...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- SỰ HÀI HÒA TRONG TÔN
GIÁO
- Đa Dạng Là Lợi Lạc1
- Tỳ-kheo Thích Minh
Thành dịch
***
Con người đã bị phân hóa quá nhiều
và quá thường xuyên chỉ vì những danh hiệu và những tên gọi. Đáng lẽ
ra thì chúng ta nên tìm hiễu ý nghĩa và nội dung đích thực thì ngược lại
chúng ta lại nắm giữ và chấp mắc những danh hiệu và tên gọi. Thay vì
chúng ta cố gắng tìm biết một người nào đó thực sự là người như
thế nào và người ấy thực sự tin tưởng cái gì thì ngược lại chúng
ta đã đánh giá và kỳ thị vì tên gọi hay danh hiệu của người đó.
Chúng ta đã mường tượng ra một ý nghĩa chung chung cho một tên gọi hay
danh hiệu nào đó rồi chúng ta cứ yên chí cho rằng người nào có tên gọi
hay danh hiệu như thế thì người đó đại để là như vậy. Đầu óc hẹp
hòi của chúng ta nghĩa rằng, "Nếu họ là một người Phật Tử Nguyên
Thủy, thì họ sẽ không nghe theo những giáo lý của Đại Thừa. Nếu họ
là một người Thiên Chúa Giáo thì họ không nghe theo lời dạy của Phật
Giáo. Nếu họ có niềm tin tôn giáo thì họ không còn tinh thần khoa học nữa."
Thiên trọng về đầu óc tư duy thuần
lý nên người ta suy nghĩ "Tôi là ‘thế nầy, thế nầy’ và họ là
‘thế kia, thế kia’" để rồi người ta tranh luận với nhau. Điều
nầy đã xảy ra giữa những người cùng theo một Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni; điều nầy cũng đã xảy ra giữa người theo Phật Giáo và người
theo tôn giáo khác. Cũng may là không có cuộc chiến tranh nào mà người ta
nhân danh Đức Phật để đánh nhau; cũng may là không có cuộc chiến tranh
nào mà người ta nhân danh bảo vệ Đạo Phật để đánh nhau, cũng không
có cuộc chiến tranh nào mà người ta phát động dưới danh nghĩa là truyền
bá Đạo Phật. Tuy nhiên, bất cứ một quan điểm nào có tính chất hẹp
hòi cục bộ thì đều tai hại, không những nó làm hỏng đi sự tiến bộ
tâm linh của chúng ta mà nó còn tạo ra sự xung đột giữa con người với
con người.
Bây giờ chúng ta thử phân tích xem
đầu óc cục bộ làm hư hại sự tiến bộ tâm linh của chúng ta như thế
nào?
Trong Đạo Phật, hai phẩm chất mà
chúng ta cần phải làm cho tăng tiến là trí tuệ và từ bi. Nếu chúng ta
chấp chặt vào tôn giáo của chúng ta thì chúng ta sẽ cảm thấy bị xúc
phạm khi gặp một người ngoại đạo không tin điều mà chúng ta tin tưởng;
không kính thờ những gì mà chúng ta đang kính thờ. Khi đó chúng ta sẽ bực
tức và manh động; khi đó chúng ta ra sức bảo vệ cho niềm tin của chúng
ta và công kích người kia.
Đến giai đoạn nầy thì chúng ta
đã không còn ra sức tìm hiễu sự thật nữa, chúng ta chỉ có một việc
duy nhất trong đầu là bênh vực cho tôn giáo của chúng ta cho bằng được.
Lý do duy nhất là vì đó là tôn giáo của chúng ta. Một tâm lượng hẹp hòi
và sân giận như vậy sẽ tạo nên những vết hằn đen tối ác nghiệp
trong tâm thức của chúng ta. Những nghiệp xấu nầy sẽ che ngăn chúng ta,
khiến cho trí tuệ của chúng ta không thể tăng trưởng hay phát triển cao
siêu hơn được nữa.
Mặt khác, tâm sân giận là tâm đối
nghịch với lòng từ, một tấm lòng mong muốn cho tất cả mọi người đều
đạt được hạnh phúc và thoát khỏi mọi khổ đau.
Rõ ràng là đầu óc cục bộ đã cản
trở, không cho khã năng trí tuệ và tấm lòng từ bi của chúng ta phát triển.
Đầu óc cục bộ sẽ không đưa chúng ta đến sự giác ngộ, ngược lại
nó sẽ đưa chúng ta đi càng ngày càng xa sự giác ngộ giải thoát và an lạc.
