Trong thời đại khoa học, khi
mà những tiến bộ khoa học đã làm lui đi phần nào quan niệm thần thánh
và những mớ huyền thoại, mê tín dị đoan của con người, thì càng ngày
Phật giáo càng chứng tỏ là một tôn giáo, từ cấu trúc, tư tưởng trong
các Kinh điển cho tới phương pháp hành trì, rất là tương hợp với khoa
học. Ngày nay, Phật giáo đã đi vào thế giới Tây phương một cách nhẹ
nhàng, cởi mở và hòa đồng. Cho nên thế giới Tây phương càng ngày càng
hâm mộ Phật giáo về những sắc thái tiến bộ của Phật giáo, và những
khoa học gia thượng thặng ngày nay cũng đã nhận ra rằng tư tưởng Phật
giáo đã giúp họ rất nhiều trong việc giải thích những hiện tượng
khoa học và dẫn họ đến những tư tưởng mới và khám phá mới trong
khoa học. Muốn hiểu được hiện tượng kỳ lạ trên, chúng ta cần duyệt
sơ lại lịch sử khoa học Tây phương cũng như tìm hiểu những sắc thái
đặc biệt của Phật giáo đối với khoa học.
Theo quan niệm của một số khá đông, nhất là ở Tây phương,
thì có vẻ khoa học và tôn giáo khó có thể tương hợp. Thật vậy, tôn
giáo Tây phương đặt căn bản trên niềm tin ở một đấng siêu nhiên vạn
năng, tác giả của mọi vật trên thế gian và có toàn quyền quyết định
số phận con người trong đời sau, dù rằng cho tới nay không có cách nào
con người có thể kiểm chứng được sự hiện hữu của một đấng toàn
năng, hoặc những ai đã được thưởng hay bị phạt, và thưởng phạt
như thế nào. Trái lại, khoa học đặt căn bản trên thực nghiệm, trực
tiếp liên hệ tới những vấn đề xã hội ngay trong đời nay, và không chấp
nhận những sự việc có tính cách mơ hồ, viễn vông, không phù hợp với
đầu óc ngày càng tiến bộ của con người.
Trong mấy thế kỷ gần đây, khoa học phát triển nhanh
chóng và mạnh mẽ ở Tây phương, do đó Tây phương rất tự hào về nền
văn minh thường được biết là "nền văn minh Thiên Chúa giáo Tây
phương" (Western Christian Civilization), vì tôn giáo chính ở Tây phương
là Thiên Chúa giáo, và vì những phát triển, tiến bộ ngoạn mục nhất của
khoa học và nhiều bộ môn khác cũng ở Tây phương. Nhưng ít người để
ý đến sự nhập nhằng kết hợp tôn giáo và khoa học làm một nền văn
minh chung. Ít người để ý sự kiện khoa học tiến bộ và phát triển ở
Tây phương không phải vì niềm tin trong tôn giáo của các khoa học gia Tây
phương, mà chính là vì các khoa học gia đã phủ nhận niềm tin này, hay
ít ra cũng là lãnh đạm với niềm tin này. Thật vậy, lịch sử khoa học
cho thấy tôn giáo Tây phương, thường tự cho là văn minh tiến bộ, là
khai phóng, đã luôn luôn làm đủ mọi cách, trong phạm vi quyền lực thế
gian, để ngăn ngừa những khả năng tự tại quý báu nhất của con người,
thí dụ như óc sáng tạo, tự do suy tư v.v..., những thành tố tất yếu của
sự phát triển khoa học nói riêng, kiến thức con người nói chung. Trong
khi đó, Phật giáo, thường bị xuyên tạc là một tôn giáo yếm thế, chậm
tiến, lại có rất nhiều điểm tương đồng với khoa học, luôn luôn hòa
hợp, cổ võ, và hỗ trợ những tiến bộ của khoa học, và ngày càng giữ
một vị thế thoải mái trong thời đại khoa học. Điều này không có gì
là lạ, vì căn bản tu tập trong Phật giáo cũng dựa trên thực nghiệm giống
như khoa học, và nếu ta để tâm tìm hiểu thì ta sẽ thấy, và phải nói
rằng trong nhiều bộ môn, Phật giáo đã tiến trước khoa học khá xa về
tư tưởng và phương pháp hành trì chứng nghiệm trực tiếp.
