- Quan điểm của Phật giáo đối với
các tôn giáo khác
- HT. K. Sri Dhammananda
- Thích Nữ Giới Hương dịch
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong
việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dung và
ý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của phật
giáo, hay nói cách khác là để tìm hiểu thế nào là thái độ của
phật giáo đối với các tôn giáo khác .
Ý nghĩa sâu sắc của tôn giáo là ở chỗ duy trì và
kính trọng tôn giáo của riêng mình nhưng không để mất đi sự kính
trọng đối với các tôn giáo khác . Từ đó, chúng ta sẽ thiết
lập một sự hiểu biết hổ tương, hợp tác và khoan dung giữa
những nhà tôn giáo với nhau để tất cả cùng đạt đến sự
đòan kết và lợi lạc.
Người ta luôn nói về lòng bác ái của tôn giáo
và tầm quan trọng của nó, nhưng ít khi chú trọng đến cách tu tập
để đạt đến sự khoan dung độ lượng này. Ở đây cũng hy vọng
rằng trong mục tiêu nhắm đến của bài viết, độc giả có thể có
được một hình ảnh rõ ràng hơn về tánh cách độ lượng của
tôn giáo và cố gắng để thăng hoa tính độ lượng đó. Chúng ta
nên cố gắng lọai bỏ cái gọi là phức cảm tự tôn luôn cho mình
là hơn người, ngờ vực lẫn nhau, định kiến tôn giáo và các
động cơ ích kỷ, để làm tốt đẹp và nâng cao tôn giáo mà mình
đang kính trọng. Do đó, tìm hiểu tôn giáo là điều cần thiết.
Tất cả những người có tôn giáo phục vụ cho một
nguyên lý chung của nhân lọai là giải thóat và gíac ngộ . Việc truy
tìm gíac ngộ và giải thoát là việc tìm cầu chân lý. Bất hạnh
thay! Chính trong chúng ta có nhiều cách thực tập và niềm tin tôn
giáo buồn cười mà được mô tả giống như tương tợ chân lý,
mà thực sự là chúng cách xa chân lý. Đối với những nhà tôn
giáo chân chính chúng ta phải có can đảm và lòng tin để xác định
rằng những gì là nhận thức sai lầm và cố gắng để chỉnh lý nó
làm cho phù hợp với khoa học và hợp lý để đáp ứng các yếu
tố cần thiết của chân lý. Chúng ta sẽ thất bại, nếu chúng ta cố
bám víu vào những điều mà chúng ta biết không phải là chân lý.
Chúng ta sẽ sai lầm nếu trong việc tu tập tánh khoan dung, mà không
tương xứng, không phù hợp với chân lý. Trong việc truy tìm chân
lý, chúng ta nên lọai bỏ các thái độ tranh đua hơn thua mà phải
hợp tác làm việc để đạt mục tiêu cao thượng của chúng ta là
hòa hợp tôn giáo vì lợi ích của nhân lọai.
Đức Phật đã chỉ ra rằng khi ngài còn tại thế có
nhiều cách tu tập tại Aán không có chấp nhất về các giá trị tôn
giáo nào, ngài đã nhã nhặn khuyên những đệ tử của mình bố
thí đồ ăn cho các bà la môn cùng những người khất sĩ khác và
cổ vũ họ một cách bình đẳng, bất luận họ theo tôn giáo nào.
Đức Phật cũng đã khuyên các đệ tử không làm tổn thương đến
các tu sĩ và bà la môn và Ngài đã hòa giải các tu sĩ cũng như
các bà la môn hòa hợp lại với nhau. Đức Phật đã nói rằng khi
một người lừa gạt bà la môn, một tu sĩ hoặc người nghèo bằng
cách nói dối, điều này là nguyên nhân đọa lạc của người đó.
Vì vậy, ngài đã cư xử chân thật, tốt bụng đối với tất cả
mà không có sự phân biệt nào hết.
Mục đích của phật giáo là hướng dẫn mọi người
sống đời sống thánh thiện, không bao giờ có tâm hãm hại người
khác, trau giồi phẩm chất con người để đạt chân giá trị nhân
bản, tỏa sáng lòng từ bi bao la, bình đẳng đến tất cả không có
sự phân biệt, tu tập tâm tránh làm điều ác và thanh tịnh để
đạt an lạc và hạnh phúc.