Hài
Hòa Giữa Những Truyền Thống Khác Nhau Trong Phật Giáo
Khi đã có được một tổng quan về con đường đưa tới
sự giác ngộ thì chúng ta hiễu được rằng Giáo Pháp của Đức Phật là
những bài học mà Ngài đã dạy cho nhiều người đệ tử khác nhau, với
nhiều căn cơ, nhiều khuynh hướng khác nhau, để cho tất cả mọi người
và từng người đều biết cách tu tập phù hợp nhất với cá nhân mình.
Không có lời dạy nào mà Đức Phật tuyên thuyết ra để cho chúng ta bài
bác hay phê bình cả. Vì mỗi lời dạy chỉ thích hợp với một trình độ,
một tâm lượng nào đó, hay một giai đoạn nào đó trong quá trình tu tập
của chúng ta. Nếu chúng ta cứ phê bình giáo pháp này hay những lời dạy
kia của Đức Phật mà không chịu ra sức thực nghiệm và tự thân nổ lực
tu tập thì chúng ta đang làm công việc từ bỏ những giáo pháp, những phương
tiện có thể dẫn chúng ta đến giác ngộ.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa
là chúng ta cần phải tu tập tất cả những giáo pháp hay tất cả những
lời dạy ngay tức thì. Giáo pháp của Đức Phật thật là mênh mông và
sâu thẩm, chúng ta phải thâm nhập từ từ. Chúng ta nên tu tập những
giáo pháp nào phù hợp với căn tánh của chúng ta và những lời dạy nào
mà chúng ta cảm thấy mình có thể tu ngay bây giờ. Không cần phải tu theo
tất cả những giáo pháp ngay tức thì. Từng chút, từng chút, chúng ta sẽ
tu tiến và làm cho giáo pháp của Đức Phật thấm dần dần vào cuộc sống
tu học hàng ngày của chúng ta. Đôi khi chúng ta tạm bỏ qua một bên pháp
môn nầy hay pháp môn kia; điều đó không có nghĩa là chúng ta không thừa
nhận pháp môn đó mà chỉ vì pháp môn đó không nằm trong lãnh vực, trong
phạm vi tu tập trong giai đoạn đó của chúng ta mà thôi.
Người ta có khuynh hướng muốn dùng
thứ tốt nhất, muốn theo pháp môn hạng nhất. Nhưng "tốt nhất"
hay "hạng nhất" có nghĩa là gì? Sách nhi đồng là tốt nhất cho
trẻ em và sách của người đã trưởng thành là tốt nhất cho người lớn.
Chúng ta không thể nói sách nhi đồng là sách tốt nhất, cũng không thể
nói sách của người trưởng thành là sách tốt nhất. Tương tợ như thế
sách tiếng Việt là tốt nhất cho những người chỉ biết tiếng Việt mà
thôi, nhưng đối với một người chỉ biết tiếng Hoa thì sách vở tiếng
Hoa là tốt nhất. Chẳng thể nào khẳng định được cái nào là cái
"tốt nhất" cho tất cả mọi người.
Điều chủ yếu ở đây là hãy nhận
thức rằng không phải tất cả mọi người đều giống nhau. Chúng ta có
thể thích món ăn Việt Nam nhưng người kia lại thích món của ăn của Đức
hay của Pháp chẳng hạn. Điều đáng ghi nhớ là cả hai loại món ăn đều
bổ dưỡng và duy trì được sức khỏe. Tương tợ như vậy, người nầy
tu theo truyền thống Nguyên Thủy, người kia tu theo truyền thống Đại Thừa.
Nhưng cả hai truyền thống đều giúp cho người ta tu tập và tiến triển
trên con đường giải thoát. Cần nói thêm ở đây rằng một nhóm người
nầy theo Phật Giáo còn một nhóm người khác thì theo một hệ thống triết
học nào đó. Cả hai nhóm người đều có được những lợi lạc và thăng
tiến miễn là cả hai hệ thống đều khuyến khích người ta tránh xa những
việc làm có tai hại cho người khác và ra sức làm những điều có lợi
cho mọi người càng nhiều càng tốt.
