- Trương Vĩnh Ký,
ông là ai?
- Bùi kha
Nhiều thập niên qua, tên
tuổi của cựu giáo sĩ Pétrus Trương Vĩnh Ký đã đi vào lịch sử. Dưới
thời Pháp thuộc và VNCH, người ta vinh danh ông bằng cách đặt tên đường,
tên trường. Vì áp lực chính trị hoặc vì tình cảm địa phương hay vì
cảm tình tôn giáo hoặc thiếu sử liệu nên tên tuổi của Sĩ-Tải
Bao-ti-xi-ta Pétrus Trương Vĩnh Ký đã được đánh giá thiếu cẩn trọng.
Trong bài viết nầy, tôi sẽ cố gắng
vượt ra ngoài các phạm trù chính trị, địa phương và tôn giáo để góp
phần vào việc trả lại cho Trương Vĩnh Ký cái giá trị đúng như tư tưởng
và hành động của ông trong thời kỳ Pháp đô hộ nước ta.
Để việc định vị công (nếu
có) và tội của họ Trương được chính xác, tôi xử dụng các tài liệu
do chính Trương đã viết cho các viên chức cao cấp của thực dân Pháp dưới
hình thức những lá thư, và tài liệu của chính nhân viên trong chính phủ
thuộc địa Pháp tại Việt Nam. Các tài liệu nầy được tìm thấy trong bản
thảo cuốn sách có tựa đề "Cuốn Sổ Bình Sinh của Trương Vĩnh Ký
" từ trang 93-143 bis và từ trang 251-285. Tác giả bản thảo cuốn sách,
nói đây, là Nguyễn Sinh Duy, NXB Nam Sơn, Saigon in và phát hành tháng 3, 1975.
Công hoặc tội của Bao-ti-xi-ta Trương
Vĩnh Ký, tổng quát, cần được xét trên hai phương diện: tư tưởng chính
trị, và những đóng góp văn học của ông nhằm mục đích gì? Trong phần
kết luận chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao họ Trương lại có những tư tưởng
và hành động đi ngược với quyền lợi của tổ quốc.
I.TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA TRƯƠNG
VĨNH KÝ (1837 – 1898)
Ngày 1.9.1858, đô đốc thực dân
Pháp Rigault de Genouilly đổ bộ đánh chiếm Đà Nẵng. Quân dân Việt Nam nhất
tề chống Pháp xâm lược. Với sự phản ứng kiên trì của quân dân Việt
Nam cọng thêm khí hậu khắc nghiệt tại Đà Nẵng lúc bấy giờ, quân
Pháp đã phải rút khỏi Đà Nẵng để vào Nam chiếm thành Gia Định ngày
17.2.1859. Sau một thời gian ngắn, trung tá hải quân Jean Bernard Jaureguiberry
và 800 lính ở lại giữ thành Gia Định, còn Genouilly thì trở ra Đà Nẵng
đánh phá lần thứ nhì.
1. Trước cảnh nước mất nhà tan,
Trương Vĩnh Ký đã không tham gia phong trào đánh đuổi thực dân như bao
nhiêu người khác. Trái lại ông còn viết thư cho viên trung tá thực dân
nói trên, yêu cầu giúp đỡ để tiêu diệt quân dân Việt Nam mà họ Trương
gọi đó là kẻ thù. Thư nói trên viết vào cuối tháng 3.1859, lúc Trương
22 tuổi, trong đó có một số đoạn như sau:
"... Nhưng tôi nhân danh là người
đại diện cho tín hữu Ki-tô kính dâng lên Ngài lời cầu xin của chúng
tôi... nỗi thống khổ mà chúng tôi hằng gánh chịu dưới bạo quyền của
các quan lại triều đình gây ra... Tất cả chúng tôi chắc sẽ chịu chết
nếu Ngài không kịp đánh đuổi kẻ thù [1] của chúng ta..." (Văn
khố Hải quân Pháp, Paris: SUM Vincennes. TS Vũ Ngự Chiêu sưu tập).
Đọc đến đoạn nầy, có người
sẽ nghĩ rằng vì vua quan nhà Nguyễn quá tàn ác với giáo dân Công Giáo
nên Trương Vĩnh Ký phải kêu gọi thực dân giải cứu. Thực tế không phải
như vậy. Sau đây là lời phát biểu của đô đốc Page, một tên thực
dân cao cấp, đã viết thư cho bộ trưởng hải quân Pháp ngày 15.12.1859 như
sau:
"Những năm đầu mới lên
ngôi, vua Tự Đức có một thái độ đối xử khá ân cần với họ (các
giáo dân). Nhà vua đã ra lệnh cho các quan lại địa phương có thái độ
khoan dung, rộng rãi với họ trong những chuyện làm trái pháp luật, những
vụ phạm pháp nhỏ. Nhưng rồi các giáo dân, do các giáo sĩ lãnh đạo ngày
càng xấc xược ngạo mạn đến mức độ họ không thèm biết đến cả
chính quyền địa phương. Họ công khai nổi loạn, họ tuyên bố người
Ki-tô giáo không thể vâng lời những kẻ theo một tôn giáo
khác..."(Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu của Sự Thiết Lập Hệ Thống
Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam – 1858-1897, tác giả xuất bản, Hoa Kỳ 1995,
trang 86. Phần tiếng Pháp có thể tìm thấy trong thư khố Pháp, tài liệu Hải
Quân số hiệu BB4-77).
Giả sử nếu triều đình có những
lúc đối xử cứng rắn với các giáo dân thì đó là điều dễ hiểu và
không thể tránh được. Nếu chúng ta ở vào hoàn cảnh đó; và muốn cho
quốc gia được độc lập và có chủ quyền thì cũng không thể làm khác
hơn. Dưới đây là lời phát biểu của đô đốc thực dân tấn công Đà
Nẵng. Thư đề ngày 29.1.1859 (Hai tháng trước thư của Trương Vĩnh Ký),
Genouilly viết:
"Không một nền cai trị nào,
dù là phục vụ đạo Ki-tô, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường
xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự và quân sự vốn
không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ –
BK).
