Trong thời đại khoa học, khi mà những
tiến bộ khoa học đã làm lui đi phần nào quan niệm thần thánh và những
mớ huyền thoại, mê tín dị đoan của con người, thì càng ngày Phật
Giáo càng chứng tỏ là một tôn giáo, từ cấu trúc, tư tưởng trong các
Kinh điển cho tới phương pháp hành trì, rất là tương hợp với khoa học.
Ngày nay, Phật giáo đã đi vào thế giới Tây phương một cách nhẹ nhàng,
cởi mở và hòa đồng. Cho nên thế giới Tây phương càng ngày càng hâm mộ
Phật Giáo về những sắc thái tiến bộ của Phật giáo, và những khoa học
gia thượng thặng ngày nay cũng đã nhận ra rằng tư tưởng Phật Giáo đã
giúp họ rất nhiều trong việc giải thích những hiện tượng khoa học và
đã dẫn họ đến những tư tưởng mới và khám phá mới trong khoa học.
Muốn hiểu được hiện tượng kỳ lạ trên, chúng ta cần duyệt sơ lại
lịch sử khoa học Tây phương cũng như tìm hiểu những sắc thái đặc biệt
của Phật giáo đối với khoa học.
Theo quan niệm của một số khá đông, nhất là ở Tây phương,
thì có vẻ như khoa-học và tôn giáo khó có thể tương hợp. Thật vậy, tôn
giáo Tây phương đặt căn bản trên niềm tin ở 1 đấng siêu nhiên toàn năng,
tác giả của mọi vật trên thế gian và có toàn quyền quyết định số
phận con người trong đời sau, dù rằng cho tới nay không có cách nào con
người có thể kiểm chứng được sự hiện hữu của một đấng toàn năng,
hoặc những ai đã được thưởng hay bị phạt, và thưởng phạt như thế
nào. Trái lại, khoa học đặt căn bản trên thực nghiệm, trực tiếp liên
hệ tới những vấn đề xã hội ngay trong đời này, và không chấp nhận
những sự việc có tính cách mơ hồ, viển vông, không phù hợp với đầu
óc ngày càng tiến bộ của con người.
Trong mấy thế kỷ gần đây, khoa-học phát triển nhanh
chóng và mạnh mẽ ở Tây phương, do đó Tây phương rất tự hào về nền
văn minh thường được biết là "nền văn minh Thiên Chúa Giáo Tây Phương"
(Western Christian Civilization), vì tôn giáo chính ở Tây phương là Thiên Chúa
Giáo, và vì những phát triển, tiến bộ ngoạn mục nhất của khoa học
và nhiều bộ môn khác cũng ở Tây phương. Nhưng ít người để ý đến sự
nhập nhằng kết hợp tôn giáo và khoa học làm một nền văn minh chung. Ít
người để ý đến sự kiện là khoa học tiến bộ và phát triển ở Tây
phương không phải vì niềm tin trong tôn giáo của các khoa học gia Tây phương,
mà chính là vì các khoa học gia đã phủ nhận niềm tin này, hay ít ra cũng
là lãnh đạm với niềm tin này. Thật vậy, lịch sử khoa học cho thấy
tôn giáo Tây phương, thường tự cho là văn minh tiến bộ, là khai phóng,
đã luôn luôn làm đủ mọi cách, trong phạm vi quyền lực thế gian, để
ngăn chặn những khả năng tự tại quý báu nhất của con người, thí dụ
như óc sáng tạo, tự do suy tư v...v..., những thành tố tất yếu của sự
phát triển khoa-học nói riêng, kiến thức con người nói chung. Trong khi đó,
Phật Giáo, thường bị xuyên tạc là một tôn giáo yếm thế, chậm tiến,
lại có rất nhiều điểm tương đồng với khoa học, luôn luôn hòa hợp,
cổ võ, và hỗ trợ những tiến bộ của khoa học, và ngày càng giữ một
vị thế thoải mái trong thời đại khoa học. Điều này không có gì là lạ,
vì căn bản tu tập trong Phật giáo cũng dựa trên thực nghiệm giống như
khoa học, và nếu ta để tâm tìm hiểu thì ta sẽ thấy trong nhiều bộ
môn, Phật Giáo đã tiến trước khoa học khá xa về tư tưởng và phương
pháp hành trì chứng nghiệm trực tiếp.