Chúng ta đừng phê bình những truyền
thống khác của Đạo Phật chỉ vì phương pháp hành trì của họ khác với
phương pháp hành trì của chúng ta. Chẳn hạn như một số người cảm thấy
phấn chấn với việc cúng dường, tế lễ và cầu nguyện. Một số người
khác thì thấy những việc đó không là gì cả, họ lại thích ngồi yên
thiền định tư duy quán chiếu hơn. Không phải mọi người chúng ta đều
giống nhau, mà chúng ta cũng không nên giống nhau. Điều tuyệt vời là có
rất nhiều truyền thống khác nhau cùng tồn tại trong Đạo Phật và nhờ
vậy mà mọi người có thể chọn lựa để tìm ra một truyền thống
thích hợp với cá tính của mình nhất mà theo đó để tu tiến.
Cũng vậy chúng ta đừng nên chỉ
trích những lời dạy nào của Đức Phật chỉ vì chúng ta cảm thấy rằng
những lời dạy đó không phù hợp với chúng ta. Đức Phật đã nói lên
những pháp thoại phù hợp với căn tánh của người nghe. Đức Phật đã
diễn bày giáo lý vô ngã theo nhiều phương diện khác nhau tùy theo căn cơ
của thính chúng. Do đó mà bốn tông phái Tây Tạng (Nyingma, Kargyu, Gelu và
Sakya) đã được khai sáng, mỗi tông phái dựa trên những bộ kinh khác
nhau và có những khẳng quyết khác nhau về ý nghĩa của giáo lý vô ngã
theo cách riêng của mình.
Thái độ khinh thị bất cứ một
quan điểm hay một tông phái nào là thái độ không sáng suốt, mỗi một
tông phái phù hợp với một dạng căn tánh nào đó, phù hợp với một
trình độ tâm thức nào đó. Chúng ta cũng chớ có tự thị và suy nghĩ rằng,
"Ta đã đạt được sự nhận thức cao nhất rồi, ta không còn phải
biết thêm một sự nhận thức nào khác cao hơn nữa cả." Thực tế, các
vị đạo sư vĩ đại đều nói rằng việc nhận thức được vô ngã tính
một cách rốt ráo tối hậu là một việc làm vô cùng khó khăn cần những
nổ lực rất lớn lao và bền bỉ. Chỉ khi nào chúng ta đạt được sự
nhận thức về vô ngã tính của tất cả những tông phái khác nhau thì
lúc đó chúng ta mới có thể đạt được một sự nhận thức tối hậu về
vô ngã tính.
Sự đa dạng của những quan điểm
triết học rất là hữu ích trong việc kích thích năng lực học hỏi của
chúng ta. Nó khiến cho chúng ta băng khoăng, "Nhận thức tối hậu là
gì? Các pháp thực sự tồn tại như thế nào? Để giải đáp thỏa đáng
điều trên chúng ta phải học hỏi và kiểm nghiệm tất cả các nhận thức
để tìm kiếm ra được sự nhận thức tối hậu. Nhờ vào quá trình học
hỏi và kiểm nghiệm đó mà trí tuệ của chúng ta tăng trưởng. Nên xác
quyết rằng việc nhận thức không tính không thể thực hiện bằng cách lập
đi lập lại trong đầu óc một câu hay một đoạn giáo lý nào đó mà phải
dựa trên sự hiễu biết có được nhờ vào việc tư duy về nhiều nhận
thức triết học khác nhau.
Chúng ta cũng không nên chỉ trích
những truyền thống khác khi những truyền thống đó xữ dụng những từ
ngữ không giống với từ ngữ mà chúng ta xữ dụng. Một từ ngữ có thể
có những hàm nghĩa khác nhau trong những truyền thống khác nhau. Nếu chúng
ta không nhớ điều thực tế nầy thì chúng ta có thể đọc một quyển
kinh sách của một truyền thống khác rồi nhận thức một từ vựng nào
đó theo truyền thống của chúng ta. Làm như vậy chúng ta sẽ làm sai lạc
ý nghĩa thực sự của từ ngữ đó. Làm như vậy thì tất nhiên là những
giáo lý chứa trong quyển sách mà ta đọc không thể hiển lộ ra một nghĩa
lý gì cả. Ngược lại, nếu chúng ta chịu khó tìm học để có một kiến
thức rộng rãi thì chúng ta sẽ hiễu được ý nghĩa đích thực của từ
ngữ đó trong văn cảnh đặc biệt của riêng nó và nhận ra rằng những
truyền thống tuy khác nhau nhưng cùng hướng đến một chổ giống nhau.