Nếu cũng vì những yếu tố phạm
pháp ấy mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền Annam trục xuất, thì báo
chí của người truyền giáo lại kêu la om sòm là họ bị bạo hành. (Fut-elle
au service de l’intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et
insolente dans les affairs politiques, civiles et militaires qui se sont et ne doivent pas
être de leur ressorts. Si l’expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée pour les
mêmes chefs d’accusation, par un autorité Vietnamien, la press des missionnaires
aurait crié partout persécution". (Dépêche du 29.1.1859, Archives Nationales
Fonds Marine BB4, 769, Cao Huy Thuần, Christianisme et Colonialisme au Vietnam –
1867-1914, P. 113).
Sau đây, tôi sẽ dẫn chứng một số
văn thư khác do chính Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký chứ không phải ai khác, viết
cho các viên chức thực dân, để thấy tấm lòng của họ Trương đối
với quốc gia dân tộc như thế nào.
2. Thư đề ngày 28.4.1876, gởi cho tướng
Pháp, Bossant, quyền thống đốc, để trình bày công tác đi Bắc Kỳ. Có
những đoạn họ Trương viết mà đọc kỹ sẽ thấy não trạng của ông
ta. Trương mô tả sai về tình trạng xã hội và phóng đại một nhu cầu cần
cải cách để cố vấn cho thực dân Pháp nên chiếm và cai trị toàn xứ Bắc
kỳ:
"Và trong khi đó thì quãng đại
quần chúng vô danh, những thợ thuyền, nhà nông đang rên siết trong sự
nghèo đói cùng cực, từng trải qua những ngày dài không gạo và không việc
làm. Và phải chăng sự khốn cùng đang bao trùm trong dân chúng, và phải chăng
khắp nơi người ta đang nghe đòi hỏi những sự thay đổi và một nền
cai trị hữu hiệu để duy trì trật tự, ban cho dân chúng một ngày mai, đảm
bảo tài sản, cho công nghệ và thương mại có được sự an ninh và sinh
hoạt cần thiết cho sự sống còn của họ, nói tóm lại, từ trong cái đói
và bần cùng giải thoát một dân tộc đang cảm thấy suy vong."
Sợ Pháp do dự không chịu chiếm,
Bao-ti-xi-ta còn đem miếng mồi kinh tế béo bở của xứ Bắc Kỳ ra để
khơi động lòng tham của thực dân Pháp:
"Và tất nhiên, xứ sở chẳng
thiếu tài nguyên, đất đai mà tôi dám quyết rằng có thể sánh với thổ
nhưỡng của nước Pháp, ít ra là đối với Algérie, chất chứa nhiều của
cải đủ để làm nên tài sản cho một quốc gia. Đất này tiện lợi cho
những vụ trồng trọt các mùa thay đổi khác nhau. Những cuộc thí nghiệm
trồng nho và gieo lúa mì cho thấy những kỳ vọng chắc chắn. Tôi từng thấy
lúa mì mọc trong đất, cây trông đẹp, bông đầy và lớn hạt. Tôi chưa
nói tới ở đây những tài nguyên khoáng chất, người ta bảo là bao
la, và tôi xin được phép nói rằng dân của xứ này đã chết đói trên một
chiếc giường đầy vàng".
Trương lại còn cố vấn cụ thể
cho thực dân Pháp phương cách bá đạo, nhưng hữu hiệu, để kết nạp các
thành phần bất mãn với chính quyền Việt Nam hầu tạo nội chiến làm
cho dân chúng chán chiến tranh để rồi họ mơ tưởng một cuộc sống
"bình yên" như xứ bảo hộ Nam-kỳ:
"Tôi tìm ra sự giải thích theo
đó, các ảnh hưởng của lòng tham lam và táo bạo dễ dàng thu dụng đồ
đảng, kết nạp thành đoàn và cổ võ chiến tranh phe phái v.v... và như vậy
dân chúng khát khao một cuộc sống lành mạnh hơn là luôn luôn phải thất
vọng, với hy vọng cuối cùng tìm thấy sự che chở để khỏi sự đói
khát. Hơn thế, không thể không có một cái nhìn ham muốn, một đôi khi họ
đã so sánh thân phận của họ với cuộc sống của những người dân
Nam-kỳ".
Cũng trong thư nầy, họ Trương còn
báo cáo lại cho quan chức Pháp một cuộc đối đáp giữa Trương với các
quan lại triều đình Việt Nam. Trong cuộc đối đáp đó, Trương đã đứng
hẳn về phía thực dân để chỉ trích và hăm dọa hầu thuyết phục các
viên chức triều đình:
- "Làm thế nào cư xử đối với
người Pháp để khả dĩ thu hoạch thắng lợi hoàn toàn?" Người ta lại
hỏi tôi như vậy.
- "Thưa quý vị, tôi đáp, tất
cả quý vị đều phải thấy rằng nếu nhà cầm quyền Pháp có ý
xâm chiếm xứ này, họ đã có thể làm việc ấy từ lâu, một cách dễ
dàng không cần phải bàn cãi gì cả. Quý vị phải hiểu rằng quí vị là
những kẻ yếu, thật sự quá yếu, cần sự giúp đỡ của một ai đó để
gượng dậy. Và tốt hơn, chi bằng quí vị chỉ nên tin tưởng vào những
bạn đồng minh tiếng tăm của quí vị và phải dựa vào họ một cách
thành thật để đứng lên, nhưng phải thẳng thắn, phải không hậu ý, phải
không mưu tính kín đáo, dang cả hai tay ra với họ, chứ không phải một
cái chìa ra còn bàn tay kia thì giữ lại. Bằng ngược lại, mệt trí vì những
do dự của quí vị, nước Pháp buộc lòng phải ngưng che chở và bỏ mặc
quý vị với số phận.
