- Chú Đại Bi có
bị thiếu chữ không ?
*******
Câu
hỏi:
NAM
MÔ A DI ĐÀ PHẬT
******
Virginia,
ngày 28 tháng 02 năm 2002
Kính gởi: Thầy Giác Hoàng
Đề tài thảo luận: Chú Đại Bi.
Đệ
tử là Thanh Sơn, 62 tuổi, hiện ngụ tại Alexandria, Virginia, Mỹ Quốc. Trước
tiên kính chúc Thầy cùng chư tôn đức trong Ban Biên Tập Đạo Phật Ngày
Nay thân tâm an lạc, phước duyên tròn đầy, vạn sự hanh thông trên
đường hoằng dương giáo lý Phật-đà, thắp sáng đuốc từ bi, trí huệ,
giải thoát, ban bố nguồn an lạc cho tất cả chúng sanh hữu duyên.
Từ lúc còn ở Việt
Nam cho đến ngày hôm nay tạm trú trên đất Mỹ, đệ tử có một điều
thắc mắc về bài Chú Đại Bi như sau:
Trong các phần nghi thức tụng niệm tại các chùa chiền và tại
gia đều có tụng Chú Đại Bi, có thể nói đa số đều thuộc lòng
bài chú này. Bài chú này kể từ câu:
Nam-mô hắc ra đát na... đến cuối câu:
Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà giạ, ta bà ha, có cả thảy là
84 câu, 415 chữ.
Vấn đề nêu ra như
sau: phần đông những kinh sách xưa đều đăng đầy đủ bài Chú Đại
Bi với 84 câu, 415 chữ. Hiện tại đệ tử thường tụng Chú Đại
Bi trong cuốn Tam Bảo Tôn Kinh do Thích Ca Phật Viện xuất bản và
phát hành năm 1949 đăng đầy đủ số câu và số chữ đã nêu trên. Sau
này, có một số kinh sách đăng bài Chú Đại Bi cũng 84 câu nhưng thiếu
5 chữ như sau: Nguyên văn đầy đủ là "Tát
bà tát đá na ma bà tát đá na ma bà dà"; kinh sách sau này
đăng như sau: "Tát bà tát đá na ma bà
dà" thiếu năm chữ có gạch đít trên câu nguyên văn. Như vậy đâu
là đúng đâu là sai, đệ tử có đem vấn đề này hỏi quý Thầy tại
các chùa chiền nơi cư ngụ, phần đông đều không trả lời thỏa đáng,
ý muốn nói kinh sách đăng thế nào thì tụng như vậy, còn đúng sai thì
không biết.
Công năng và diệu dụng
của Chú Đại Bi không thể nghĩ lường, nếu có đức tin, lòng
thành kính, và chuyên tâm trì tụng mới có thể kết hợp được Đại Bi
Tâm của Bồ Tát Quán Thế Âm và nhiều lợi ích cho bản thân... Nhưng đệ
tử nghĩ rằng nếu tụng bài Chú Đại Bi đăng thiếu 5 chữ như trên
thì sẽ ra thế nào, vấn đề này nói ra thì e không có thì giờ để giải
quyết thỏa đáng. Vậy ai là người có thể nói lên việc này để đưa sự
chính xác về cho những lời Phật thuyết và hiệu đính những thiếu sót
cho các kinh điển sau này cho được thống nhất.
Mong Thầy từ bi chỉ dạy
chỗ thắc mắc đã nêu trên. Cuối thư kính chúng Thầy và chư tôn đức vạn
sự kiết tường.
Trân trọng
kính chào.
Thanh Sơn.
Thư
phúc đáp Bác Thanh Sơn:
Kính chào
Bác,
Giác
Hoàng xin thay lời quý Thầy Cô phụ trách HTPH, cũng như quý Thầy phụ
trách biên tập trang nhà kính gởi lời cầu chúc sức khoẻ và tán thán
tinh thần kiên trì học hỏi giáo pháp không mệt mỏi của Bác. Kính chúc
Bác đạt nhiều kết quả tốt đẹp trong quá trình tu tập tâm linh của
mình.
Thưa Bác,
Nội
dung bức thư của Bác làm cho GH đang bận cũng phải cố gắng sắp xếp thời
gian, tranh thủ để phúc đáp cho câu hỏi thao thức, nhiệt thành của Bác.
Một lần nữa, xin tán thán tâm hạnh
của Bác.
Như Bác
đã trình bày, bản Chú Đại Bi đầu tiên mà Bác đã đọc thì có cả thảy là 84 câu, 415 chữ. Bản thứ
hai mà hiện nay các chùa ở Việt Nam và
hải ngoại đều trì tụng không có hẳn 5 chữ na ma bà tát đá, nghĩa là chỉ còn 410 chữ như Bác đã đối
chiếu.
Hồi còn
ở Việt Nam, có lần GH cũng được nghe một sư huynh nói rằng bản Chú Đại Bi hiện nay
và một số thần chú khác bị thiếu một số chữ, vì những người soạn
kinh sơ ý bỏ sót hoặc giấu bớt vài chữ để mình giữ mật chú đó làm “gia bảo”. GH cứ tưởng đó
là câu nói đùa, không ngờ nay được Bác cho biết bản Chú Đại Bi có dị bản
như vậy.
Cũng
rất may, hiện nay GH có được bản Chú
Đại Bi
bằng tiếng Phạn (Sanskrit) viết tay do Thầy Minh Hạnh tặng từ năm ngoái.
Bản viết tay này được viết bằng ngôn ngữ Devanàgarì, đính kèm bản
phiên âm La-tinh. Nếu bản này đúng 100% thì chúng ta có thể xác định
được bản thứ hai hiện nay các chùa ở Việt Nam hoặc hải ngoại thọ
trì là chuẩn xác hơn, rất khớp, không có 5 chữ như trên đã đề cập.