Đề cập đến sự khác biệt của
từ vựng được dùng trong 4 giáo phái Phật Giáo Tây-tạng (Nyingma, Kargyu,
Gelu and Sakya) để diễn đạt trạng thái tối hậu trên con đường tu tiến,
Đức Đạt-lai Lạt-ma trong tác phẩm Lòng Từ, Sự Sáng Suốt và Trí Tue䠦#273;ã viết, "Khi đã vượt thoát được ngục tù của
đầu óc cục bộ rồi thì chúng ta sẽ nhận ra rất nhiều điều mới lạ,
thú vị và làm thức dậy trí năng vô tận đang tiềm tàng trong bản thân
của chúng ta. Chúng ta sẽ thấy được những bộ phái khác nhau đều được
xây dựng trên một nền tảng tư tưởng căn bản như nhau."
Những lời thệ nguyện của một vị
Bồ-tát và những lời thệ nguyện theo truyền thống Kinh Cang Thừa đều
chứa đựng những lời ngăn cấm không cho hành giả khinh thị bất cứ một
lời dạy nào của Đức Phật. Kinh Tổng Nhiếp có dạy: "Nầy Văn-thù-sư-lợi,
người nào xem một số lời dạy nầy của Như Lai là tốt đẹp và xem một
số lời dạy khác của Như Lai là không tốt đẹp thời người đó đã hủy
báng Chánh Pháp. Người nào nói rằng lời dạy nầy là hợp lý, lời dạy
kia là phi lý... hoặc lời dạy nầy dành cho bậc Bồ-tát mà thôi, lời dạy
kia mới dành cho thính chúng... hoặc lời dạy nầy là lời dạy mà vị Bồ-tát
không cần phải tu tập theo thời người đó đã hủy báng Chánh
Pháp."
Phật
Giáo và Những Tôn Giáo Khác
Những vị lãnh
đạo những tôn giáo vĩ đại trên thế giới đã và đang tìm kiếm những
phương cách để làm lợi lạc cho nhau qua việc trao đổi những kinh nghiệm
tâm linh với nhau. Tuy nhiên những tín đồ có đầu óc hẹp hòi thì lại
chấp chặt những danh hiệu của những kinh nghiệm tâm linh và những triết
thuyết rồi tranh chấp với người không đồng tình với mình hoặc tranh
chấp với những người có tín ngưỡng khác danh xưng với tín ngưỡng của
mình. Trong lịch sử nhân loại, số lượng những người bị giết vì
không đồng tín ngưỡng thật là kinh hồn. Không có vị giáo chủ nào của
những tôn giáo trên thế giới lại vui lòng khi thấy rằng vì nhân danh của
mình, nhân danh tôn giáo của mình mà con người đã phải chịu cảnh chém
giết chết chóc, máu đổ thịt rơi.
Tâm hồn của bậc thánh thì không
vướng mắc vào những danh hiệu hay mỹ hiệu. Vì sao? Vì cái mà vị ấy
tìm cầu là nội dung và ý nghĩa, là sự hòa hợp và lòng thương yêu. Vị
ấy không cần phải chứng tỏ rằng chỉ có mình là chân chánh và giáo
lý của mình là phương cách duy nhất. Hầu hết những vị lãnh đạo tôn
giáo lớn trên thế giới đều sống một đời sống giản dị và tìm thấy
niềm an lạc trong tự thân. Những vị ấy không trông mong những lời ca tụng
hay tài sản, thế lực hay sự vinh quang. Những thánh nhân như vậy không
bao giờ có đầu óc thù nghịch và cục bộ, không bao giờ có thành kiến
tôn giáo. Những thánh nhân đó cùng có chung một hoài bảo là tín đồ của
mình được sống hạnh phúc trong một bầu không khí hòa bình với vạn loại
sinh linh.
Tất cả tôn giáo đều có chung những
điểm chủ yếu sau đây: (1) Tất cả tôn giáo đều nhận thức rằng chỉ
tạo ra sự phồn thịnh về mặt vật chất mà thôi thì không phải là con
đường đưa đến an vui. (2) Có một trạng thái an lạc thuộc tâm linh cao
cấp hơn so với những trạng thái khoái lạc có được ngang qua các giác
quan (ngang qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) của con người. (3) Tất cả tôn
giáo đều ra sức khuyến khích và giúp đở con người hoàn thiện bản
thân qua việc tu dưỡng sức kiên nhẫn, lòng thương yêu và tánh tôn trọng
mọi người. (4) Mọi tôn giáo đều muốn con người tăng cường thiện cảm
với con người và biểu hiện thiện cảm đó bằng cách phục vụ cho tha
nhân. (5) Để đạt được mục đích nầy tất cả tôn giáo và tín ngưỡng
đều nêu cao những giá trị đạo đức để giúp con người chế ngự hành
vi của mình. Trong tác phẩm Lòng Từ, Sự Sáng Suốt và Trí Tuệ Đức
Đạt-lai Lạt-ma đã nói:
Mục tiêu của tất cả sự tu tập
tôn giáo đều giống nhau là thương yêu, chân thành và tôn trọng sự thật.