Nói rõ hơn, đây là hình ảnh tương
tợ tôi dùng để ví: nếu một bàn tay quí vị tựa vào cánh tay của một
người, còn bàn tay kia quí vị dùng để cù họ, tức nhiên cánh tay của
người đó tự nó phải tuột ra; quí vị sẽ phải đón nhận một sức phản
động nào đó, quí vị sẽ rơi xuống rất thấp và hầu như mãi mãi
không có cơ gượng dậy được nữa.
Đó là những nét nổi bật hơn cả
trong các cuộc đàm thoại, nhưng tất cả những lần trò chuyện, chi tiết
tôi rút ra được rằng, nói chung các quan lại, nhất là những người có
thành kiến, họ không đòi hỏi gì hơn là mong theo những tư tưởng mới.
Thế nhưng các truyền thống vẫn còn ngự trị mạnh mẽ, và họ ngại
phô bày những tư tưởng mới vì nó mất duyên cớ chính đáng đang vây bọc
quanh những truyền thống đó. Tổng quát, tất cả đều tin chắc rằng
không thể chống lại người Pháp và nếu nước Pháp muốn lấy xứ này,
có thể làm mà không phải mất nhiều khó khăn và tốn kém."
3. Như linh mục Nguyễn Hoằng,
Trương Vĩnh Ký cũng là một tên gián điệp cao cấp cho Pháp được gài
bên cạnh Vua Đồng Khánh để lấy tin tức và khuynh loát ông vua bù nhìn nầy
nhằm thực hiện các kế hoạch có lợi cho thực dân Pháp. Từ Huế, ngày
10.5.1886, Pétrus Trương Vĩnh Ký gởi thư cho viên thượng thư Paul Bert, trong
đó có đoạn đáng lưu ý như sau:
Tôi cũng đang lo tiếp xúc để
cung cấp cho ngài những tin tức chính trị hữu ích. Tôi hết lòng tán
đồng dự án hoàn mỹ của ông Pène [2] về công cuộc bình định thi hành
bởi những yếu nhân bản xứ và, ở đây, tôi đang bám sát nhà vua
cùng Viện Cơ Mật. Như sứ giả tiên khu của Chúa, tôi tìm cách dọn
đường cho ngài; tôi tán dương cái uy danh mà tôi ra sức vây bọc quanh
con người cũng như tên tuổi của ngài.
4. Việc họ Trương lèo lái ông vua
bù nhìn Đồng Khánh và thao túng Cơ Mật Viện của triều đình Việt Nam
đã có kết quả tốt cho Pháp đến nỗi Paul Bert trong một thư gởi Thiếu
tướng thực dân Thống đốc Nam-kỳ, ngày 20.5.1886, có đoạn:
"Tôi nhận thấy ở Huế, ông
Trương Vĩnh Ký đã tận lực làm tròn sứ mạng công việc trong triều
đình và ít nhiều ảnh hưởng trên nhà vua.
Trong những điều kiện đó, tôi
tin rằng sẽ có lợi cho người Pháp hiện thời nếu giữ ông ta ở
lại Huế trong một thời gian tôi không dám xác định, nhưng chắc chắc
cũng khá lâu..."
5. Hơn một tháng sau, vào ngày
17.6.1886, Trương Vĩnh Ký lại viết thư tiếp cho Paul Bert để thông báo
công tác quan trọng của ông:
"Tôi sẽ trấn áp tất cả
các hảnh thần và bao vây nhà vua, tôi sẽ kiếm những người
thật sự có khả năng cho Viện Cơ Mật".
Một đoạn khác trong lá thư nầy,
Pétrus Trương Vĩnh Ký cũng có ý kiến như Nguyễn Trường Tộ hơn 15 năm
trước đó là, chính phủ Việt Nam phải thỏa hiệp với nước Pháp hầu
như đó là một định luật tất yếu không thể chống lại được:
"Tôi vừa minh chứng xong cho
các nho sĩ thấy rằng nước An Nam không thể không cần đến nước Pháp,
càng không thể chống lại nó được, phải tay trong tay cùng đi, không hậu
ý và chúng ta nên chụp ngay lấy những hảo ý nảy nở trong chúng ta, của
một người như ngài chẳng hạn".
6. Gần 4 tháng sau, trong một bức
thư ngày 5.10.1886 gởi cho quan Thượng thư Pháp, Pétrus Ký tận dụng những
kiến thức quân sự trong sở học của mình để, cố vấn cho thực dân phương
pháp tiêu diệt các phong trào Cần Vương và các lực lượng vũ trang của
dân Việt Nam đang hy sinh chống Pháp cứu nước:
"Vậy hãy nhanh chóng thành lập
các đoàn lạp binh và võ trang cho họ; ngài không có điều gì phải quan ngại
dù các nhà quân sự đã nói về việc đó, bởi vì những quân khí do ngài
cung cấp, cho mượn hoặc bán, đều thuộc trách nhiệm trực tiếp của
nhà vua và chính quyền An Nam, sau cuộc bạo hành ngày 5 tháng 7, nay chỉ
còn cách thần phục nước Pháp.
Xứ Trung-kỳ mà ngài vừa ban cho nền
tự trị sẽ phải bắt buộc ở dưới sự giám hộ của Người Bảo hộ
nó và với hai thế đứng của Pháp tại Bắc và Nam-kỳ , những nghĩa cử
rồi ra sẽ được củng cố và hiệu nghiệm hơn lên. Tôi hiểu những
tình ý thật sự của người An Nam mà tôi dám khẳng định với ngài rằng
chính sách ấy là tốt hơn cả, bởi vì, một mặt ngài có cái lợi đem lại
cho nước Pháp sự mến mộ và lòng tin tưởng đã bị đánh mất từ bao năm
qua, và mặt khác, ngài sẽ tìm thấy những nguồn lợi không kém phần thực
tế cho các đồng bang của ngài trong cái xứ Bắc-kỳ giàu có..."