Phật giáo là một tôn giáo hướng dẫn con người
"biết sống và bảo vệ sự sống". Trong lịch sử thế giới
không có sự kiện nào cho thấy rằng người phật tử đã làm
điều nguy hại đối với tôn giáo khác ở bất cứ nơi nào trên
thế giới vì mục đích truyền bá phật pháp. Người phật tử không
xem sự tồn tại của các tôn giáo khác như là một chướng ngại
đối với hạnh phúc và an lạc của nhân gian.
Thông điệp của Đức Phật là một sự mời gọi
tất cả mọi người gia nhập vào tình huynh đệ bao la để tạo sức
đòan kết vì an lạc và hạnh phúc của con người. Ngài đã không
có lựa chọn người và chính Ngài cũng không xem mình là người
được chọn.
Tăng đòan truyền bá chánh pháp đầu tiên của Đức
Phật là những bậc A la hán (những bậc thánh thiện hòan tòan). Họ
là những người cao thượng do sự nỗ lực, tinh cần về sự xã ly
và tu tập đạt đến sự hòan thiện. Trước khi gởi những đệ
tử này, Đức Phật đã khuyên họ như sau:
"Này các tỳ kheo, hãy lên đường vì lợi ích cho
số đông, vì an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng đối với
đời, vì lợi ích an lạc cho chư thiên và lòai người. Này các tỳ
kheo, hãy tuyên thuyết giáo pháp cao thượng, để đưa đến một
đời sống thánh thiện, hòan tòan thanh tịnh".
Theo lời khuyên này, Đức Phật muốn nói với tất
cả mọi người sự khác biệt giữa thiện và ác, Ngài muốn dạy
con người phương cách sống để đưa đến một đời sống hạnh phúc
an lạc và lợi ích. Ngài không bao giờ khuyên các đệ tử của
mình cải đạo người khác từ tôn giáo này sang tôn giáo khác.
Lý tưởng giáo hóa của Ngài là giới thiệu cách sống chân chánh
thánh thiện.
Đức Phật không chỉ trích, lên án bất kỳ tôn giáo
nào mà trái lại gíac ngộ con người bằng việc chỉ cho họ sự vô
ích của hai cực đoan : hành xác và hưởng dục và tránh việc
thực hành những điều vô nghĩa hoặc mê tín dưới nhãn hiệu tôn
giáo.
1. Tôn giáo chân chánh
Để trả lời cho câu hỏi cái gì cấu thành một tôn
giáo đích thực, Đức Phật đã đưa ra một sự khẳng định vô tư
rằng bất kỳ nơi nào pháp Tứ diệu đế và Bát chánh đạo được
tìm thấy, nơi nào có người tu tập chân chánh để đạt đến tiến
bộ tâm linh thì nơi đó được coi là tôn giáo đích thực. Ngài
đã không nói rằng phật giáo là tôn giáo chân chánh duy nhất
trên thế gian này mà ngài lại cổ vũ con người chấp nhận và tôn
kính chân lý đối với bất kỳ nơi nào chân lý thật sự được
tìm thấy. Điều này có nghĩa là chúng ta không nên xem thường các
lời dạy hợp lý của những tôn giáo khác. Một thái độ như vậy
rõ ràng cho thấy rằng Đức Phật không bao giờ có thành kiến đối
với các tôn giáo khác, Ngài cũng không độc quyền nắm giữ chân
lý. Ngài muốn chỉ ra một điều duy nhất chân lý và tất cả
các lời dạy của Ngài là dựa trên Tứ diệu đế: chân lý về
khổ, nguyên nhân của nó, sự đọan diệt khổ và con đường đưa
đến sự đọan diệt khổ.
Lúc nào Đức Phật cũng khuyên các đệ tử của
Ngài làm những điều cần nên làm, không chỉ vì lợi ích và hạnh
phúc của riêng mình mà còn vì lợi ích và hạnh phúc của những
người khác. Ngài đã nói: " Nếu điều đó tốt cho bạn và
người khác thì cần nên làm. Ngược lại, nếu điều đó có hại
cho bạn và những người khác thì không nên làm". Là một
nhà cải cách xã hội, Đức Phật đã khám phá ra cội gốc sâu xa
của khổ đau nhân loại là tham sân si đã cắm sâu trong tâm con
người. Do đó, chỉ có sự cải thiện đúng đắn nơi tâm con người
mới có thể mang đến hiệu quả. Sự cải thiện dựa trên thế
giới bên ngoài bằng thế lực hoặc sức mạnh thì chỉ có thể kéo
dài trong một thời gian ngắn, nhưng sự cải cách xuất phát từ
chuyển hóa nhận thức bên trong của con người thì lâu bền hơn.