Phong cách sống của tất cả những người có tu tập thật sự là an vui
và tự tại. Những lời dạy về đức tính bao dung và tấm lòng từ ái đều
giống nhau. Tất cả tôn giáo đều có mục đích cơ bản là lợi lạc
nhân sinh, tuy là làm theo phương thức riêng, khác biệt nhau nhưng mỗi tôn
giáo đều ra sức giáo hóa con người để cho con người trở nên tốt hơn
và thánh thiện hơn. Nếu chúng ta quá trọng thị và quá chấp chặt vào nền
triết học, tôn giáo, hay học thuyết của riêng chúng ta; rồi tìm cách áp
đặt nền triết học, tôn giáo hay học thuyết của riêng chúng ta lên
thân phận của tha nhân thì hậu quả sẽ là bất an và rối khổ. Về căn
bản mà nói thì tất cả những bậc giáo chủ vĩ đại như Thích-ca,
Jê-su, Mô-ha-mét... những vị giáo chủ đó đã sáng lập ra những giáo
thuyết tôn giáo với mục đích là giúp ích cho mọi người. Thích-ca,
Jê-su, Mô-ha-mét... không hề hướng đến mục đích lợi lạc cho bản
thân và cũng không hề nghĩ đến việc tạo ra thêm những rối khổ và bất
an cho cuộc đời đã có khá nhiều rối khổ và bất an nầy.
Cốt lõi của Phật Giáo là sự
sáng suốt và lòng thương yêu. [2] Cốt lõi của giáo lý Thiên
Chúa Giáo, Ấn-độ Giáo, Do-thái Giáo, Hồi Giáo cũng là đạo đức và
lòng thương yêu. Sự sáng suốt, đạo đức và lòng thương yêu là những
phẩm chất có giá trị phổ quát, trùm khắp tất cả không gian và thời
gian trong vũ trụ nầy.
Về phương diện triết lý thì có
những khác biệt – tôn giáo nầy thì tin có một đấng sáng tạo ra vũ trụ
và thế gian nầy, trong khi tôn giáo khác như Phật Giáo thì lại không tin
như thế. Vì vậy làm một kẻ ngây thơ mới nói rằng triết lý của tất
cả tôn giáo đều giống nhau. Có lẽ chỉ có những người đã đắc đạo
thì mới có thể thấy là chúng giống nhau. Những người bình thường như
chúng ta (xin lỗi chư tôn đức) chỉ có thể nghĩ rằng những sở đắc tâm
linh mầu nhiệm của những bậc thánh trong tất cả các tôn giáo đều giống
nhau, nhưng khi diễn đạt lại cho tín đồ nghe thì những bậc thánh ấy lại
vận dụng những hệ thống thuật ngữ và những hệ thống khái niệm
khác nhau. Chữ nghĩa và lời nói đã không đủ sức trình bày rốt ráo hết
được những sự thật tâm linh mầu nhiệm đó. Khi đã hiện thân thành những
chữ nghĩa và lời nói thì chúng chỉ là một phiên bản phục chế từ những
sự thật tâm linh mầu nhiệm đó. Do vậy những kinh nghiệm tâm linh mầu
nhiệm có thể là giống nhau nhưng chữ nghĩa, khái niệm và cách nói để
diễn đạt chúng thì lại khác nhau.
Tuy nhiên đối với những người
căn cơ bình thường như chúng ta (xin lỗi chư tôn đức) thì chữ nghĩa và
khái niệm vẫn có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn cho chúng ta
trên con đường đi đến chổ đạt được kinh nghiệm tâm linh. Do vậy,
chúng ta phải học hỏi, phân tích nhiều triết thuyết khác nhau để có thể
quyết định một triết thuyết cụ thể nào có thể giúp cho chúng ta một
cách tốt đẹp nhất trong việc thanh lọc thân tâm và phát triển những phẩm
chất cao quý đang tiềm tàng trong bản thân của chúng ta. Chúng ta không cần
phải chỉ trích người khác vì triết thuyết mà họ ham thích không giống
với triết thuyết mà chúng ta đang ham thích. Mặc dù chúng ta có thể thảo
luận và thậm trí tranh luận về mặt triết học với nhau để chỉ ra những
điểm không nhất quán của triết thuyết nầy và nêu ra những phẩm chất
tốt đẹp của triết thuyết kia. Nhưng làm như vậy không có nghĩa là
chúng ta khinh thị những người tin vào triết thuyết nầy hay triết thuyết
kia.