Cựu giáo sĩ Bao-ti-xi-ta Trương
Vĩnh Ký còn ngụy biện và xuyên tạc để thực dân Pháp biết động cơ nào
mà các phong trào kháng Pháp nỗi lên. Và họ Trương còn gọi các phong
trào yêu nước này là quân phiến loạn:
"Tôi thiết tưởng có bổn phận,
cũng nhân dịp này, cống hiến cho ngài: Tư tưởng của những người
phiến loạn An Nam mà tôi đã có thể tìm hiểu trên những nơi có tàu
đi qua.
Những kẻ phiến loạn, như tôi
đã từng nhiều dịp trình với ngài, họ có lý do cho chủ nghĩa ái quốc
của họ: Sự hận thù đối với các con chiên (Công giáo) mà họ cáo buộc
là những hàng ngũ bên cạnh người Pháp, được dùng như những kẻ đưa
đường chỉ lối".
Sợ thực dân Pháp còn phân vân và
không đủ quyết tâm , Pétrus Trương Vĩnh Ký đã khuyên Pháp không nên sợ
vì nghĩa quân Việt Nam, mà họ Trương gọi là bọn phiến loạn, chỉ có
những khí giới thô sơ:
"Bọn phiến loạn không đáng sợ;
họ chỉ có những khí giới cổ lổ của chính quyền An Nam và vài võ khí
mới mua lại được của bọn buôn lậu Trung Hoa. Cái chứng cớ phơi bày
ra ở Quảng Trị và Quảng Bình, họ đã không thể cắt được, dù chỉ một
lần, đường dây điện thoại. Họ rất dễ bị tiêu mòn và trở lại
ngoan ngoãn..."
Trương Vĩnh Ký lúc nào cũng tỏ ra
sốt sắng gắn bó và tận tâm với thực dân Pháp. Ông cố gắng lèo lái
thuyết phục triều đình Việt Nam nên chấp nhận hiệp ước đánh dẹp
các phong trào kháng Pháp cứu quốc của dân tộc Việt. Họ Trương tỏ ra
đắc lực với thực dân hơn là một người Pháp chính hiệu. Cũng trong
thư nói trên, họ Trương viết:
"Tuy nhiên, tất cả những điều
đó thúc đẩy tôi nhất quyết lo liệu cho cái hiệp ước mà ngài
muốn chính phủ An Nam sớm chính thức đưa ra để minh định ngõ
hầu chấm dứt sự trạng và quyết định chính sách sau này phải theo. Vì
thế tôi xin nhắc lại ngài cái dự án bình định với những phương tiện
hành động đã được mật ước, để tiến tới thành quả mà chúng ta
có thể phô trương. Về phần tôi, ngài có thể luôn luôn cậy vào sự
giúp sức nhỏ yếu của tôi, vì dù sao những cảm tình của giờ phút đầu
tiên đã trở thành một mối nhiệt tâm chân thành đối với ngài."
7. Trong một thư khác gởi cho viên
giám đốc thực dân ngày 19.1.1887, Pétrus Ký cho biết vai trò gián điệp và
thuyết khách của ông lúc vào làm việc trong Cơ Mật Viện của triều đình
bù nhìn Đồng Khánh:
"... Về phần tôi, xâm nhập
vào Cơ Mật Viện của nhà vua, vai trò của tôi là làm cho nhà vua và
triều thần hiểu được các ý tốt của chính phủ Pháp cũng như điều
động chính sách của chính phủ An Nam đi gần với chính sách của
nước Pháp."
8. Công tác chính trị của Trương
Vĩnh Ký trong nhiệm vụ yểm trợ thực dân Pháp sớm ổn định chính sách
cai trị dân tộc Việt. Và để làm tròn nhiệm vụ gián điệp đó, Pétrus
Trương Vĩnh Ký đã phải hy sinh ước mơ được vào quốc tịch Pháp. Ông
tự thú như sau trong thư đề ngày 15.9.1888, gởi cho một linh mục là ông
Pène Siefert, Trương Vĩnh Ký cho biết ông không muốn vào quốc tịch Pháp
vì sợ bị nghi ngờ, khó làm việc:
"... lúc đã gia nhập quốc tịch
Pháp, tôi sẽ mất hết uy tín, mất thế lực, chẳng còn được vua, triều
đình và dân chúng An Nam tín nhiệm nữa".
Trên đây là một số chứng cớ
được trích dẫn từ tám trong nhiều bức thư do chính Trương Vĩnh Ký viết
đã cho thấy tư tưởng và hành động của ông, một tên Việt gian đắc lực
và nguy hiểm nhất trong thời Pháp đô hộ nước ta. Dưới đây, chúng ta sẽ
tìm hiểu về dụng tâm của các tác phẩm có tính văn hóa của ông.
II. MỤC ĐÍCH CÔNG TÁC VĂN HÓA CỦA
HỌ TRƯƠNG
1. Mục đích dịch thuật, sáng
tác, làm tự điển của Bao-ti-xi-ta Trương Vĩnh Ký được ông nói rõ trong
thư gửi "Các Vị trong Ban Duyệt Xét Bản Thảo"[3]:
"Tôi hân hạnh được gửi tới
quí vị vài dòng dưới đây để giải thích mục đích mà tôi theo đuổi
khi làm những việc trước tác mà tôi đệ trình xin các vị thẩm định.
