- Lịch
sử và ý nghĩa của chuông trống Bát-nhã
Câu hỏi
một:
Câu hỏi một:
Kính quý Thầy Cô,
Tôi biết về giáo
lý của Phật giáo rất ít do tuổi tác còn non kém. Tôi rất muốn biết về
lịch sử của cái Chuông và Mõ mà quý Thầy trong các Chùa thường dùng để
tụng niệm. Không biết công việc trợ duyên nầy xuất phát từ hồi nào,
ở đâu, do ai sáng chế và dụng ý ra sao? Kính xin quý Thầy Cô vui lòng cho
tôi được tường lãm.
Ánh Quang.
Câu hỏi hai:
1) Xuất xứ của
chuông trống Bát-nhã?
2) Xin cho biết ý
nghĩa chuông trống Bát-nhã?
Mong trả lời sớm.
Thành thật cảm ơn Ban biên tập.
Như Ý.
Kính chào quý
cư sĩ,
Chuông trống
là một trong các loại pháp khí của Phật giáo. Sở dĩ gọi là Bát-nhã
(phiên âm của chữ “prajn~aa” (S) có nghĩa là “trí tuệ”) vì công năng
của chúng là để thức tỉnh lòng người, có khả năng đánh động tâm
linh của người nghe. Chuông Trống Bát-nhã là danh từ chung để chỉ cho đại
hồng chung (chuông rất lớn) và trống lớn, thường được đặt hai bên
trái phải của chánh điện, theo cách “tả chung hữu cổ” nghĩa là bên
trái đặt chuông, bên phải đặt trống. Nhiều chùa còn xây tháp an trí
chuông và trống, nên nơi đặt chuông trống là “lầu chuông trống”.
I. Nguồn gốc và ý nghĩa của
tiếng Chuông
Nhiều nguồn tài liệu
khác nhau đều cho rằng quá trình đưa chuông vào tự viện và được sử
dụng rộng rãi trong các chùa chiền Trung Quốc vào thời kỳ nào không được
xác định. Tuy nhiên, như sử liệu ghi lại chuông đã được sử dụng vào
thời nhà Chu (557 trước TL- 89 TL). Phật giáo Trung Hoa đã đưa Chuông và Trống
vào các tự viện năm nào và do ai đề xướng, hiện nay chúng tôi chưa tìm
ra tài liệu. Tài liệu về lịch sử của chuông và trống Bát-nhã quả thật
là quý hiếm. Tuy nhiên, chúng tôi dựa vào một số tài liệu sau để tạm
truy nguyên nguồn gốc của chúng.
Cuốn Quảng Hoằng
Minh Tập (số 2103) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ghi rằng
vào thời Lục Triều (420 - 479) đã có nhiều lầu chuông. Năm Thiên Hoà thứ
5 (566) đời Bắc Châu, bài Nhị Giáo Chung Minh được khắc trên ba đại
hồng chung lớn nhất thời bấy giờ. Hai cái trong 3 cái này được đúc
vào năm 570 và 665 TL.
Tục Cao Tăng Truyện
có ghi
năm thứ 5 đời Tuỳ Đại Nghiệp (609), ngài Trí Hưng nhận lo việc chuông
tại chùa Thiền Định ở kinh đô Trường An. Trong khoảng thời gian này
và trở về sau, Bắc Châu không ngừng đúc hồng chung để an trí trong các
tự viện.
Lại nữa, theo truyền
thuyết cho rằng hồng chung là do Hoà Thượng Chí Công khởi xướng và vua
Lương Võ Đế (thế kỷ thứ VI) thực hiện để cầu nguyện cho các thần
thức bị đọa trong chốn địa ngục mà người Hoa gọi là chốn U Minh.
Có hai loại chuông
thường được sử dụng trong các chùa chiền, tự viện như sau:
1. Phạn Chung (chuông Phạn): Cũng
gọi là “đại chung”, “hồng chung”, “hoa chung” hoặc “cự chung”.
Chuông này được đúc bằng đồng xanh pha ít sắt. Thông thường chuông
cao khoảng 1,5m, đường kính khoảng 6 tấc. Loại này treo trong lầu chuông,
mục đích thỉnh chuông là để chiêu tập đại chúng hoặc báo thời sớm
tối. Người Việt mình thường dùng từ “đại hồng chung” chỉ cho loại
chuông thật to, gần như không còn có quy định cụ thể là rộng hẹp bao
nhiêu nữa. Chuông này còn gọi là chuông U Minh.