Theo quan điểm Phật Giáo thì sự
đa dạng phong phú của triết thuyết là có lợi lạc. Vì sao? Vì không phải
ai cũng thấy sự vật một cách giống nhau. Con người ta có trình độ khác
nhau, cảm thức khác nhau, tánh khí khác nhau nên nếu có nhiều dạng nhiều
loại tôn giáo khác nhau cùng hiện diện thì thật là lợi lạc. Nhờ vậy
người ta có thể chọn lựa tôn giáo nào thích hợp với cá nhân mình nhất
mà tin theo và hành trì. Thật là khủng khiếp nến tưởng tượng ra tình
trạng mà tất cả mọi người trên thế giới nầy đều phải chấp nhận
một khuôn mẩu tôn giáo nhất định nào đó và tất cả mọi người đều
phải suy nghĩ giống y nhau theo khuôn mẩu của một triết thuyết nào đó.
Thật ra, điều tưởng tượng trên là không thể có. Đức Đạt-lai Lạt-ma
có nói:
Tôi nghĩ rằng có nhiều dạng tín
ngưỡng khác nhau là hữu ích. Đó là một sự sung túc và giàu có, con người
có nhiều hình thức thể hiện, nhiều cách thức trình bày khác nhau về
luân lý đạo đức. Cứ nhớ trong đầu rằng con người trên thế gian thật
là đông đảo, thật là nhiều dạng, nhiều hạng, nhiều tâm tư, nhiều tính
cách khác nhau, nhiều cảm thức khác nhau thì chúng ta sẽ thấy rằng có
nhiều dạng tín ngưỡng khác nhau nhiều dạng tôn giáo khác nhau là hữu
ích.
Đối Thoại
Giữa Các Tôn Giáo
Ở Âu Châu, Bắc
Mỹ và Úc Châu những con số những cuộc đối thoại giữa các tôn giáo
đang có chiều hướng gia tăng. Khi Đức Đạt-lai Lạt-ma đã đi Âu Châu
thì Ngài đã làm thượng khách được tòa thánh Vatican mời đến thăm viếng.
Một giám mục Tin Lành (Episcopalian) cao cấp đã giới thiệu Đức Đạt-lai
Lạt-ma cho thính giả của ông ta tại Đại Giáo Đường Westminster vào năm
1985. Những nhà sư Tây-tạng và ni cô Tây-tạng đã đến viếng thăm những
tu viện Gia-tô Giáo ở Hoa-kỳ; những tu sĩ và nữ tu sĩ thuộc giáo hội
Gia-tô Giáo Hoa-kỳ ngược lại đã đến và đang tu học tại những tu viện
Phật Giáo Nhật-bản. Trong nội bộ Phật Giáo hiện nay cũng đã có những
cuộc hội nghị và hội thảo mang tầm vóc quốc tế. Những cuộc hội họp
nầy được đại diện của tất cả các truyền thống, các tông phái,
các sơn môn Phật Giáo trên thế giới tham dự. Trên đây chỉ nêu ra một
vài sự kiện điển hình chứ thật ra còn nhiều sự kiện mang tính chất
toàn cầu như thế đã diễn ra (mà người viết không được thông tin).