Cái bất thiện có khuynh hướng tăng trưởng tham,
sân, si phải được vượt qua và chuyển đổi bởi sức mạnh của
từ bi và trí tuệ. Chính ngang qua sự thanh tịnh tâm mà an lạc và
hạnh phúc có thể được mang đến một cách hữu hiệu thông qua
tôn giáo.
Phật giáo đã trở thành tôn giáo có tăng đòan
truyền giáo đầu tiên trên thế giới. Cách đây gần 2300 năm, nhờ
nỗ lực nhiệt tâm của Hòang đế A Dục (305-268 trước Tây lịch)
(là người đạt đến đỉnh cao của khát vọng quyền lực, đã từ
bỏ chiến tranh bạo động giết người để trở thành một người
phật tử thuần thành ủng hộ phật pháp và văn hóa phật giáo trong
thời gian trị vì của mình). Ngài đã phái các đòan truyền bá
chánh pháp, gồm cả con trai và con gái của mình đi khắp đất nước
Aán độ và nước ngòai để mang thông điệp cứu khổ của Đức
Phật đến với mọi người. Vận dụng truyền thống cao thượng của
Đức Phật, nhà vua đã không bao giờ quên nhắc nhở những sứ
gỉa truyền giáo này được chỉ trích hay xem thường bất kỳ tôn
giáo khác trong khi đang thuyết giảng phật pháp. Lời khuyên này đã
được khắc trên trụ đá của vua A Dục bằng chữ Phạn và ngày nay
những tàn tích này vẫn còn được thấy ở Sarnath, Ba La Nại, Aán
Độ.
Trụ đá ghi như sau:
"Chúng ta không nên tôn trọng chỉ riêng tôn
giáo của mình và chỉ trích các đạo của những người khác mà
nên tôn trọng các tôn giáo khác vì lý do này hay lý do khác .
Với việc làm này, chúng ta mới giúp tôn giáo của mình phát
triển và làm cho sự nghiệp truyền bá của các tôn giáo khác cũng
phát triển. Ngược lại với hành động này, là chúng ta tự chuốc
lấy tai họa cho tôn giáo mình và cũng tổn hại cho đạo khác. Bất
kỳ ai tôn trọng đạo của mình và chỉ trích các đạïo khác, rồi cho
rằng làm như vậy là trung thành với tôn giáo của mình, nghĩ rằng
"Tôi sẽ mang vinh quang về cho đạo của mình". Vì vậy, sự hòa
hợp là tốt nhất: " Hãy lắng nghe tất cả và sẳn lòng lắng
nghe những giáo lý mà các tôn giáo khác tuyên thuyết".
Các dân tộc ở Á Châu đã có nhiều lý do để
biết ơn vị đại hòang đế này. Là một nhà cai trị, ngài đã làm
tròn bổn phận ủng hộ các tôn giáo khác mà không có sự phân
biệt.
2. Hòa hợp tôn giáo
Các nguyên lý tôn giáo đều có mục đích phục vụ
con người. Nếu có nhóm cá biệt nào của nhân lọai mà không áp
dụng các đức tính cao quý được dạy bởi tôn giáo như là từ
bi, kiên nhẫn, khoan dung và hiểu biết thì sẽ khó cho những người
khác chung sống hòa bình.
Đó là điều rất tự nhiên đối với người ích
kỷ, xảo quyệt để lợi dụng lòng tốt nhưng hãy để cho tất cả
những nhà tôn giáo ngày nay nhớ rằng những người đấu tranh,
những cuộc đổ máu dưới danh nghĩa tôn giáo, không theo các nguyên
lý tôn giáo và không phục vụ nhu cầu con người. Họ đấu tranh vì
lợi ích cá nhân hoặc là quyền lực bởi việc dùng danh nghĩa tôn
giáo. Những người tu tập tôn giáo chân chánh không có lý do nào
để đấu tranh, họ nên hòa giải các vấn đề của họ trong tánh
cách hòa bình. Một tôn giáo chân chánh không bao giờ khuyến khích
bất kỳ hình thức bạo động nào dưới bất kỳ hòan cảnh nào.
Đồng thời không có sự phân biệt chủng tộc khi người ta thực
hành phương pháp tu tập. Người phật tử có thể sống và làm
việc với những người khác đạo mà không có bất kỳ thái độ
thù địch nào. Người phật tử không bao giờ có máu đổ trong sự
phân biệt khác nhau giữa họ với những tôn giáo khác vì lợi ích
của tôn giáo.