2. Bán chung (chuông bán): Vì
chiều kích chỉ lớn bằng 1/2 chuông phạn, nên gọi là bán chung, còn được
gọi là “hoán chung” hoặc “tiểu chung.” Chuông này thường được đúc
bằng đồng, cao khoảng 6 đến 8 tấc, thường để tại 1 góc trong chánh
điện và được sử dụng trong các buổi pháp hội, nên còn có tên khác
là “ hành lễ chung.” Người Việt Nam cũng như các nước khác ngày nay cũng
linh động chế tạo nhiều loại chuông dạng “bán chung” này, nhưng cũng
không có kích thước cố định.
Về thỉnh
chuông, xưa ở Trung Quốc tuỳ mỗi Tông phái, từng địa phương mà quy định
có khác nhau, nhưng tổng quát là khi bắt đầu thỉnh 3 tiếng và khi kết
thúc đánh nhanh 2 tiếng hoặc 3 hồi chín tiếng cho các loại chuông nhỏ
khi tụng kinh. Số lượng tiếng thường là 18, cũng có khi thỉnh 36 tiếng,
108 tiếng. Thỉnh 108 tiếng biểu thị hành giả nỗ lực làm vơi cạn đi
108 loại phiền não nơi nội tâm. Mười tám tiếng là biểu thị sự thanh
lọc 6 căn, 6 trần và 6 thức.
Ngoài
ra, trong thời cực thịnh của Thiền Tông, chuông an trí tại thiền đường,
trai đường gọi là “chuông tăng đường”, “chuông trai”; chuông để
tại chánh điện gọi là “chuông điện”… Những vị lo việc chuông
này gọi là “chung đầu.”
Theo niềm
tin cho rằng tiếng vang của chuông có thể thấu đến cõi địa ngục u
ám, chúng sanh nào bị đọa nơi địa ngục nhờ nghe tiếng chuông này liền
được giải thoát. Lại nữa, tiếng chuông thanh thoát của chùa có thể
giúp cho loài quỷ đói được nhẹ bớt lòng tham lam, sân hận mà giải
thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Ở các ngôi chùa Việt Nam hiện nay cũng
như các chùa Trung Quốc thời xưa hoặc các chùa thuộc các nước theo Phật
giáo Đại Thừa như Nhật Bản, Triều Tiên. ...thường có quả chuông lớn
để thỉnh vào hai buổi sáng tối trong ngày khi cầu nguyện. Giờ thỉnh
chuông buổi sáng lúc 4 giờ hoặc trước thời công phu buổi sang, tuỳ theo
quy định của mỗi chùa. Người thỉnh chuông vừa đánh chuông vừa đọc
bài kệ:
Nguyện thử chung
thinh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất
giai văn.
Văn trần thanh tịnh
chứng viên thông,
Nhứt thiết chúng
sanh thành chánh giác.
Nghĩa là:
Nguyện tiếng
chuông này khắp pháp giới, thiết vi u ám cùng nghe được, căn cảnh thanh
tịnh chứng viên thông, hết thảy chúng sanh thành chánh giác. (Bản dịch của
Hòa Thượng Trí Quang, LUẬT SA-DI, SA-DI-NI, Phật Học Viện Quốc Tế
xuất bản, 1989).
Dịch
thơ:
1
Nguyện
tiếng chuông vang rền pháp giới
Chúng
sanh ngục Sắt thảy đều nghe
Tiếng
đời sạch, chứng được viên thông
Tất
cả muôn loài đều giác ngộ.
(Thích
Nhật Từ dịch) |
2
Tiếng
chuông nguyện vang rền các cõi
Núi
Thiết Vi tăm tối nghe hay
Âm
thanh đời lắng sạch thay
Chúng
sanh giác ngộ, tỏ bày an nhiên.
(Thích
Nhật Từ dịch) |
II. Nguồn Gốc của Mõ và ý nghĩa
Theo sách Tam Tài Đồ Hội của
Vương Tích đời Minh có đoạn: “Mõ là loại mà dùng cây khắc thành
hình con cá, rỗng bên trong, gõ nó sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật tử
khi tán tụng đều dùng đến nó.”
Mõ có 2 loại:
Loại hình con cá
dài thẳng treo ở nhà kho, nhà ăn…khi đến thời dùng cơm cháo thì gõ nó
để báo hiệu. Loại mõ này chỉ dùng trong các chùa cổ Trung Quốc; các
chùa chiền, tự viện ở Việt Nam không dùng.
Loại hình con cá
có vảy cuộn tròn, khi tụng Kinh thì gõ. Loại này cả Trung Quốc, Việt
Nam, Nhật Bản và Triều Tiên đều dùng. Loại mõ này được nói là xuất
hiện thuộc triều đại nhà Minh, Trung Hoa.