Hẳn nhiên trong một bài báo ngắn ngủi tôi không có cách
nào trình bày toàn vẹn tinh thần khoa học trong Phật Giáo cũng như không
thể đi vào tất cả các bộ môn mà tư tưởng Phật Giáo có thể coi như
là tiền phong cho những khám phá khoa học sau này. Cho nên sau đây tôi chỉ
đưa ra vài sự kiện so sánh giữa những khám phá của Phật Giáo hơn 2500
năm trước và những khám phá mới đây của khoa học chính xác, và tôi sẽ
tự hạn trong đề tài "Vũ Trụ Luận" trong Phật Giáo. Tôi sẽ chứng
tỏ để bạn đọc thấy nhiều khi Phật Giáo còn chính xác hơn và đầy
đủ hơn khoa học, và rằng một số tư tưởng Phật Giáo và phương pháp
trình bày các tư tưởng này đã đi trước khoa học nhiều thế kỷ.
Quan niệm của Phật Giáo về vũ trụ như sau: thế giới chúng
ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm vũ trụ.
Ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có rất nhiều thế giới khác, và
Phật giáo phân loại các thế giới thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế Giới,
Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới. Danh từ thế giới trong Phật
-giáo chỉ một thiên thể (thí dụ như trái đất) hoặc một tập hợp các
thiên thể được coi như thuộc một nhóm (thí dụ như thái-duơng-hệ mà
trái đất là một hành tinh trong đó). Vậy, một ngàn thế giới họp
thành một Tiểu Thiên Thế Giới, một ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp
thành một Trung Thiên Thế Giới, và một ngàn Trung Thiên Thế Giới họp
thành một Đại Thiên Thế Giới. Vậy, lấy đơn vị là một hệ thống tương
tự như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là thế giới thì Tiểu Thiên Thế
Giới gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung Thiên Thế Giới gồm khoảng
một triệu thế giới , Đại Thiên Thế Giới gồm khoảng một tỷ thế giới
v..v.. Đó là quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo từ hơn 2500 năm về
trước. Nhưng sau đó 22 thế kỷ, vào thế kỷ thế 17, Tây phương vẫn còn
chưa thoát khỏi quan niệm tối tăm về trời tròn đất vuông, trái đất
được coi là trung tâm vũ trụ, và rằng mặt trời quay xung quanh trái đất
như đã viết trong Thánh Kinh. Những khám phá mới, xác thực về vũ trụ của
các khoa học gia như Copernicus (các hành tinh quay xung quanh mặt trời) và
Galileo Galilei (trái đất quay xung quanh mặt trời), vì không phù hợp với
thánh kinh, nên đều bị quyền lực tôn giáo đương thời lên án. Vì trường
hợp của Galileo đã nói lên phần nào tinh thần tôn trọng sự thật và bất
khuất của các khoa học gia, và vì Galileo được coi như là người đã mở
một kỷ nguyên mới cho nền khoa-học tân tiến Tây phương, nên tôi nghĩ kể
lại vài dòng về trường hợp của ông cũng không phải là vô ích:
"Năm 1633, khi Galileo, dựa trên những dữ kiện khoa học
không thể phủ nhận, đoan quyết trong một cuốn sách khảo cứu thiên văn
của ông rằng: không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà chính
là trái đất quay xung quanh mặt trời, thì ông bị kéo ra trước tòa án dị
giáo của giáo hoàng Urban VIII, vốn là bạn của Galileo. Khi đó ông đã
già, gần chết. Giáo hoàng phán: "Trước khi chết, ngươì hãy sửa lại
điều trên vì nó ngược lại với thánh kinh. Bất cứ điều nào ngược với
thánh kinh đều đương nhiên sai lầm, vì thánh kinh là lời của Thượng Đế."
Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã 80 tuổi, sắp
chết, nhưng vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói:
"Không thành vấn đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi viết, tôi sẽ viết
lại trong sách của tôi đúng như lời Thượng Đế đã viết trong thánh
kinh - nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất. Nhưng có một điều tôi
cần trình ngài rõ: cả trái đất lẫn mặt trời đều không đọc sách của
tôi. Và sự thực thì, trái đất sẽ tiếp tục quay xung quanh mặt trời. Nếu
ngài nhất định muốn biết tại sao thì tôi có đầy đủ bằng chứng. Tôi
đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn đề này, và những người có
đầu óc khoa học đều tuyệt đối đồng ý với sự khám phá của tôi.
Trước sau gì rồi ngài cũng phải đồng ý vì không ai có thể chống lại
sự thực lâu dài."
(Galileo was a great scientist who, even at the age of eighty, when he
was dying, had such a beautiful sense of humor. He said: There is no problem. I will
change it; I will write in my book exactly what God has written in the bible - that the
sun goes around the earth. But one thing I must make clear to you: neither the sun reads
my book nor the earth reads my book. As far as reality is concerned, the earth will
continue going around the sun. And why should you insist? Because I have every proof; I
have devoted my whole life to the search, and all those who have a scientific mind are in
absolute agreement with me. Sooner or later you will have to agree because one cannot
remain against truth for long. "Priests and Politicians", Second revised
edition, Cologne, West Germany, p.27) "
Tuy vậy Galileo vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực
khoa học ông đã viết trong sách, bị kết án là "lạc đạo" và bị
biệt giam tại nhà cho đến khi ông chết, năm 1642. Nhưng lời tiên đoán của
ông đã thành sự thực, tuy hơi chậm. 359 năm sau, ngày 29 tháng 10 năm 1992,
giáo hoàng John Paul II, tuyên bố vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi
danh dự cho Galileo, sau khi một ủy ban gồm những bộ óc thượng thặng của
toà thánh nghiên cứu trong 13 năm về vấn đề Galileo. Trong dòng thời gian
vô tận, 359 năm cũng chẳng phải là lâu. Và, 13 năm dùng để nghiên cứu
một vấn đề mà đối với toàn thế giới đã rõ như ban ngày từ mấy
trăm năm nay cũng chẳng phải là điều phí phạm thì giờ, nhân lực và tiền
bạc một cách vô ích, lẽ dĩ nhiên, theo quan điểm của "tòa
Thánh" Vatican.
Trở lại quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo, chúng ta thấy
rằng quan niệm này hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức
ngày nay của những nhà thiên văn (astronomers) hay những nhà vật-lý-học về
thiên thể (astrophysicists), và đã đi trước khoa-học nhiều thế kỷ. Một
Tiểu Thiên Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một
thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có
sinh vật trên đó. Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao
(constellation) Andromeda. Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với một
chùm thiên hà (galactic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và một Đại
Thiên Thế Giới có thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là siêu thiên
hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng (Big Dipper) của Tiểu Ursa (Minor Ursa) trong
đó có ít ra là cả triệu thiên hà. Cho tới nay, vì những giới hạn tự
tại của những dụng cụ quan sát cho nên các khoa học gia chưa thể đi xa
hơn trong việc khảo sát vũ trụ. Nhưng không phải vì những giới hạn kỹ
thuật này mà vũ trụ cũng bị giới hạn theo, và nay chúng ta đã hiểu tại
sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu hạn hay
vô hạn. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận của
con người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng ngắc
không bao giờ thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện đại,
không có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến.
Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo thì chúng
ta không thể bỏ qua Kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu. Trong phẩm
này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới:
nhân duyên khởi, chỗ trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh,
thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt,
và môn vô sai biệt. Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ
ràng, sau đây tôi xin luận về hai điểm : hình trạng và kiếp trụ các thế
giới. Chúng ta hãy xét đoạn kinh văn sau đây:
Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng:
"Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng
sai khác, hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy....hoặc hình như hoa ... có
vi trần số hình sai khác như vậy."
Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ
Hiền Bồ Tát lại tuyên thuyết:
"Chư Phật tử! Tất cả thế giới chủng đó
hình trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình
xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe...hoặc hình hoa
sen...có vi trần số hình trạng như vậy." ("Kinh Hoa-Nghiêm",
Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản)
So sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải
thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa học ngày nay, trong bất cứ cuốn sách
nào về Vũ Trụ Học, chúng ta cũng thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng
của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ như các hình như bánh xe, nước
xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus, Pegasus và
Hercules; hình của Thiên hà NGC 2997 đúng như là hình nước xoáy; hình của
khối Tinh Vân Trifid trông giống như một bông hoa, lý do các khoa học gia đã
gọi hình này là "những cánh hoa của khối Tinh Vân Trifid"
("Petals" of the the Trifid Nebula); hình của Thiên hà Andromeda trông giống
như một cái đĩa; hình của chùm siêu sao mới (Supernova) SN 1987A trông giống
như một bánh xe có trục; hình sông là giải Ngân Hà (Milky Way) quen thuộc
mà Thái Dương Hệ của chúng ta nằm trong đó v..v… Thật tôi không thể tưởng
tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên văn, dù thô sơ nhất,
mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có những hiểu biết chính xác về
vũ trụ như trên. Nếu không phải vì đã giác ngộ hoàn toàn, nắm vững cơ
cấu huyền bí của vũ trụ, thì làm sao có thể biết được những điều
như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ là những điều đức Phật và các Bồ
Tát chọn để tuyên thuyết cho người đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm
lá trong tay so với số lá cây trong rừng.
Tiếp theo, về kiếp trụ của các thế giới, Kinh văn viết
rằng:
"Lúc đó Phổ Hiền Bồ-Tát lại bảo đại chúng rằng:
"Chư Phật tử! Nên biết thế giới hải có thế giới hải vi trần số
kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp trụ,
hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có vô đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ
kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ, hoặc có bất khả tư kiếp
trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất khả thuyết kiếp
trụ, ..có vi trần số kiếp trụ như vậy."
Rồi trong bài kệ để tuyên lại nghĩa này Bồ Tát Phổ Hiền
có giải thích bằng một câu: "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, Bởi
những tâm nguyện đều chẳng đồng." Chỉ một câu "bởi những
tâm nguyện đều chẳng đồng" cũng đã giải quyết vấn đề
"thiên sai vạn biệt" trong vũ trụ. Thật là đầy đủ, thật là rốt
ráo, thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu vào một chút trong đoạn kinh
văn trên, chúng ta sẽ thấy Phật Giáo đã đi trước khoa học như thế nào.
Phật giáo phân biệt: Tiểu Kiếp có 16 triệu 8 trăm ngàn năm,
Trung Kiếp có 336 triệu năm, và Đại Kiếp có 1 tỷ 344 triệu năm. Theo
khoa học hiện nay thì một ngôi sao (coi như là một thế giới) mà chất lượng
(mass) càng nặng thì đời sống của ngôi sao càng ngắn. Do đó có những
ngôi sao chỉ "sống" được từ 1 tới vài tỷ năm và người ta đã
tính được rằng một ngôi sao có chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao
trên khoảng 90 phần trăm thì ngôi sao này có thể sống tới hàng ngàn tỷ
năm. Điều này rất phù hợp với câu kệ trên của Phổ Hiền Bồ Tát,
có thế giới chỉ tồn tại một kiếp, có thế giới tồn tại vô số kiếp
v...v....