Ngày nay vì sự hung bạo đã và đang tiếp tục bành
trướng dưới danh nghĩa tôn giáo, nhiều người đã trở nên thất
vọng khi đề cập đến từ "tôn giáo " .
Chủ nghĩa duy vật, đạo đức giả và sự cuồng tín
đang giả trang dưới chiêu bài tôn giáo đã gây ra thảm hại ghê
gớm nhất trong lịch sử nhân lọai. Gía trị tôn giáo đích thực là
sự biến mất nhanh chóng khỏi tâm con người khi họ đi tìm sự
huyền bí sâu kín. Các tôn giáo lớn của thế giới đang lao vào
trong vô số hình thức khiến cho một số người nhạo báng tôn giáo
. Đã đến lúc các nhà tôn giáo hãy cùng nhau đưa các giá trị
tôn giáo vào trong một bối cảnh thích hợp, thay vì chỉ tranh luận
trên sự khác biệt của các ý thức hệ hoặc thần học của tôn
giáo .
Tôn giáo không nên giới hạn ở sự thờ phượng
và cầu nguyện. Tôn giáo không có phải là một phương tiện cho sự
thuyết giảng suông mà là một phương tiện thực tiễn cho con người
họat động vô hại, có đóng góp cho nhân lọai, đạt đến an lạc
và hạnh phúc chân thật.
Các tôn giáo khác nhau có thể có những niềm tin và
những quan điểm khác nhau đối với sự khởi đầu và chấm dứt
của sự sống, cũng như sự diễn giải khác nhau về việc giải thóat
tối thượng. Nhưng chúng ta không nên bận tâm đối với những vấn
đề không đồng nhất tạo ra sự xung đột, mâu thuẫn, hiểu lầm,
hận thù và đấu tranh.
Có nhiều đức tính chung đủ để các nhà tôn giáo
trình bày lý thuyết và thực tập, để con người có thể sống
đời sống chân chánh, an lạc và có văn hóa.
Chúng ta không nên xem thường và khiển trách những
người khác . Nếu làm như vậy, chúng ta mở đường cho các nhóm
chống tôn giáo đang sẳn sàng nhạo báng và chỉ trích các tôn giáo
. Chúng ta không nên cư sử trong cách như vậy, khi bày tỏ thái độ
thù địch của chúng ta đối với các nhà có tôn giáo . Nếu chúng
ta làm như vậy, người ta sẽ nói rằng tôn giáo khuyến khích chúng
ta chia rẻ.
Phật giáo không cấm đóan việc bày tỏ lòng tôn
kính đối với các đạo sư của các tôn giáo khác , cũng không
hạn chế họ thăm viếng chiêm bái các nơi thờ phượng và thánh
tích ngòai phật giáo. Họ có thể bày tỏ sự hợp tác trong khi tu
tập các nguyên lý căn bản của phật giáo.
Phật giáo khuyến khích sự hợp tác và hiểu biết
trong các tôn giáo khác . Từ quan điểm này của phật giáo, thì
nhãn hiệu tôn giáo không phải là điều quan trọng nhất đối với
người được xem là tôn giáo, nhưng một người hướng dẫn đời
sống tâm linh thánh thiện, vô hại có thể được xem như là tôn
giáo .
Những người vạch lỗi và chỉ trích phật giáo chỉ
có thể làm được điều đó ở mức độ cạn cợt. Họ có thể
chỉ trích các pháp môn tu tập truyền thống, các cách thức và lễ
nghi nhưng không thể chỉ trích nguyên lý đã được Đức Phật thiết
lập. Vì những nguyên lý này là hòan thiện ở mọi thời. Mọi
người có thể tu tập được những nguyên lý này nếu họ muốn.
Các phương pháp dùng để giới thiệu giáo pháp của
Đức Phật đều khế lý và khế cơ. Đức Phật đưa ra chân lý này
ngang qua lí trí và thực nghiệm. Lời dạy này được trình bày rõ
ràng, giản dị, gây ấn tượng sâu sắc và rõ ràng giúp cho tâm con
người chúng ta không điên đảo và trở nên sáng suốt. Phương
pháp này hiển nhiên làm sáng tỏ những nghi ngờ và lọai bỏ
những mê tín mù quáng, hạn hẹp. Vì vậy, lời dạy của Đức Phật
đã thuyết phục tâm và trí của những người thiết tha tìm cầu
chân lý. Quan điểm phật giáo về sự khoan dung và hiểu biết cũng
đã thuyết phục những nhà tư tưởng lớn, triết gia, nhà duy lý,
nhà tư tưởng tự do, nhà theo thuyết bất khả tri
đều đánh
giá phật giáo là một phương thức sống an lạc.
