- THÔNG ĐIỆP GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT
- Diệu Hương
Nền giáo dục của Đức Phật đứng trên lập
trường nhân bản, nêu cao tinh thần tự giác của con người, đó là vấn
đề chủ yếu giúp con người đánh thức trí tuệ của mình, biết điều
hành được cuộc sống tâm lý và vật lý của chính mình để đạt đến
giải thoát và giác ngộ, biết hướng con người thích ứng với môi trường
sống trong xã hội tiến bộ, biết sáng suốt nhìn và biết sống như thế
nào để đem lại hạnh phúc cho chính mình và cộng đồng xã hội…
***
Giáo dục là một trong những yếu tố quan trọng nhất
có thể diệt trừ sự dốt nát, những thành kiến vốn là những nguyên
nhân tạo nên những mâu thuẩn xung đột. Xung đột chính nội tại của
cá nhân đó, xung đột giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với môi trường,
cá nhân với xã hội; hay nói rộng hơn là xung đột giữa một tập thể này
với một tập thể khác, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác hay quốc
gia này với quốc gia khác. Nhưng suy cho cùng cũng là mâu thuẩn của con người
trong chính sự vận hành của mình. Chính vì vậy điều kiện tiên quyết
để giải quyết những mâu thuẩn này, để đạt được sự bình an nội
tại, giải thoát mọi khổ đau vẫn chính con người phải tự biết mình.
Đức Phật Thích-ca-mâu-ni sau khi trải qua kinh nghiệm năm
năm tìm thầy học đạo, sáu năm dài dăng dẳng khổ hạnh để cuối cùng
dưới cội bồ đề rậm lá bên dòng sông Ni-liên-thuyền xanh mát, chính tự
Ngài đã thực chứng được con đường "trung đạo" hay còn
gọi là định lý duyên khởi. Bức màn định lý duyên khởi đã được
Ngài vén lên để đánh thức nhân loại ra khỏi giấc mơ trói buộc của
tham ái và chấp thủ, đánh thức nhân lọai phải tự biết mình là "chủ
nhân ông của nghiệp và thừa tự nghiệp," là chủ nhân ông của
móc xích mười hai khoen nhân duyên và cũng sẽ là thừa tự hậu quả của
mười hai nhân duyên đó.
- Do vô minh mà có hành.
- Do hành mà có thức.
- Do thức mà có danh sắc.
- Do danh sắc mà có lục nhập.
- Do lục nhập mà có xúc.
- Do xúc mà có thọ.
- Do thọ mà có ái.
- Do ái mà có thủ.
- Do thủ mà có hữu.
- Do hữu mà có sanh.
- Do sanh mà có lão tử, sầu bi khổ ưu não …
Chính tự mình đã tạo vô minh để rồi đưa đến sanh lão
bịnh tử … thì cũng chính tự mình mới là người cởi bỏ những móc
xích của mười hai nhân duyên đó.
- Do vô minh diệt nên hành diệt
- Do hành diệt nên thức diệt.
- Do thức diệt nên danh sắc diệt.
- Do danh sắc diệt nên lục nhập diệt.
- Do lục nhập diệt nên xúc diệt.
- Do xúc diệt nên thọ diệt.
- Do thọ diệt nên ái diệt.
- Do ái diệt nên thủ diệt.
- Do thủ diệt nên hữu diệt.
- Do hữu diệt nên sanh diệt.
- Do sanh diệt nên lão tử, sầu bi khổ ưu não … diệt.
Tóm gọn lại, công thức này còn được định hình trong bốn
câu:
- "Do cái này sanh nên cái kia sanh,
- Do cái này có nên cái kia có.