Mặc dầu ngày nay sự kiện các
nhà lãnh đạo của những tôn giáo lớn trên thế giới họp mặt và học
hỏi lẫn nhau là một sự kiện góp phần cực kỳ quan trọng vào nền hòa
bình của thế giới. Chúng ta cũng nên ý thức rằng đối với những người
tu học bình thường như chúng ta (xin lỗi chư tôn đức) thì việc gặp gỡ
và học hỏi với những người đang tu theo tôn giáo khác cũng quan trọng
không kém. Những cuộc hội thoại giữa các tôn giáo không những giúp cho
chúng ta có thể cùng nhau cầu nguyện, thiền quán và chia xẽ kinh nghiệm về
sự an lạc nội tâm; những cuộc hội thoại giữa các tôn giáo còn giúp
cho chúng ta tránh được sự mê tín, hóa giải những sự hiễu lầm nhau
và làm tan đi sự sợ sệt đối với nhau.[3]
Khi chúng ta tiếp xúc nhiều, bàn luận
nhiều với những người thuộc tôn giáo khác thì chúng ta sẽ có được sự
hiễu biết tốt hơn về cơ chế hoạt động của tâm hồn con người, chúng
ta sẽ có được sự hiễu biết tốt hơn về phương thức để truyền đạt
cho người nghe thuộc một hệ thống tâm thức tôn giáo khác sao cho trùng với
phương thức mà chính người đó dùng để nắm bắt vấn đề. Tâm hồn của
chúng ta trở nên linh hoạt hơn và chúng ta có thể vượt qua những lời mà
người khác dùng để diễn đạt để nắm bắt được những ý nghĩ mà
người đó muốn diễn đạt. Nếu chúng ta nghe một tu sĩ của Gia-tô Giáo
đã tu trên 50 năm kể cho nghe về những tầng bậc khác nhau trên con đường
tu tiến và những chướng ngại khó khăn mà bản thân vị ấy đã vượt
qua thì chúng ta sẽ thấy rằng câu chuyện của vị tu sĩ ấy có nhiều điểm
tương đồng song song với quá trình tu tập thuộc Phật Giáo của chúng ta.
Điều nầy rất có thể sẽ khiến cho chúng ta có thêm sức tinh tấn để
vượt qua những thời kỳ khó khăn của chính chúng ta trong quá trình tu tập.
Nếu chúng ta có điều kiện nói
chuyện với một giáo sĩ Do-thái Giáo, thì chúng ta sẽ vô cùng kinh ngạc
khi biết được rằng một số phương thức lễ nghi của Do-thái Giáo cổ
đại lại rất giống với những phương thức lễ nghi của Phật Giáo. Nếu
chúng ta đọc một số sách về phương pháp quán chiếu của Thiên Chúa
Giáo thì chúng ta có thể nhận ra nhiều điểm tương tự với ‘tổ sư
thiền’ của Phật Giáo Tây-tạng. Những điều như thế sẽ giúp cho
chúng ta nhận chân được cả sự đa dạng và sự nhất thể trong tư tưởng
mang tính chất tôn giáo của loài người.
Nhận chân được tôn giáo và tín
ngưỡng của người ngoại đạo không hề làm bất ổn và nguy hiểm cho việc
tinh tấn hành trì những pháp môn của người theo Phật Giáo. Ngược lại,
khi mà chúng ta có thể nhìn xuyên qua ngôn ngữ và khái niệm để nắm bắt
được điều mà ngôn ngữ và khái niệm muốn diễn đạt, khi mà chúng ta
có thể vượt qua được những sự khác biệt hời hợt bên ngoài để nắm
bắt được một mục đích tối hậu sâu xa bên trong thì khã năng trí tuệ
và tâm lượng từ bi của chúng ta sẽ phát triển. Khi ấy, niềm tin của
chúng ta đối với ngôi Tam Bảo càng ngày càng tăng trưởng.[4]
***
(Phóng dịch từ nguyên tác tiếng
Anh "Taming the Monkey Mind" của Thubten Chodron)
***
GHI CHÚ
[1] Đã cắt đoạn
sau đây ra:
Những lời dạy mà tôi đã được
nghe trong khóa thiền đầu tiên đã làm thay đổi cuộc đời tôi rất sâu
sắc. Những lời dạy đó gây ấn tượng mạnh trong lòng tôi không phải
là vì đó là những lời Đức Phật dạy mà vì đó là những lời dạy
có ý nghĩa lớn. Tôi chẳng để tâm đến việc người nào đã dạy như vậy,
tôi cũng chẳng để tâm tới việc lời dạy đó thuộc về tôn giáo nào,
tôn giáo đó tên gì. Tại sao vậy? Tại vì điều mà tôi cảm kích thật sự
là nghĩa lý tốt đẹp của lời dạy đó và giá trị to lớn của lời dạy
đó trong đời sống hằng ngày của tôi.