Có thể xét những tác phẩm này theo hai phương diện khác nhau tùy theo hai
chủ đích của chúng: thu xếp ổn định thời hiện tại và gắn liền
dĩ vãng với tương lai xứ sở. Đó là mục đích của tôi.". "Thu
xếp ổn định thời hiện tại" tức là dẹp yên các phong trào Cần
Vương và các cuộc nỗi dậy chống Pháp cứu nước. Họ Trương viết tiếp:
"Về phương diện chính trị
và kinh tế, người Pháp là kẻ đi đồng hóa, còn người An Nam là kẻ
chịu đồng hóa. Người yếu cần dựa vào người mạnh để đưa mình
lên bằng người khỏe [4]. Đó chính là mục đích cần phải theo đuổi và
đạt tới. Bằng cách nào? Bằng cách đồng hóa. Và đồng hóa chỉ có thể
thực hiện được bằng giáo dục và học vấn. Từ đó mới nảy sinh
mối thiện cảm giữa kẻ chinh phục và người bị chinh phục, mối thiện
cảm do quyền lợi chung mà có. Quyền lợi chung nầy lại chỉ được tạo
ra nhờ những quan hệ hỗ trương và trực tiếp. Những quan hệ này chỉ
được thiết lập giữa họ qua sự hiểu biết tiếng nói của nhau. Người
Pháp với tư cách là chủ, cần biết tiếng An Nam để giảng dạy người
An Nam là học trò những tư tưởng và khái niệm cần thiết cho việc cải
tạo và phục sinh của người An Nam."
2. Ngày 3.9.1868, Trương Vĩnh Ký gởi
thư cho ông Giám đốc Nội trị để xin từ chức. Trong đó có những câu
cho thấy họ Trương không còn là người Việt nữa:
"Khi trở lại đời sống tư, lòng
tôi luôn luôn thuộc về nước Pháp, và những công việc phục vụ nhỏ
mọn của tôi cũng thuộc về nước Pháp... Người bề tôi tận tâm và
vâng lời."
3. Thư đề ngày 12.1.1882, từ Chợ
Quán "Kính gởi các vị trong Hội Đồng Thuộc Địa", Bao-ti-xi-ta
Trương Vĩnh Ký viết rõ hơn về mục đích các tác phẩm của ông:
Thưa quí vị,
Tôi hân hạnh gởi đến quí vị một
bản trình bày từng tác phẩm xuất bản mà tôi đã biên soạn.
Làm như vậy, ý định của tôi là
để chứng tỏ với quý vị rằng trong 13 cuốn sách tôi đã xuất bản cho
đến nay do tiền tôi bỏ ra, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu chính
và trực tiếp mà tôi đã trình bày trước đây trong các thư tôi viết vừa
cho nhà cầm quyền, vừa cho Ủy ban Phụ trách Cứu xét những tác phẩm của
tôi. Mục tiêu đó là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An
Nam."
4. Trương Vĩnh Ký rất nóng lòng muốn
Pháp đồng hóa dân tộc Việt Nam nhanh hơn và toàn diện hơn, bên cạnh đó
ông cũng sẽ kiếm được lợi nhuận do việc chính phủ thực dân Pháp bỏ
tiền tài trợ và mua sách. Ông cũng nói rõ là nếu Pháp hỗ trợ bằng
cách mua sách, ông sẽ phấn khởi và hăng hái hơn trong việc viết thêm
các tác phẩm khác trong tương lai cho mục đích (đồng hóa) nói trên. Lời
của chính họ Trương về chiến lược đồng hóa:
"Đệ trình với quý vị những
tác phẩm này, tôi khẩn xin quý vị thẩm định mục đích mà tôi đã đề
ra khi soạn thảo, và nếu quí vị nghĩ rằng những tác phẩm đó có thể
là một lợi khí của tiến bộ và là một phương tiện thích hợp để tạo
ra trong lúc này, sự thay đổi và đồng hóa mà nhà cầm quyền đang tìm
cách thực hiện ở xứ này có lợi cho những kẻ thần phục mới của
nhà cầm quyền, tôi mong rằng qúy vị sẽ góp phần vào việc xuất bản
những sách này. Sự chấp thuận và hơn nữa, sự xưng tụng mà quí vị
dành cho những tác phẩm của tôi sẽ là phần thưởng êm dịu nhất cho những
công trình tôi đã làm và là khích lệ lớn lao hơn cả cho tôi trong tương
lai."
Qua số văn thư vừa trích dẫn do
chính Trương Vĩnh Ký viết, chúng ta đã thấy rõ tâm chất của ông. Một
điều khác đáng chú ý là trong các văn thư ấy luôn luôn có các câu:
"Bề tôi rất khiêm tốn và tận tụy" hoặc "Bề tôi tận tâm
và vâng lời." Điều đó cho thấy mặc dầu họ Trương còn mang thân
xác Việt Nam nhưng tâm hồn đã khác.
5. Sự tận tâm và đắc lực của
họ Trương trong nhiệm vụ giúp thực dân Pháp dễ dàng thi hành chính sách
thống trị và đồng hóa dân tộc Việt, được ông Luro, Thanh tra và Giám
đốc trường Sư Phạm Thuộc Địa Pháp tại Việt Nam, trong một bản nhận
xét đề ngày 16.6.1875, có đoạn nói rõ:
"Ông Pétrus Ký làm việc
rất nhiều... Rút cục, đó là người An Nam Pháp hóa duy nhất mà chúng ta
có, và gương mẫu. Sự trợ giúp của ông thật đã rất ích lợi cho
ảnh hưởng của chúng ta và cho nền học chính nói chung."
Nhờ công lao phục vụ thực dân đắc
lực và tận tụy nên ngày 20.5.1886, ông Paul Bert gửi thư cho Ngoại trưởng
Pháp để tán đồng đề nghị của Thống Đốc Nam-kỳ, ban thưởng
huy chương cao cấp cho Trương Vĩnh Ký: Đệ Ngũ Đẵng Bắc Đẩu Bội
Tinh.
