại kinh có chữ:
"Lũ hạ thần biết rằng Phật
tổ biết rõ việc hai tôn giả đòi ăn lễ, đành phải đem cái bát tộ bằng
vàng tía vua ban biếu họ, họ mới chịu truyền bộ chân kinh có chữ."
Có thể khẳng định rằng mục đích
bôi nhọ này đã được Ngô Thừa Ân định hướng ngay từ đầu truyện
hư cấu của ông. Bởi vì theo quy định của Phật người tu sĩ Phật giáo
không được sử dụng bát bằng vàng. Ở đây, Ngô Thừa Ân dựng lên sự
kiện vua Đường Thái Tông tặng cho ngự đệ Huyền Trang mới kết nghĩa của
mình một cái bát bằng vàng, để rồi mấy chục hồi sau mới có chuyện
có phẩm vật quý để đúc lót kẻ hối lộ.
Xem Tây Du Ký nếu những cái hay,
cái độc đáo, cái ly kỳ của nó chúng ta khen ngợi thì những cái phi lý
của nó nhất là cái phản đạo đức, phản giáo dục, đi ngược lại sự
thật thì chúng ta phải thẳng thắn lên án, nếu chúng ta không muốn để
mặc tình cho thế giới hư cấu của Tây Du Ký cũng như tên tuổi của Ngô
Thừa Ân đã bao đời được các nhà văn học nhận định, đánh giá một
cách a dua theo kiểu "thấy ai sang bắt quàng làm họ" đi vào ngỏ cụt
của bế tắt, của sự phản lại đạo đức cuộc sống.
Tháng 7 năm 1989
http://www.buddhismtoday.com/viet/doi/011-tnt-tayduky.htm