Hẳn nhiên trong một bài báo ngằn ngủi tôi không có cách
nào trình bày toàn vẹn tinh thần khoa học trong Phật giáo cũng như không
thể đi vào tất cả các bộ môn mà tư tưởng Phật giáo có thể coi như
là tiền phong cho những khám phá khoa học sau này. Cho nên sau đây tôi chỉ
đưa ra vài sự kiện so sánh giữa những khám phá của Phật giáo hơn 2500
năm trước và những khám phá mới đây của khoa học chính xác, và tôi sẽ
tự hạn trong đề tài "Vũ Trụ Luận" trong Phật giáo. Tôi sẽ
chứng tỏ cho bạn đọc thấy nhiều khi Phật giáo còn chính xác và đầy
đủ hơn khoa học, và rằng một tư tưởng Phật giáo và phương pháp
trình bày các tư tưởng này đã đi trước khoa học nhiều thế kỷ.
Quan niệm của Phật giáo về vũ trụ như sau : thế giới
chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm
vũ trụ. Ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có rất nhiều thế giới
khác, và Phật giáo phân loại các thế giới thành 3 loại : Tiểu Thiên Thế
Giới, Trung Thiên Thế Giới và Đại Thiên Thế Giới. Danh từ Thế Giới
trong Phật giáo chỉ một thiên thể (thí dụ như trái đất) hoặc một tập
hợp các thiên thể được coi như thuộc một nhóm (thí dụ thái dương hệ
mà trái đất là một hành tinh trong đó). Vậy, một ngàn thế giới họp
thành một Tiểu Thiên Thế Giới, một ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp
thành một Trung Thiên Thế Giới, và một ngàn Trung Thiên Thế Giới họp
thành một Đại Thiên Thế Giới. Như thế, lấy đơn vị là một hệ thống
tương tự như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là thế giới thì Tiểu
Thiên Thế Giới gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung Thiên Thế Giới
gồm khoảng một triệu thế giới, Đại Thiên Thế Giới gồm khoảng một
tỷ thế giới v.v... Đó là quan niệm về vũ trụ của Phật giáo từ hơn
2500 năm về trước. Nhưng sau đó hai mươi hai thế kỷ, vào thế kỷ thứ
mười bảy, Tây phương vẫn còn chưa thoát khỏi quan niệm tối tăm về trời
tròn đất vuông, trái đất được coi là trung tâm vũ trụ, và rằng mặt
trời quay xunh quanh trái đất như đã viết trong Thánh Kinh. Những khám phá
mới, xác thực về vũ trụ của các khoa học gia như Copernicus (các hành
tinh quay xung quanh mặt trời) và Galileo (trái đất quan xung quanh mặt trời)
đều bị quyền lực tôn giáo đương thời lên án, vì không phù hợp với
Thánh Kinh. Vì trường hợp của Galileo đã nói lên phần nào tinh thần tôn
trọng sự thất và bất khuất của các khoa học gia, và vì Galileo được
coi như là người mở một kỷ nguyên mới cho nền khoa học tân tiến Tây
phương, nên tôi nghĩ kể lại vài dòng về trường hợp của ông cũng không
phải là vô ích :
"Năm 1633, dựa trên những dữ kiện khoa học không thể
phủ nhận, đoan quyết trong một cuốn sách khảo cứu thiên văn của ông
(Galileo) rằng : không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà chính
là trái đất quay xung quanh mặt trời, thì ông bị kéo ra trước tòa án dị
giáo của Giáo hoàng Urban VIII. Khi đó ông đã già, gần chết, người hãy
sửa lại điều trên vì nó ngược lại với Thánh Kinh. Bất cứ điều nào
ngược lại với Thánh Kinh đều đương nhiên sai lầm, vì Thánh Kinh là lời
của Thượng Đế".
Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã tám mươi tuổi,
sắp chết, nhưng vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói :
"Không thành vấn đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi viết,
tôi sẽ viết lại trong sách của tôi đúng như lời Thượng Đế đã viết
trong Thánh Kinh -- nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất. Nhưng có một
điều tôi cần trình ngài rõ : cả trái đất lẫn mặt trời đều không
đọc sách của tôi. Và sự thực thì, trái đất sẽ tiếp tục quay xunh
quanh mặt trời. Nếu ngài nhất định muốn biết tại sao thì tôi có đầy
đủ bằng chứng. Tôi đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn đề này,
và những người có đầu óc khoa học đều tuyệt đối đồng ý với sự
khám phá của tôi. Trước sau gì rồi ngài cũng phải đồng ý vì không ai
có thể chống lại sự thực lâu dài".