Cái thuở đầu tiên đó, tôi không
hề biết những danh từ to lớn, những tên gọi ấn tượng như Đại Thừa,
Nguyên Thủy... Thật ra, tôi chẳng màng đến danh từ nào cả. Cái thuở đầu
tiên đó tôi cũng chẳng hiễu những danh từ chỉ cho các giáo phái của Phật
Giáo Tây Tạng như Nyingma, Kargyu, Gelu and Sakya. Thiền Tông, Tịnh Độ Tông,
Mật Tông, Kim Cang Thừa đối với tôi lúc ấy chỉ là những danh từ, những
tên gọi. Đến ngày hôm nay tôi cảm thấy không dễ chịu khi bị người
ta hỏi, "Chị đi theo thừa nào vậy?". Tôi cũng cảm thấy không dễ
chịu khi có người hỏi tôi "Chị đi theo tông nào vậy?". Tại sao
tôi không cảm thấy dễ chịu? Tại sao tôi cảm thấy khó chịu khi có ai
đó hỏi những câu hỏi đại loại như thế? Tại vì trong lòng của tôi
thì tôi chỉ là một con người chỉ thuần túy là một con người trong muôn
vạn con người đang tìm cầu hạnh phúc và tìm cách để cho đời sống của
tôi có ý nghĩa và có lợi lạc cho những người khác. Như thế là đủ.
{2} Đã cắt đoạn sau đây ra:
Chúng ta có thể diễn đạt hay biểu
lộ và thực hiện sự sáng suốt và lòng thương yêu nầy mà không cần phải
vận dụng đến những từ ngữ cao siêu trong nền triết học Phật Giáo.
{3} Đã cắt đoạn sau đây ra:
"Chính bản thân tôi đã có
được nhiều lợi ích qua những cuộc bàn luận với những người thuộc
tôn giáo khác. Tôi đã có được sự hiễu biết tốt hơn về cơ chế hoạt
động của tâm hồn con người, tôi đã có được sự hiễu biết tốt
hơn về phương thức để truyền đạt cho người nghe sao cho trùng với phương
thức mà chính người nghe dùng để nắm bắt vấn đề. Tâm hồn của tôi
trở nên linh hoạt hơn và tôi có thể vượt qua những lời mà người khác
dùng để diễn đạt để nắm bắt được những ý nghĩ mà người đó muốn
diễn đạt. Tôi cũng đã tiếp thu được một số hướng dẫn tuyệt diệu.
Khi đó một nữ tu sĩ bề trên của Gia-tô Giáo đã tu trên 50 năm kể cho tôi
nghe về những tầng bậc khác nhau trên con đường tu tiến mà bản thân
bà ta đã trải qua và những chướng ngại khó khăn mà bản thân bà ta đã
vượt qua. Tôi khám phá ra rằng trong câu chuyện của bà có nhiều điểm
tương đồng song song với quá trình tu tập thuộc Phật Giáo. Điều nầy
khiến cho tôi, một nữ tu sĩ trẻ tuổi hơn, có thêm đởm lực để vượt
qua những thời kỳ khó khăn của quá trình tu tập."
Một lần khác tôi đối thoại với
một nữ giám mục dòng Bap-tít và chúng tôi đã so sánh những kinh nghiệm
vì chúng tôi đều là nữ tu trong tôn giáo. Lần đối thoại nầy thật là
lợi lạc và đầy phấn khởi. Khi nói chuyện với một nữ giáo sĩ của
Do-thái Giáo, tôi vô cùng kinh ngạc khi biết được rằng một số phương
thức lễ nghi của Do-thái Giáo cổ đại lại giống nhau với những
phương thức lễ nghi của Phật Giáo. Khi đọc một quyển sách về phương
pháp quán chiếu của Thiên Chúa Giáo tôi lại nhận ra nhiều điểm tương
tự với ‘tổ sư thiền’ của Phật Giáo Tây-tạng. Trải qua những điều
như thế giúp cho tôi nhận chân được cả sự đa dạng và sự nhất thể
trong tư tưởng mang tính tôn giáo của loài người.
Nhận chân được tôn giáo và tín
ngưỡng của người khác không hề làm bất ổn cho việc tinh tấn hành
trì Phật Giáo của chúng ta. Ngược lại, khi mà chúng ta có thể nhìn
xuyên qua ngôn ngữ và khái niệm để nắm bắt được điều mà ngôn ngữ
và khái niệm muốn diễn đạt, khi mà chúng ta có thể vượt qua được những
sự khác biệt hời hợt bên ngoài để nắm bắt được một mục đích
chung sâu xa bên trong thì khã năng trí tuệ và lòng từ bi của chúng ta sẽ
phát triển và niềm tin của chúng ta đối với ngôi Tam Bảo trở thành niềm
tin bất động.
{4} Theo đoạn chót của quyển
Taming the Monkey Mind của Thupten Chodron
http://www.buddhismtoday.com/viet/doi/015-haihoa.htm
|
|