Thứ đến, những danh từ như a-tăng-kỳ, vô lượng, vô
biên,...bất khả thuyết có vẻ như mơ hồ và không rõ ràng như những con
số trong thời đại khoa học. Thật ra không phải vậy, vì trong phẩm A-Tăng-Kỳ,
Kinh Hoa Nghiêm ta đọc được như sau, tôi xin đánh số cho nó rõ ràng hơn:
- Phật nói: Này thiện nam tử!
- 1. Một trăm Lạc Xoa làm một Câu Chi.
- 2. Câu Chi lần Câu Chi làm một A-Giu-Đa
- 3. A-giu-Đa lần A-Giu-Đa làm một Na-Do-Tha
- 4. Na-Do-Tha lần Na-Do-Tha làm một Tần-Bà-La
và tiếp tục như vậy tất cả là 123 lần, trong đó số
104 là A-Tăng-Kỳ, số 106 là Vô Lượng, số 108 là Vô Biên, số 110 là Vô
Đẳng, số 112 là Bất-Khả-Sổ, số 114 là Bất-Khả-Xưng, số 116 là Bất-Khả-Tư,
số 118 là Bất-Khả-Lượng, và số 120 là Bất-Khả-Thuyết.
Chúng ta biết rằng khoa học ngày nay dùng ký hiệu lũy thừa
để viết những con số lớn. Thí dụ như 1 triệu là con số 1 với 6 con số
0 đằng sau, 1 000 000, theo ký hiệu điện toán được viết như sau: 10^6 và
đọc là 10 lũy thừa 6; 1 tỷ gồm có 9 số 0 và được viết là 10^9
(billion), lớn hơn nữa là 10^12 (1 ngàn tỷ hay trillion), 10^15 (1 triệu tỷ
hay zillion) và khoa học chưa có những danh từ riêng để chỉ những con số
lớn hơn. Tiếng Việt thì chỉ tới số tỷ là cao nhất.
Theo Kinh Phật thì 1 Lạc Xoa là 100 ngàn, nghĩa là 10^5. Như
vậy 1 Câu Chi là 10 triệu, nghĩa là 10^7; 1 A-Giu-Đa là 100 ngàn tỷ, nghĩa là
10^14; 1 Na-Do-Tha là 10 tỷ tỷ tỷ, nghĩa là 10^28. Tiếp tục tính ra ta sẽ
thấy 1 A-Tăng-Kỳ là khoảng, nếu chỉ lấy 9 số lẻ, 10^(7.098843361 x
10^31), nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi hơn 7000 tỷ tỷ tỷ con số 0 ở đằng
sau, một con số vô cùng lớn nhưng vẫn có một tên riêng. Chúng ta có thể
suy ra: Vô Lượng = 10^(2.839537344… x 10^32), Vô Biên = 10^(1.135814938… x
10^33),...và Bất-Khả-Thuyết = 10^(4.652297985… x 10^36) nghĩa là con số 1 tiếp
theo bởi khoảng hơn 4 tỷ tỷ tỷ tỷ con số 0 đứng đằng sau.
Những con số khoa học hiện đại dùng tới có lẽ chỉ
vào khoảng 10^40 nghĩa là chỉ có 40 con số 0 đứng sau. Chúng ta thấy ngay
rằng, ngay cả về phương diện toán số, Phật giáo đã đi trước khoa học
khá xa về sự biểu thị chính xác những con số và đã có quan niệm về
những con số vô cùng lớn, lớn ngoài mức tưởng tượng của các khoa học
gia hiện đại.
Trên đây tôi đã trình bày sơ lược, sơ lược vì còn rất
nhiều chi tiết tôi chưa nói tới, những sự tương đồng giữa Phật Giáo
và khoa học hiện đại trong một số quan niệm về vũ trụ, và chứng tỏ
rằng những tư tưởng Phật Giáo đã đi trước khoa học nhiều thế kỷ,
và rằng Phật giáo cũng vô cùng chính xác trong một số nhận định.