Theo sách Tham Thiền
Ngũ Đài Sơn Ký (quyển 3), Tống Thần Tông, Hy Ninh năm thứ 5 ngày mồng
8 tháng 8 ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Đại Sĩ. Mỗi
khi Ngài muốn gặp các vị tu hạnh đầu-đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư
vị sau khi nghe tiếng mõ ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ dưới
chân núi đều dùng mõ để tập họp đại chúng. Lại có người cho rằng
mõ là do Sa-môn Chí Lâm đời Đường tạo ra, nhưng điều này cũng không lấy
gì làm chắc, vì không có sử liệu rõ ràng. Sách Tăng Tu Giáo Uyển
Thanh Quy (quyển hạ, phần pháp khí) có ghi lại truyền thuyết rằng có
một vị Tăng do phản thầy, huỷ pháp mà bị đoạ làm thân cá, trên lưng
con cá ấy lại mọc một cái cây, mỗi khi sóng to gió lớn, khiến thân ra
máu, thật thống khổ vô cùng. Một lần nọ, vị Thầy Bổn Sư qua biển,
nhân đó nó muốn đòi nợ liền nói rằng: Thầy không dạy bảo nó nên
nó mới phải bị đoạ làm thân cá như thế này, do đó nay nó muốn báo
oán. Thế rồi, vị Thầy ấy bảo cá nên ăn năn sám-hối, Thầy ấy cũng
vì con cá mà cầu siêu chú nguyện và ngay đêm ấy nó được hóa kiếp. Vị
Thầy Bổn Sư liền đem cây ấy đẽo thành hình con cá và treo lên để cảnh
tỉnh đại chúng. Có thể vì lý do này các mõ tròn sau này cũng hay khắc hình
con cá trên mõ để cảnh tỉnh đại chúng.
Theo sách Thích Thị
Yếu Lãm ghi rằng: chuông, khánh, bản đá, bản gỗ, mõ đều có khả năng
phát ra âm thanh một khi gõ vào và nhờ nghe đó mà đại chúng tập họp
nên các loại đó đều gọi là kiền chuỳ.
Sách Sắc Tu Bách
Trượng Thanh Quy, chương Pháp Khí cũng nói khi dùng cơm hoặc khi
phổ thỉnh chúng tăng đều gõ mõ. Từ đây chúng ta có thể hiểu lúc đầu
mõ dài (loại 1) được dùng để tập họp Tăng chúng.
Nhưng vì sao cả 2
loại mõ đều khắc hình con cá? Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy nói
rằng vì loài cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi
khi gõ, chúng ta tự nhắc mình phải tỉnh thức, chớ có hôn trầm, giải
đãi.
Tiếng
mõ với mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng khi tụng kinh
điển cho nhịp nhàng.
III. Nguồn gốc và ý nghĩa của Trống
Trống là
một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đá, cây, đồng, v.v…Xưa
tại Ấn Ðộ dùng để báo thời gian, cảnh báo. Khi Ðức Phật còn tại
thế, dùng nó để tập họp chúng Tăng Bố-tát, nghe pháp…Ngũ Phần Luật
có ghi: “chư Tỳ-kheo bố - tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn: nhược
đả kiền chuỳ, nhược đả cổ…”. Trung Quốc thời xưa dùng nó trong
các dịp lễ lộc, vũ hội…Loại hình có to, nhỏ, treo hoặc để trên
giá…Trống to gọi là trống tẩu, nhỏ gọi là trống ứng, treo để đánh
gọi là trống treo…
Từ đời
Ðường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại
pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau này Phật giáo Trung
Quốc tiến thêm bước nữa là phối hợp nhịp điệu, âm thanh của tiếng
trống hòa cùng những lời tán tụng, phổ thành nhạc điệu, gọi là “kỹ
nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo tràng”, dùng âm thanh làm Phật sự,
trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính với Tam Bảo.
Ai đã đưa trống vào
tự viện? Năm nào? Chúng tôi chưa tìm ra tài liệu để đưa ra một giả
thuyết khả dĩ. Tuy nhiên, dựa vào bản dịch bài Thiền Sư Đại Điên và Hàn Dũ thời Đường
Hiến Tông năm 820, chúng ta thấy chuông và trống đã được sử dụng rộng
rãi trong các nghi lễ Phật giáo. Do đó, ít nhất chúng ta đoán được
là trước năm 820, trống đã được đưa vào chùa để làm pháp khí.
Ngày
nay, có một vài nghi thức tán tụng ở miền Trung và miền Nam sử dụng trống
nhỏ để hỗ trợ cho quý Thầy khi tán tụng. Các loại nghi thức tán tụng
này có lẽ cũng chịu ảnh hưởng của
Phật giáo Trung Quốc, vì các thời tụng niệm của Phật giáo Trung Quốc
đều có tán, và loại trống nhỏ này (người Việt mình hay gọi là Trống
Cơm) cũng được xem như một loại pháp khí.