Theo Đức Phật, con người do tính tự ngã mạnh mẽ
nên phân biệt có sai khác. Khi điều này lắng dịu thì mối quan hệ
lành mạnh giữa những con người với nhau sẽ phát triển. Tìm cầu
cách sống hòa bình , an lạc phải bắt đầu từ bên trong buông xã
những thủ chấp này chứ không phải bên ngoài mà được .
Nếu các nhà tôn giáo ngày nay không thể cùng nhau
làm việc trong sự hòa hợp, bình đẳng không có sự phân biệt
hoặc thái độ thù nghịch đối với người khác thì hòa bình mà
chúng ta nói đến sẽ chỉ là trong giấc mơ mà thôi.
Khi những nhà tôn giáo chân chánh, thật lòng nối
vòng tay lớn, hợp nhất những nỗ lực lại với nhau thì sẽ loại
trừ được tất cả những tranh luận, và phân biệt giáo lý sai
khác, và sẽ cố gắng phổ biến những giá trị tâm linh của những
tôn giáo khả kính của chúng ta vì sự an lạc và hạnh phúc cho con
người, mà không phân biệt tín ngưỡng hoặc chủng tộc nào. Chúng
ta cũng nên nhớ rằng tôn giáo hiện hữu vì lợi ích của nhân
loại và như vậy không nên lạm dụng một cách quá mức trong bất
cứ cách nào chỉ vì cho lợi ích và vinh quang của cá nhân.
3. Sự hợp nhất
Hãy để những nhà tôn giáo hòa hợp mà không
dùng chủ nghĩa quân phiệt tôn giáo. Hãy để họ hợp nhất để
chấm dứt tất cả hành động hung bạo và sát nhân trong danh nghĩa
chiến tranh. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để mang lại tự do cho
con người, và để tìm thấy một tôn giáo theo đức tin của họ.
Hãy để các tôn giáo đòan kết lại với nhau để loại trừ tư
tưởng độc quyền tôn giáo. Hãy để các tôn giáo thống nhất lại
không dùng tôn giáo ở nơi buôn bán cho việc thuyết phục những
người khác bằng cách tuân theo những phương thức không rõ ràng.
Hãy để các tôn giáo hòa hợp lại để tôn trọng niềm tin và
phương pháp tu tập của người khác, miễn là tín ngưỡng và sự tu
tập này không tổn hại và lừa dối mọi người. Hãy để các tôn
giáo hòa hợp để tẩy sạch những thái độ thách thức của việc
chạy đua tôn giáo không lành mạnh. Hãy để các tôn giáo hòa
hợp để loại trừ những đồi bại, những cách tu trái luân lý
đang phổ biến trong xã hội hiện đại. Hãy để các tôn giáo hòa
hợp để giới thiệu cách sống ôn hòa giữa những tín đồ của
họ và khuyên họ không đi vào các cực đoan.
Các nhà sáng lập của mỗi tôn giáo đã có những
mục tiêu căn bản là hòa hợp nhân loại để nuôi dưỡng
sự đòan kết, thiện chí và sự hiểu biết giữa tất cả mọi
người trên thế giới.
Theo đường hướng này, nhiều nhà lãnh đạo tôn
giáo khác cũng đã tìm cách để phát triển lãnh vực sâu sắc
này vì đức tin của người khác. Tuy nhiên, bất hạnh thay, một số
tín đồ nào đó của mỗi tôn giáo, vì những lý do ích kỷ cá
nhân và tâm hẹp hòi, không độ lượng đã đi ngược với tôn
chỉ đích thực của tôn giáo và do vậy đã tạo ra sự hỗn độn,
hiểu lầm, phân biệt và không khoan dung.
Chúng tôi tha thiết hy vọng từ sự nhận thức các
sự kiện này, một ngày nào đó nhân loại sẽ bắt tay nhau làm
việc hòa hợp trong tình huynh đệ bao la vì lợi ích và an lạc của
tất cả mọi con người trên hành tinh này.
Cuối cùng, kính trọng tôn giáo của người khác sẽ
làm nảy sinh sự tự tin cho tôn giáo của chính mình.
{Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "The Buddhist Attitude
towards other Religions" của Đại lão HT. K. Sri Dhammananda, trong tác
phẩm " Các Viên Ngọc Trí Tuệ của phật giáo "( Gems of Buddhist
Wisdom), CBBEF, Taiwan, 1996, trang 497-508}