- Do cái này diệt nên cái kia diệt,
- Do cái này không nên cái kia không."[1]
Nghĩa là mấu chốt đưa đến sanh tử đã được Đức Phật
thực chứng và Ngài đã sung sướng thốt lên:
"Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống,
tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Đau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn
mãi! Hỡi kẻ làm nhà! Nay Ta đã gặp ngươi rồi. Ngươi không được làm
nhà nữa! Bao nhiêu rui mè của ngươi đều gãy cả rồi, kèo cột của ngươi
đã tan vụn cả rồi. Trí ta đã đạt đến vô thương Niết bàn, bao nhiêu
dục vọng đều dứt sạch cả."[2]
Chân lý Duyên sanh là tiếng nói của bậc tuệ giác vĩ đại,
chưa từng có trong hệ thống lịch sử tôn giáo và triết học cổ truyền
bấy giờ. Chân lý duyên khởi này đã đánh tan thành kiến cố chấp thần
linh của giai cấp bà la môn lúc bấy giờ, đã thực sự làm rung chuyển
các tôn giáo lớn của Ấn Độ cổ đại đã chủ trương rằng con người
và mọi hiện hữu trên thế gian này là những tạo vật của Thượng đế,
của Phạm thiên, của đấng tòan năng vô hạn, của một bản thể đại
ngã … và con người phải chịu sự chi phối thưởng phạt của những thế
lực siêu nhiên vô hình nào đó. Ngược lại bằng giáo lý duyên khởi, Đức
Phật chủ trương con người là chủ nhân của tất cả thừa tự nghiệp,
là chủ nhân kết lên 12 khoen nhân duyên và cũng sẽ là người tháo gỡ 12
khoen sanh tử đó. Nghĩa là con người tự tạo những mâu thuẩn xung đột
sát-na tâm sanh diệt chính trong cá nhân mình và môi trường bên ngoài thì
cũng chính con người phải là người tự diệt nó đi.
Trong kinh tạng, nhiều chổ Đức Phật đã không bao giờ thừa
nhận mình là vị thần linh hay đấng siêu nhân tối thượng cầm quyền trừng
phạt hay ban ân giải thoát cho bất cứ ai. Ngài cũng là một con người bình
thường bằng xương bằng thịt như chúng ta, một con người có thật trong
lịch sử nhân lọai. Cha là Vua Tịnh Phạn, mẹ là Hoàng hậu Maya, và thái
tử Sĩ-đạt-ta đã được sinh ra tại vườn Lâm-tì-ni. Thái tử đã xót
xa trước cảnh đau khổ sanh già bịnh chết của kiếp người khi đi dạo
bốn cửa thành. Ngài đã động lòng trắc ẩn trước cảnh giun trùng bị
gìay xéo trước lưỡi cày của con người, đã thương tâm trước cảnh
nai tơ bị hổ vồ, ong ruồi sa lưới nhện, đã thương xót mang về săn sóc
con chim bị trúng tên (do thái tử Đề-bà-đạt-đa bắn) cho đến khi lành
mạnh thì thả cho chim tự do trên bầu trời.
Từ là ban vui, bi là cứu khổ. Ban cái vui cứu
cánh và cứu cái khổ triền miên. Đó là động lực khiến Ngài từ bỏ
cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan để tìm con đường thoát khổ
cho chúng sanh. Sáu năm khổ hạnh rừng già, 49 ngày kiên trì thiền định
để cuối cùng Ngài giác ngộ lý "trung đạo" đó là nội dung của
bài chuyển pháp luân đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như tại Lộc uyển
sau khi Đức Phật thành đạo tại cội bồ đề. Nếu con người đã nhận
thức được nguồn gốc của khổ đau do tự mình trói buộc thì cũng chính
con người từ gốc khổ đau đó mà xả ly cởi trói ra. Đức Phật ngài chỉ
là một người chỉ đường, là người mong mỏi thoát ly và làm cho mọi
người cùng thoát ly. Đức Phật không phải là một con người của hư vô,
không phải là một con người của kiến chấp điên đảo như Bà la môn
giáo. Ngài là một con người như mọi người nhưng đã vực dậy được từ
khổ đau của tự thân và muôn loài, của tôn giáo và triết học, của cá
nhân và cộng đồng xã hội, trong đó nhân tính được Đức Phật đề
cao với những lời dạy: "con người và chỉ có con người mới có
thể thực hiện được những hoài bảo lý tưởng hướng đến Phật quả."