Nhân đây, xin ghi lại toàn bộ bản phiên âm của Chú
Đại Bi
để đáp lại tấm lòng khao khát học hỏi của Bác. Xin Bác bấm vào đây để đọc.
Cũng xin nói
thêm là câu xưng tán: Nam-mô Đại Bi Hội Thượng Phật, Bồ-tát (3 lần)
là câu thêm vô giống như các bản Kinh Di Đà, Pháp Hoa trước
khi trì tụng đều có phần xưng tán pháp hội, chứ trong bản gốc không
có. Tương tự, danh hiệu thần chú: Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà-là-ni cũng được thêm vào để
xưng tán danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Phần chính của thần chú bắt đầu
từ câu: Nam-mô hắc ra…. cho đến
câu chót: Aùn, tất điện đô, mạn đa ra,
bạt đà dạ, ta bà ha.
Đoạn
“Nam-mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du
bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già,
ma phạt đạt đậu, đát điệt tha” rất
trùng khớp với đoạn trong bản nguyên tác Sanskrit: “Na mo na ra
ki dhi he ri ma ha va dha ?a me sa rva a tha
du su bhu? a je ya? sa rva sa ta. Na mo va ja ma va
du du ta dya tha” .
Nhân đây, cũng xin trình bày vài ý nhỏ liên
quan đến thần chú: Vì người Trung Hoa không phát âm được những âm tiết
mà người Aán phát âm, do đó các dịch giả Trung Hoa đã cố gắng Hán
hoá toàn bộ những âm tiết của Ấn
Độ, dù đó là thần chú hoặc là nhân danh và địa danh. Người Việt Nam
mình lại copy toàn bộ cách phiên âm của người Trung Hoa để đọc theo giọng
đọc của mình. Do đó, không tránh khỏi cách đọc lệch lạc biến âm qua
hai hệ thống phiên âm của hai nước.
Ở đây,
chúng ta cũng cần lưu ý là cách ngắt đoạn và cách đọc một số chữ
không được chính xác, ví dụ đoạn tô
đỏ bên trên. Đúng ra, tới chữ sa ta thì
chấm câu, bản tiếng Hán hoặc tiếng Việt tương ưng cũng phải chấm câu
mới đúng, nhưng đây lại dùng dấu phảy. Tiếp theo là câu Na mo… vốn nó
phiên âm của chữ Namo bằng tiếng
Sanskrit, nghĩa là thành kính hoặc đảnh lễ, trong khi đó mình phiên âm
thành na ma hoàn toàn mất đi ý nghĩa của đoạn
thần chú. Lấy một ví dụ khác, câu “ma phạt đạt
đậu” là cách đọc của người Việt Nam, người Trung Quốc cũng
đọc bốn âm tiết hoàn toàn khác nhau: ma fa da dóu (đọc là “ma pha ta tấu”),
chưa kể các thổ ngữ khác nhau. Chúng ta thấy hai âm “đạt đậu” hoàn toàn khác nhau về âm tiết, trong
khi đó, đối chiếu với bản nguyên tác thấy hai chữ đó viết y như
nhau, phiên âm theo La-tinh và đọc theo giọng Ấn là “du
du”.
Một
điểm quan trọng khác,
một số người Ấn có trình độ uyên bác về cổ ngữ học Ấn Độ, đều
có thể hiểu được nghĩa lý nhiệm mầu ẩn chứa bên trong của các bài
chú, trong khi đó, mình đọc không hiểu gì cả. Đơn cử, cứ một đoạn
là có chữ Nam-mô (bản tiếng Phạn là Namo) nghĩa là thành
kính / đảnh lễ một bậc giác ngộ, hoặc một đại oai lực, hoặc
chơn lý tối thượng, trong khi đó người Việt Nam, Trung Quốc cũng như một
số nước hiện nay, phần lớn đọc tụng nhưng không hề quan tâm đến
nghĩa lý tiềm ẩn bên trong của câu thần chú là gì. Nhiều vị cho rằng
trì chú là phương tiện để nhiếp tâm nên không cần hiểu; trì chú nhằm
cầu sự hỗ trợ tha lực của chư Bồ-tát, thiện thần. Trì chú để kết
hợp tâm mình với tâm chư Phật và Bồ-tát, nương vào đó tâm linh của
mình được thăng hoa. Thiết nghĩ, xét về công năng của trì chú, các quan
điểm trên cũng đúng, nhưng để hoàn
hảo hơn có lẽ chúng ta cũng nên tìm
hiểu ý nghĩa của bài chú.
Vấn
đề này cũng là một vấn đề cần được quan tâm đối với những vị
có trách nhiệm hoằng dương Phật Pháp. Người viết trình bày vài ý tưởng
trên chỉ với mục đích đưa ra những chỗ mà bản thân thấy việc phiên
âm thần chú còn nhiều vấn đề, chưa thật sự thoả đáng. Kính mong các
bậc thiện trí thức cao minh bổ chính.
Đôi
hàng kính gởi đến Bác. Kính chúc Bác dồi dào sức khoẻ, đóng góp nhiều
thi phẩm hơn nữa cho vườn hoa thơ đạo
thêm sắc màu; và trên hết, cầu chúc Bác tinh tấn tu học để làm tư
lương cho hành trình vạn dặm của mình.
Kính,
Ấn Độ,
ngày 08 tháng 03 năm 2002.
Thích
Giác Hoàng.
http://www.buddhismtoday.com/viet/hopthu/chudaibi-thieuchu.htm