Cách đánh
Trống Bát-nhã và ý nghĩa biểu trưng:
- Mới đầu đánh
nhập 2 tiếng: biểu thị NHỊ ĐẾ dung thông (pháp thế gian và pháp xuất
thế gian dung thông, không ngăn ngại).
- 3
tiếng tiếp (mỗi lần 1 tiếng): tượng trưng cho sự khấu đầu quy y TAM BẢO,
nguyện dứt trừ tam độc: tham, sân si.
- 7 tiếng sau đó
(vì tiếng thứ 7 và 8 đánh gấp, tính gộp thành 1 tiếng), tượng trưng
cho BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT THƯỢNG ĐƯỜNG, tức tác pháp thỉnh Phật thăng
toà.
- Nếu 7 tiếng này
tính thành 8 tiếng: tượng trưng cho câu “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA” hoặc
BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT LAI CHỨNG MINH, tức tác pháp thỉnh Phật chứng
minh.
- Cuối cùng đánh dứt
4 tiếng: tượng trưng cho chứng nhập TỨ ĐẾ.
IV. Vài ý tưởng khác
1) Vài ý niệm về việc sử dụng
chuông, trống, khánh tại Ấn Ðộ và các nước khác
Theo cuốn A
Dictionary of Symbols (London, 1962, trang 23) cho rằng âm thanh của chuông là
biểu tượng của năng lực sáng tạo. Chuông treo lơ lửng tượng trưng cho
sự huyền bí của trời và đất. Hình dáng của chuông xuất phát lấy từ
hình tượng vòm trời.
Ấn Độ
đã biết sử dụng chuông trên 2000 năm về trước, và có lẽ chuông được
sử dụng rộng rãi trong cung đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các
hình thức nghệ thuật như điêu khắc chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ
đầu của Phật giáo có thể được tìm thấy trên các bức phù điêu
trên các trụ đá của vua Asoka (A-dục) và các tháp tôn trí xá-lợi của
đức Phật. Không phải tại Ấn Ðộ mà ngay cả các nước lân cận chịu
ảnh hưởng lớn nền văn hóa tư tưởng Ấn Ðộ như Tích Lan, Miến Ðiện
cũng sử dụng chuông, và sau này cả trống nữa, để biểu hiện lòng
thành của người cầu nguyện, và đặc biệt dùng khi chấm dứt một khóa
lễ.
Trong các dịp tưởng
niệm đức Phật, các chuông được sử dụng cùng với một số nhạc khí
khác như trống, sáo để biểu hiện lòng tôn kính đức Phật. Tác phẩm Saddharmàlankàra,
một tác phẩm văn học tôn giáo thời trung đại của người Tích Lan ghi rằng:
chuông được sử dụng đầu tiên ở Tích Lan vào những dịp đặc biệt
như triệu tập tăng chúng. Sau này dần dần nó trở thành một phần của
nghi lễ cúng dường âm nhạc (‘sabda-pùjà) cho đức Phật.
Tín đồ Phật giáo
Tây Tạng tin rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà các
câu thần chú sẽ đi muôn nơi vạn hướng, làm vơi bớt nỗi đau khổ của
cuộc đời. Cho nên Phật giáo Tây Tạng chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho
tín đồ trì niệm và cả những chuông lăn lớn để tín đồ quay.
Dĩ nhiên các loại
chuông trống ở Ấn Độ thuở ban đầu không giống với các loại chuông trống ngày nay ở Trung Quốc hay Việt
Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở Trung Quốc trống chỉ được sử dụng để
thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của chiêng) được sử dụng
như dấu hiệu của rút quân. Trong các buổi lễ tế giao của thiên tử
không thấy đề cập đến sử dụng các loại nhạc khí nầy. Trống phần
lớn cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở cửa quan. Loại
trống này được sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để hành
quyết tội nhân ở pháp đường.
2) Sự mầu nhiệm của tiếng Khánh
Theo như các thiền
sử ghi lại qua các hành trạng của một số vị thiền sư, thì tiếng
khánh có tác dụng rất lớn đối với người tu thiền. Một khi thiền giả
đã vào các tầng thiền như “diệt thọ tưởng định” thì dù có trời
long đất lở thân tâm của vị ấy cũng bất động. Tuy nhiên, chỉ với một
vài tiếng khánh nhỏ cũng đủ đánh thức các Ngài dậy. Câu chuyện Ngài
Hư Vân là một điển hình, trong một cơn thiền định xuất thần kéo dài
cả tuần, chư vị Hòa Thượng khác đã dùng khánh mà đánh thức Ngài xuất
định.
Lời cuối, cầu
chúc quý cư sĩ thân tâm thường an lạc, hằng tinh tấn làm các thiện sự
và tu tập tâm của mình.
http://www.buddhismtoday.com/viet/hopthu/chuongtrong.htm