6. Trong thư gửi cho một bác sĩ
người Pháp, Alexis Chavanne, đề ngày 6.8.1887, cho thấy cái tâm khuyển mã của
họ Trương đến nổi chính phủ thực dân xem ông như một đứa con nuôi
đầy tin tưởng. Trương viết:
"Tôi càng tỏ ra biết ơn nước
Cọng Hòa (Pháp) không những đã công nhận tôi là con nuôi mà còn
cho tôi nhiều vinh dự và nhất là rất tin tưởng tôi."
Các chứng liệu không thể chối cải
nêu trên cho thấy Trương Vĩnh Ký là một tên Việt gian tầm cở. Nhờ kiến
thức và trí thông minh đã làm cho ông trở thành một tên đại Việt gian
phản quốc nguy hiểm nhất, làm tay sai cho giặc hữu hiệu nhất trong lịch
sử Việt Nam ta thời Pháp thuộc.
III. LÝ DO NÀO KHIẾN TRƯƠNG VĨNH KÝ
TRỞ THÀNH VIỆT GIAN?
Tại sao một người tài giỏi,
thông minh, biết rành nhiều thứ tiếng lại trở thành một tên đại Việt
gian như thế? Đáp số của câu hỏi nầy có lẽ là do hoàn cảnh và nền
giáo dục mà Trương hấp thụ.
1. Họ Trương được sinh ra và
nuôi dưỡng trong một gia đình Công giáo, và "thành người" trong
chính sách giáo dục của Vatican nhằm biến đổi con người trong các xứ
thuộc địa trở thành công dân của kẻ đi chinh phục, và trở thành công
cụ và linh hồn của những kẻ "Thà mất nước không thà mất
Chúa". Mặc dầu có học Tứ Thư Ngũ Kinh nhưng Trương Vĩnh Ký chẳng
tiếp thu được tinh thần trung quân ái quốc vì lúc đó ông ta chỉ mới
11 tuổi .
2. Hầu hết tín đồ Công giáo thời
bấy giờ được hiểu là "những người Pháp tay trong, lưng mềm dễ uốn,
chạy theo chủ mới". Nói như giám mục Puginier: "Không có các giáo
sĩ và giáo dân thì người Pháp như cua bị bẻ gảy hết càng". (Sans
les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les
crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes). Hiểm họa nội thù nầy càng
làm cho triều đình Việt Nam thêm có lý do để "cấm đạo", và Trương
Vĩnh Ký, một cậu con chiên ngoan đạo, càng có thêm lý do để ngã về
Tây.
3. Thêm vào đó, Trương Vĩnh Ký là
con của một gia đình đạo dòng, lại được một giáo sĩ thực dân nhận
làm con nuôi, đưa vào đào tạo tại chủng viện Pinhalu (Nam Vang) rồi chủng
viện Pénang (Mã Lai). Tại những nơi nầy, mà phần lớn do các cố đạo
thực dân Pháp điều khiển, chương trình đào tạo nhắm vào hai mục tiêu
chính: đào tạo cho Pháp một tập đoàn làm thông ngôn, làm thơ ký tại những
vùng đã chiếm đóng để thực hiện chương trình đồng hóa và dễ dàng
đi chiếm thêm những vùng còn lại. Mục đích thứ hai của nền giáo dục
nầy là để đào tạo những người Việt Nam Công giáo, chứ không phải
đào tạo những người Công giáo Việt Nam. Con chiên được hứa hẹn rằng:
"Nếu người nào vì ta (Giê-su)
mà từ bỏ nhà cửa, bỏ anh em, bỏ chị em, bỏ cha mẹ, bỏ vợ con, bỏ
ruộng vườn, bỏ đất nước thì sẽ được cứu rỗi trăm phần hơn và
sẽ sống đời đời trên thiên đàng". (And every one that hath forsaken
houses, or brethren, or sisters, or father, or mother, or wife, or children, or land, for
my name’s sake, shall inherit everlasting life. Matthew 19:29. Đây là một đoạn
trong Thánh Kinh Tân Ước cuốn Ma-thi-ơ, chương 19, đoạn 29.)
Vì Thánh Kinh dạy những điều như
thế nên con chiên Công giáo và Tin lành, trong đó Trương Vĩnh Ký, đã hãnh
diện mang tư cách mà chính một viên chức thực dân người Pháp, đô đốc
Page, cũng quả quyết:
"Ngoài ra không một người Việt
Nam nào theo Ki-tô giáo lại ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp,
ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ
Ngài (Bộ trưởng) đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo
là kẻ thù?" Du reste, pas un Vietnamien catholique n’hésita à demander à s’enrôler
comme soldat sous le drapeau francais, le roi payen du Vietnam n’était point leur roi.
"Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins
regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis?" (Depêche de l’Amiral
Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds Marine BB4-777. Dẫn theo Cao
Huy Thuần, trang 129).
Một người Pháp khác, đại tá
Bernard cũng nhận xét:
"Bị săn đuổi ra khỏi làng
vì tội phạm hoặc sự khốn cùng, những kẻ lang thang đã đến đây với
một lưng mềm dễ uốn, tham sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với
cuộc đấu tranh của dân tộc, sẵn sàng phụng sự bất cứ ông chủ
nào... Chính trong bọn nầy mà người ta sẽ tuyển dụng, trong số họ, tất
cả những nhân viên hành chính cần thiết cho nhà nước, hoặc những người
giúp việc gia đình: làm đầy tớ, phu khuân vác, làm người chạy giấy, và
cả những tên thông ngôn, hoặc những người ghi chép, được đào tạo
thô sơ qua các nhà trường của Hội truyền giáo. Chính qua sự tiếp xúc với
những kẻ khốn nạn này mà đoàn thực dân và công chức vừa mới
đổ bộ, đã làm quen được với dân tộc Việt nam..."