Chúng ta có thể gọi Đức Phật là một con người tuyệt
vời trong nhân tính vì Đức Phật tuyệt đối lấy nhân tính làm cơ sở
để từ đó vươn lên tầm cao của hòa thiện chính mình ngay trong đời này
và những người khác theo con đường đó thì sẽ đạt được sự hòan
thiện như Đức Phật vậy. Vì lý do đó mà Đức Phật đã thường khẳng
định vị trí của con người với chúng đệ tử của mình rằng: "Hảy
trở về nương tựa mình và nương tựa pháp; người là hải đảo là nơi
nương tựa của chính ngươi."
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người
để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như một sợi chỉ
xuyên suốt trong tòan bộ hệ thống giáo lý của Đức Phật trong 49 năm hoằng
pháp lợi sanh.
"Nương tựa mình," "Ngươi là hải đảo, là nơi
nương tựa của chính ngươi" vì chỉ chính mình mới hiểu mình hơn
ai hết. Hảy quay lại với con người và tâm thức của chính mình. Còn tất
cả những hình sắc âm thanh của bên ngoài, của núi sông đại địa, của
con người … đều là những ảo giác do biến kế sở chấp của tám thức
mà phát sanh.
"Nương tựa pháp" bởi chỉ có phương pháp
tu tập của Đức Phật – bậc tối tôn của cuộc đời, chúng ta mới biết
người thợ xây nhà đã dung 12 khoen nhân duyên của rui, mè … để tạo thành
hiện hữu kiến trúc con người. Chúng ta mới biết giới định tuệ, tứ
đế, bát chánh đạo, 12 nhân duyên, tam pháp ấn... nói rộng ra là 48 ngàn
pháp môn sẽ đưa chúng ta từ một con người bình thường trở thành những
nhà mô phạm đạo đức thanh tinh của cuộc đời, sẽ đem lại sự giải
thoát an lạc và hạnh phúc cho chính mình và xã hội chung quanh.
Chính trong lời giáo huấn tối hậu của Đức Phật tại Câu
thi la trước khi Đức Phật nhập niết bàn, Ngài đã ân cần dặn dò rằng:
"Này các Tỳ kheo, đừng nghĩ rằng sau khi ta nhập diệt
các ngươi không còn biết nương tựa vào ai. Chính giới pháp ta đã chỉ dạy
các ngươi dẽ là nơi nương tựa. Các pháp hữu vi đều vô thường hảy
tinh tấn lên để giải thoát."[3]
"Pháp" nghĩa là chân lý mà dù chúng ta muốn
hay không thì nó vẫn như thế. Tác giả Hoàng Thượng[4] đã nói rằng
" Pháp xuất hiện như chân lý, vừa mang tánh hiện thực khách quan –
chân lý công ước, lâm thời và lại vừa mang tính tuyệt đối – chân
lý bất khả thuyết". Pháp là một con đường quy ngưỡng về nếp sống
mà ở đó vai trò của Thượng đế không có mặt. Mọi trách nhiệm về khổ
đau và hạnh phúc ở đời đều do con người phán quyết. Trở về nương
tựa với Pháp là trở về với trách nhiệm luân lý đạo đức, trách
nhiêm trong cuộc sống tư duy và hành động, trong thể cách ứng xử giữa
tự thân và tha nhân, giữa cá thể và xã hội của mỗi con người. Thế
giới bao la và đời sống tâm thức thì vô tận, do đó sẽ không có bất
kỳ một động lực tự nhiên hay siêu nhiên nào có thể ngự trị trong
dòng sanh tử luân lưu, ngọai trừ chuổi nhân quả gồm 12 khoen nhân duyên.