Nhưng Phật Giáo không phải chỉ có những tương đồng với khoa học trong
bộ môn thiên văn như vừa trình bày ở trên, hay với môn Vật lý các hạt
nhỏ (particle physics) như đã trình bày trong cuốn The Tao of Physics của
Fritjoff Capra, mà còn nhiều tương đồng khác trong các bộ môn như sinh học
(bioscience), vật lý hạt nhân (nuclear physics), triết lý khoa học (philosophy
of science), tâm lý học (psychology), phân tâm học hay tâm lý trị liệu
(psychotherapy), di truyền học (genetics) v...v..., và nếu khảo sát kỹ thì
trong bộ môn nào, tư tưởng Phật Giáo cũng đi trước khoa học khá xa. Cũng
vì vậy mà những bộ óc khai phóng, tiến bộ nhất của nhân loại hiện
nay càng ngày càng phải tìm về những chất liệu trong Phật Giáo với hi vọng
giải quyết những bí tắc trong việc mở mang kiến thức loài người. Ngoài
ra, cái tinh thần từ bi hỉ xả và bản chất khoan dung của Phật giáo cũng
lần lần đi vào đầu óc của những con người tiến bộ trong thời đại
khoa học.
Để kết luận, tôi xin mượn lời của luận gia Gerald Du
Pré như sau:
"Trong thế kỷ này, đã có nhiều công cuộc hòa
hợp tôn giáo trên thế giới, với mục đích đáng tán thưởng là tìm ra
những điểm chung giữa các tôn giáo, và cổ súy tinh thần khoan dung giữa
các tôn giáo. Tuy nhiên, điều này không làm cho tôn giáo sống lại, vì những
thứ mà hầu hết những tôn giáo (độc thần) cùng có là lòng tin, giáo
điều, thánh kinh và các thần tính, tất cả những thứ này làm cho các
tôn giáo đó không tương hợp với khoa học. Phật giáo (cùng với Lão
giáo) là một biệt lệ, vì Phật giáo không phải là một tín giáo, không
có giáo điều cứng ngắc, không có thần quyền và không chấp nhận hiệu
lực cứu rỗi của bất cứ ai khác.
Tôi không tin rằng chúng ta nên tìm cách hợp nhất Phật
giáo với các tôn giáo khác. Điều này chỉ đưa đến sự lẫn lộn. Chúng
ta hãy cố gắng tranh đấu để hợp nhất Phật giáo và khoa học, để tạo
nên một tôn giáo khoa học cho thế giới hiện đại. Khoa học Phật giáo sẽ
làm tan biến sự hoang mang, bối rối bằng cách làm sáng tỏ và hợp nhất
lý thuyết và phương pháp hành trì Phật Giáo để làm một căn bản giác
ngộ vững chắc, hữu hiệu cho người Tây phương."
(During this century, a great deal of work has been done for
uniting the religions of the world, with the praiseworthy object of discovering what they
have in common, and for promoting tolerance among them. However, this has not lead to a
revival of religion, because what most religions have in common is faith, dogma, divine
scriptures and deities, all of which make them incompatible with science. Buddhism (along
with Taoism) is the great exception to this, for it is not a faith, has no dogma or divine
authority of its own and does not accept the validity of anyone else's.
- I don't believe that we should be trying to unite Buddhism with other religions. This
only leads to confusion. Instead, we should be striving to unite Buddhism and science, so
as to produce a religion of science for our modern world. Scientific Buddhism will dispel
confusion by clarifying and unifying Buddhist practice and theory and making it an
effective stepping-stone to enlightenment for Westerners."
- ("Scientific Buddhism" by Gerald Du Pré, in "Buddhism and
Science", Edited by Buddhadasa P. Kirthisinghe, New Delhi, India, 1984).
http://www.bu
ddhismtoday.com/viet/kh/003-vutru.htm