"Les vagabonds", ecrit le
colonel Bernard, "chassés de leur village par la misère ou le crime, arrivaient, l’échine
souple; pris de l’âpre désir de vivre, insoucieux de la lutte nationale, prêts à
servir tous les maitres. C’est parmi eux que l’on recruta tout le personnel
nécessaire à l’administration ou aux besognes domestiques: boys, coolies, plantons, et
aussi des interprètes et des copistes, grossièrement formés dans les écoles de la
mission. C’est au contact de ces misérables que les colons ou les fonctionnaires
fraichement débarqués firent connaissance avec le peuple d’Annam..." (Dẫn theo
Nguyễn Xuân Thọ, trong Histoire de La Penetration Francaise au Vietnam, 1858-1897, p.
126-127).
4. Mặc dầu Trương Vĩnh Ký thông
minh biết nhiều thứ tiếng, nhưng vì quá cuồng tín, bị các giáo sĩ thực
dân tuyên truyền nên cứ nghĩ rằng việc Pháp chinh phục Viễn Đông, trong
đó có Việt Nam, là do ý của Thượng Đế sai phái nước Pháp làm như vậy.
Trong thư gởi ông Koenfen, giám đốc Viện Mỹ Thuật Paris, họ Trương viết:
"Các xứ Viễn Đông... già cổi
đủ thứ nên đã đến lúc phải làm cho chúng tái sinh và cải cách chúng:
song ai được giao phó cho cái quyền ủy nhiệm cao quí đó? Ấy chính là nước
Pháp được Thượng Đế tín cẩn giao cho..."
Trong thư gởi bác sĩ A. Chavanne, nói
ở một đoạn trên, cựu giáo sĩ Trương Vĩnh Ký cũng viết:
"...cái vương quốc An Nam khổ
sở nầy mà chính phủ Pháp sẽ làm giám hộ, là có một sự biến thuộc
về Thiên ý kêu gọi đến..."
Đáng tội nghiệp cho Trương Vĩnh Ký,
quá ngây thơ để không biết được rằng mục đích của các đế quốc Tây
phương là xử dụng tôn giáo và dùng cuốn Thánh Kinh như một lợi khí; để
đi chiếm thuộc địa và xâm thực văn hóa bất cứ ở đâu và bất cứ
lúc nào mà họ thấy có thể. Bởi vậy, một người Phi Châu, giám mục
Anh giáo Desmond Tutu, được giải thưởng Nobel hòa bình năm 1984, đã cay đắng
phát biểu:
"Khi người da trắng đến, họ
có cuốn Kinh Thánh, chúng tôi có đất đai. Chúng tôi tin tưởng họ, nhắm
mắt cầu nguyện với cuốn Kinh Thánh trong tay. Lúc mở mắt ra, chúng tôi
có cuốn Kinh Thánh còn họ có tất cả đất đai lãnh thổ của chúng
tôi".
(We have our lands and they came with
their Bible. We believe in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes
closed. When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands).
5. Việc Trương Vĩnh Ký cong lưng làm
tay sai cho Pháp cũng không loại bỏ một động cơ khác là vì danh và lợi.
Danh, được chính phủ thực dân ban tặng huy chương Đệ Ngũ Đẵng Bắc
Đẩu Bội Tinh,. Và lợi, được chính phủ thuộc địa bỏ tiền mua sách
của họ Trương và cấp cho Trương bỗng lộc hậu hỉ. Lương mỗi năm của
Trương là 13.800 quan, kể cả tiền dạy học, trong lúc lương của ông Thống
đốc Nam-kỳ cũng chỉ có 18.000 quan. Lương ông Tổng thư ký là 15.000 quan.
Như vậy lương họ Trương đứng hàng thứ ba sau hai viên chức cao cấp người
Pháp.
Có người muốn miễn cưỡng biện
hộ cho Trương Vĩnh Ký bằng lập luận rằng, các tác phẩm mang tính văn hóa,
dịch thuật và soạn từ điển Pháp-Việt, Việt-Pháp của ông nhằm mục
đích nâng cao dân trí cho người Việt. Nhưng chính Trương Vĩnh Ký, chứ
không phải người nào khác, lại không hề nói ông có ý định đó. Trái
lại ông còn khẳng định rõ mục đích của mình là giúp Pháp đồng hóa
dân tộc ta. Trong thư gởi Hội Đồng Thuộc Địa ngày 12.1.1882, như chúng
ta đã thấy ở trên, Pétrus Trương Vĩnh Ký xác định:
"Tôi hân hạnh gởi đến quí vị
một bản trình bày từng tác phẩm xuất bản mà tôi đã biên soạn.
Làm như vậy, ý định của tôi là
để chứng tỏ với quý vị rằng trong 13 cuốn sách tôi đã xuất bản cho
đến nay do tiền tôi bỏ ra, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu
chính và trực tiếp mà tôi đã vạch và trình bày trước đây trong các thư
tôi viết vừa cho nhà cầm quyền, vừa cho Ủy ban Phụ trách Cứu xét những
tác phẩm của tôi. Mục tiêu đó là sự biến đổi và đồng hóa
dân tộc An Nam".
IV. KẾT LUẬN
Với những chứng cớ quá rõ ràng
qua các văn thư do chính Trương Vĩnh Ký viết, chúng ta có thể kết luận dứt
khoát rằng Trương Vĩnh Ký là một tên đại Việt gian. Ông không
có một mảy may công lao nào đối với dân tộc, ngược lại, ông hoàn
toàn là kẻ có tội. Từ những ý đồ và hành động chính trị, cho
đến các công trình mang tính văn hóa nói chung của họ Trương, tất cả
chỉ xoáy vào một mục đích duy nhất là phục vụ cho chính sách thực
dân Pháp để nô lệ và đồng hóa dân tộc ta. Do đó, những tên đường,
tên trường, tên các hội ái hữu được dùng để vinh danh Trương Vĩnh Ký
cần được tháo gở và hủy bỏ hẵn để tránh nhục quốc thể, tránh lịch
sử phê phán. Tội trạng quá rõ ràng như vậy mà chúng ta vẫn còn nhập
nhằng duy trì các bảng hiệu, tên đường, tên trường để vinh danh tên tội
đồ nầy là đồng nghĩa với việc chúng ta vinh danh Việt gian và khuyến
khích kẻ khác làm tay sai cho ngoại bang chống lại tổ quốc để được
vinh danh!