(Galileo was a great scientist who, even at the age of eighty, when he
was dying, had such a beautiful sense of humor. He said : There is no problem. I will
change it; I will write in my book exactly what God has written in the bible -- that the
sun goes around the earth. But one thing I must make clear to you : neither the sun reads
my book. As far as reality is concerned, the earth will continue going atound the sun. And
why should you insist ? Because I have every proof; I have devoted my whole life to the
search, and all those who have a scientific mind in absolute agreement with me. Sooner or
later you will have to agree because one cannot remain against truth for long. Priests and
Politicians, Second revised edition, Cologne, West Germany, p. 27).
Tuy vậy Galileo vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực
khoa học ông đã viết trong sách, bị kết án là "lạc đạo" và bị
biệt giam tại nhà cho đến khi ông chết năm 1642. Nhưng lời tiên đoán của
ông đã thành sự thực, tuy hơi chậm. Ba trăm năm mươi chín năm sau, ngày
hai mươi chín tháng mươi năm 1992, Giáo hoàng John Paul II, tuyên bố vụ án
Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự cho Galileo, sau khi một ủy ban
gồm những bộ óc thượng thặng của tòa thánh nghiên cứu trong mười ba
năm về vấn đề Galileo. Trong dòng thời gian vô tận, ba trăm năm mươi chín
năm cũng chẳng phải là lâu. Và, mười ba năm dùng để nghiên cứu một vấn
đề mà đối với toàn thế giới đã rõ như ban ngày từ mấy trăm năm
nay cũng chẳng phải la điều vô ích.
Trở lại quan niệm về vũ trụ của Phật giáo, chúng ta thấy
rằng quan niệm này hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức
ngày nay của những nhà thiên văn (astronomers) hay những nhà vật lý học về
thiên thể (astrophysicists), và đã đi trước khoa học nhiều thế kỷ. Một
Tiểu Thiên Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một
thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có
sinh vật trên đó. Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao
(consteliation Andromeda). Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với một
chùm thiên hà (galactic cluster) thí dụ như chùm Goma Berenices, và một Đại
Thiên Thế Giới có thể so sánh, với cái mà Hannes Alfven gọi là siêu
thiên hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng (Big Dipper) của Tiểu Ursa (Minor Ursa)
trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà. Cho tới nay, vì những giới hạn
tự tại của những dụng cụ quan sát cho nên các khoa học gia chưa thể
đi xa hơn trong việc khảo sát vũ trụ. Nhưng không phải vì những giới hạn
theo, và nay chúng ta đã hiểu tạo sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ"
quan niệm về vũ trụ hữu hạn hay vô hạn. Điều này chứng tỏ Đức Phật
đã thấy rõ khả năng vô tận của con người khả năng vô tận của con
người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng nhắc không
bao giờ thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện đại, không
có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến.
Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật giáo thì chúng
không thể bỏ qua Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu. Trong phẩm
này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới
: nhân duyên khởi, chỗ trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm
tánh, thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai
biệt, và môn vô sai biệt. Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được
rõ ràng, sau đây tôi xin luận về hai điểm : hình trạng và kiếp trụ
các thế giới. Chúng ta hãy xét đoạn kinh văn sau đây :
"Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng
: "Chư Phật tử ! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc
tròn... hoặc hình như nước xoáy... hoặc hình như hoa... có vi trần số
hình sai khác như vậy".
Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ
Hiền Bồ Tát lại tuyên thuyết :
"Chư Phật tử ! Tất cả thế giới chủng đó hình trạng
đều khác nhau : hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục
xe... hoặc hình hoa sen... có vi trần số hình trạng như vậy" (Kinh Hoa
Nghiêm, Thích Trí Tịnh dịch, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản).
So sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải
thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa học ngày nay chúng ta thấy Phật Giáo
đã mô tả hình trạng của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ như
các hình như bánh xe, nước xoáy, chúng ta có thể quan sát được trong các
chòm sao như Cetus, Pegasus và Hercules, hình sông là giải ngân hà (Milky Way)
và nhiều thiên hà khác, hình dạng như hoa là những khối tinh vân trong khoảng
không gian liên-thiên-hà (intergalactic clounds of gas) có chứa hàng tỷ ngôi
sao v.v... Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề
có kính thiên văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã
có những hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên. Nếu không phải vì
đã giác ngộ hoàn toàn, nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, thì
làm sao có thể biết được những điều như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ
là những điều Đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết cho người
đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong
rừng.