Trở về nương tựa với mình cũng có nghĩa là trở
về hạt giống giác ngộ hay năng lực giác ngộ. Hạt giống Phật này tiềm
ẩn, vốn có trong mỗi tâm thức chúng ta mà bấy lâu nay chúng ta như gã
cùng tử nghèo túng lang thang nhiều kiếp mà không biết bảo vật châu báu
nằm sẳn trong chéo áo của mình. Và để được trở thành nhà tỷ phú
giàu có hạnh phúc, chính chúng ta đóng vai trò trung tâm gở chéo áo để lấy
bảo vật ra. Còn Đức Phật chỉ là người chỉ cho ta phương pháp lấy
châu báu trong chéo áo đó như kinh Pháp cú có dạy:
"Ngươi phải làm công việc của ngươi,
vì Như lai chỉ chỉ dạy con đường."[5]
Hay như trong kinh Di giáo Ngài đã khẳng định: "Như
người dẫn đường, chỉ dẫn đường cho mọi người, nhưng nghe rồi mà
không đi thì lỗi không phải ở người dẫn đường."[6]
Đức Phật là một nhà giáo dục toàn diện, Ngài căn cứ
trên tinh thần từ bi và trí tuệ để tạo điều kiện tối ưu đưa con
người đến với chân lý bằng tinh thần tự giác, hướng con người quay
về tự chứng nghiệm với chân lý đó. Việc giáo dục của Đức Phật dựa
trên sự đánh thức tâm tư của mỗi người tự giác trở về với sự
giác ngộ bản thân. Với hình thức giáo dục này Đức Phật không đưa ra
một giáo điều nào bắt mọi người phải tuân thủ hay mặc khải, coi
ngài như một đấng quyền năng tối thượng. Nền giáo dục của Đức Phật
đứng trên lập trường nhân bản, nêu cao tinh thần tự giác của con người,
đó là vấn đề chủ yếu giúp con người đánh thức trí tuệ của mình,
biết điều hành được cuộc sống tâm lý và vật lý của chính mình để
đạt đến giải thoát và giác ngộ, biết hướng con người thích ứng với
môi trường sống trong xã hội tiến bộ, biết sáng suốt nhìn và biết sống
như thế nào để đem lại hạnh phúc cho chính mình và cộng đồng xã hội.
"Ngươi là nơi nương tựa của chính ngươi, không ai
khác có thể là nơi nương tựa."[7]
"Con người là chủ nhân ông của nghiệp, là thừa tự
của nghiệp."
"Hảy tự mình thắp đuốc lên mà đi."
Đấy là thái độ giáo dục mang tính tích cực, sáng tạo,
dân chủ trong tinh thần vô ngã, có giá trị xuyên suốt thời gian và không
gian, có khả năng hóa giải được các căn bịnh mâu thuẩn xung đột của
chính nội tại cá nhân đó, mâu thuẩn xung đột giữa cá nhân với cá
nhân, cá nhân với môi trường, gia đình xã hội và thế giới bên ngoài.
Đó là cánh thư xanh, là bức thông điệp giáo dục vô tiền
khóang hậu của Đức Phật mà cách đây hơn 25 thế kỷ, Ngài đã gởi đến
cho nhân loại chúng ta trong thiên niên kỷ mới của mùa xuân Tân Tỵ 2001
này.
CHÚ THÍCH
[1] Gems of Buddhism Wisdom. (The Corporate Body of the Buddha
Educational Foundation, Taiwan, 1996), trang42.
[2] Kinh Pháp Cú, Thích Trí Đức dịch. Ấn Độ, 1999, câu
153-154.
[3] Kinh Di Giáo, trích Báo Giác Ngộ, số 38 tháng 5-1999,
trang 28.
[4] Trong "Suy niệm từ Bức Thông Điệp của Thời đại
mới…", Báo Giác Ngộ số 38 tháng 5-1999, trang 9.
[5] Dhammapada, XX 4, trích Báo Giác Ngộ, nt, trang 11.
[6] Trích Báo Giác Ngộ, số 8,9 ngày 25-5-1995 trang 15.
[7] Dhammapada, XII 4; Báo Giác Ngộ số 38, tháng 5-1999 trang 9.