Thái độ nghiêm túc, dứt khoát với
Trương Vĩnh Ký cũng không nên có một ngoại lệ nào đối với các tên đại
Việt gian khác như Nguyễn Trường Tộ, giám mục Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu
Từ, linh mục Hồ Ngọc Cẩn, linh mục Trần Lục... và một tên cố đạo
người Pháp khác, Alexandre de Rhodes (Cha Đắc Lộ). Chúng ta có lẽ nên yêu
cầu chính phủ Pháp dời các phần mộ, bia lăng của các thành phần Việt
gian nói trên về chôn cất trên đất Pháp. Nếu chính phủ Pháp không chịu
nhận,có lẽ chúng ta nên lập một vùng đất riêng để chôn cất họ? Nếu
có những nghĩa trang để chôn cất các quốc gia nghĩa tử, tại sao lại không
có những "nghĩa địa ô nhục" để chôn xác những kẻ phản bội
quê hương? Trong những nghĩa địa nầy, cần ghi rõ các tội danh làm Việt
gian và phản bội tổ quốc như thế nào để hậu thế xem đó như một bài
học cần thiết cho việc vun bồi lòng yêu nước.
Việc tiếp theo cũng nên nghiên cứu
tội danh của 117 người mà giáo hoàng Phao Lồ II phong thánh ngày 19.6.1988
để yêu cầu Vatican dời lăng mộ của họ về La Mã, vì họ là thánh của
Vatican chứ đâu phải thánh của dân tộc Việt. Nếu Vatican không nhận,
thì đống xương tàn của họ cũng nên được qui hoạch trong những
"nghĩa địa ô nhục" nói trên. Riêng các mộ bia của các cha cố
ngoại quốc thì nên ghi rõ nguyên nhân bị xử tử vì tội trạng:
"giúp cua thêm càng", đã làm cho nhửng người Việt Nam chơn chất
nhưng đầy khí tiết trở thành những kẻ "lưng mềm dễ uốn, chạy
theo chủ mới???". Việc làm nầy là một trong những phương cách giáo
dục đích thực nhằm cảnh cáo quần chúng, báo động cho tín đồ các
tôn giáo biết để tránh cầu cạnh và dựa thế ngoại bang. Mặt khác, những
người thực sự có công lớn với tổ quốc, không phân biệt họ thuộc
tôn giáo hay địa phương nào, nên được tán thưởng, nuôi dưỡng và vinh
danh để khích lệ dân chúng trên con đường phụng sự tổ quốc và nhân
loại. Ngắn gọn, nhân lọai luôn luôn là nạn nhân của Công giáo La Mã suốt
hai ngàn năm qua. Vì thế, trong những năm gần đây, Giáo hoàng Phao Lô II rất
biết điều, nên ông đã chu du ngoại quốc nhiều lần để xin lỗi thế
giới về các tội ác mà giáo hội đã gieo rắc cho nhân lọai. Các nước
kém mở mang là nạn nhân thường trực của các cường quốc qua chiêu bài
chống ý thức hệ, nhưng thực chất của nó là những phong trào thực dân
đi chiếm thuộc địa để vơ vét tài nguyên, tiêu thụ khí giới
và xâm thực văn hóa. Để thực hiện các mục tiêu ấy, bốn chữ "tự
do tôn giáo" và cuốn Thánh Kinh thường được xử dụng như hai
vũ khí hiệu nghiệm nhất.
Với chính sách thống lãnh toàn cầu
của Công giáo từ thời Constantine vào thế kỷ thứ 4 đến nay, tín đồ
Công giáo là nạn nhân tội nghiệp của Vatican trong chương trình giáo dục
cuồng tín và ly khai tổ quốc qua cánh tay nối dài của La Mã là các Giáo
hội Công giáo tại địa phương. Cái gọng kềm chằng chịt nhưng đầy
hoa mỹ nói trên đã biến những con người thông thái như Trương Vĩnh Ký
thay vì được lưu danh thiên cổ, trở nên kẻ bị lưu xú vạn
niên. Dầu thông cảm đến mức nào đi nữa thì con người luôn luôn phải
có lý trí suy luận để chịu trách nhiệm về những việc làm đúng, sai,
xấu hoặc tốt của mình. Trương Vĩnh Ký là một người thông minh xuất
chúng. Do đó những hành động làm tay sai cho Pháp từ lúc ông 22 tuổi
(1859) đến ngày vào quan tài năm 61 tuổi (1898), cần được lên án đúng mức
để làm gương cho kẻ khác. Dẫu ai vì lý do nào đó mà vẫn còn vinh danh
ông ta, nhưng những hành động Việt gian bán nước và gián điệp văn hóa
cho thực dân Pháp của họ Trương cũng không thể tẩy xóa ra khỏi lịch sử
được, nhất là những dữ kiện để viết về đoạn lịch sử ô nhục nầy
lại xuất phát từ tư tưởng và hành động của chính ông ta viết ra. Những
kẻ cố tình tiếp tục vinh danh Trương Vĩnh Ký rồi cũng sẽ bị lịch sử
lên án như chính lịch sử đã và đang lên án Trương Vĩnh Ký vậy.
- BÙI KHA
- Hè 2001
Chú thích:
[1] Chữ đậm để nhấn mạnh
[2] Pène Siefert - một linh mục người
Pháp
[3] Không đề ngày. Ban nhận xét
là Hội Đồng Thuộc Địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ.
[4] Người yếu (dân 'An Nam') cần dựa
vào người Pháp để đưa mình lên thành người khỏe. Nhưng còn lâu thực
dân mới để người Việt ngang hàng với Pháp.
http://www.buddhismtoday.com/viet/doi/023-trungvinhky.htm