Tiếp theo, về kiếp trụ của các thế giới, Kinh văn viết
rằng :
"Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng
: "Chư Phật tử ! Nên biết thế giới hải có thế giới hải vi trần
số kiếp trụ, hoặc có a tăng kỳ kiếp trụ, hoặc có vô lượng kiếp trụ,
hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có vô đẳng kiếp trụ, hoặc có bất
khả sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ, hoặc có bất khả
tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất khả
khuyết kiếp trụ... có vi trần số kiếp trụ như vậy".
Rồi trong bài kệ để tuyên lại nghĩa này, Bồ Tát Phổ
Hiền có giải thích bằng một câu : "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô
số, bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng". Chỉ một câu :Bởi
những tâm nguyện đều chẳng đồng" cũng đã giải quyết vấn đề
"thiên sai vạn biệt" trong vũ trụ. Thật là đầy đủ, thật
la rốt ráo, thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu vào một chút trong đoạn
kinh văn trên, chúng ta sẽ thấy Phật Giáo đã đi trước khoa học như thế
nào.
Phật Giáo phân biệt : Tiểu Kiếp có 16 triệu tám trăm ngàn
năm, Trung Kiếp có 336 triện năm, và Đại Kiếp có một tỷ 344 triệu năm.
Theo khoa học hiện nay thì một ngôi sao (coi như là một thế giới) mà chất
lượng (mass) càng nặng thì đời sống của ngôi sao chỉ "sống"
được từ một tới vài tỷ năm và người ra đã tính được rằng một
ngôi sao có chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao trên khoảng chín mươi phần
trăm thì ngôi sao này có thể sống tới ngàn tỷ năm. Điều nay rất phù hợp
với câu kệ trên của Phổ Hiền Bồ Tát, có thế giới chỉ tồn tại một
kiếp, có thế giới tồn tại vô số kiếp v.v...
Thứ đến, những danh từ như a tăng kỳ, vô lượng, vô
biên... bất khả thuyết có vẻ như mơ hồ và không rõ ràng như những con
số trong thời đại khoa học. Thật ra không phải vậy, vì trong phẩm A Tăng
Kỳ, Kinh Hoa Nghiêm, ta đọc được như sau, tôi xin đánh số cho rõ ràng hơn
:
"Phật nói: Này thiện nam tử !
1. Một trăm Lạc Xoa làm một Câu Chi.
2. Câu Chi lần Câu Chi làm một A Giu Đa
3. A Giu Đa lần A Giu Đa làm một Na Do Tha.
4. Na Do Tha lần Na Do Tha làm một Tần Bà La.
và tiếp tục như vậy tất cả là 123 lần, trong đó số 10 là A Tăng Kỳ,
số 106 và Số Lượng, số 108 là Vô Biên, số 110 là Vô Đẳng, số 112 là
Bất Khả Sổ, số 114 là Bất Khả Xưng, số 116 là Bất Khả Tư, số 118 là
Bất Khả Lượng, và số 120 là Bất Khả Thuyết".
Chúng ta biết rằng khoa học ngày nay dùng ký hiệu thừa để
viết những con số lớn. Thí dụ như một triệu là con số 1 với 6 con số
0 đằng sau, 1.000.000, theo ký hiệu điện toán được viết như sau : 10^6 và
đọc là 10 lũy thừa 6; 1 tỷ gồm có số 1 và 9 số 0 được viết là 10^9
(billion), lớn hơn nữa là 10^12 (1 ngàn tỷ hay trillion), 10^15 (1 triệu tỷ
hay zillion) và khoa học chưa có những danh từ riêng để chỉ những con số
lớn hơn. Tiếng Việt thì chỉ tới số tỷ là cao nhất.
Theo Kinh Phật thì Lạc Xoa là 100 ngàn, nghĩa là 10^5. Như vậy
1 Câu Chi là 10 triệu, nghĩa là 10^7; 1 A Giu Đa là 100 ngàn tỷ, nghĩa là 100
ngàn tỷ, nghĩa là 10^14; 1 Na Do Tha là 10 tỷ tỷ tỷ, nghĩa là 10^28. Tiếp
tục tính ra ta sẽ thấy 1 A Tăng Kỳ là khoảng, nếu chỉ lấy 9 số lẻ,
10^(7.098843361 x 10^31), nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi hơn 7000 tỷ tỷ tỷ
con số 0 ở đằng sau, một con số vô cùng lớn nhưng vẫn có một tên
riêng. Chúng ta có thể suy ra :
- Vô Lượng = 10^(2.83953734 x 10^32)
- Vô Biên = 10^(1.13581938 x 10^33), và
- Bất Khả Thuyết = 10^(4.652297985 x 10^320, nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi
khoảng hơn 4 tỷ tỷ tỷ con số 0 đứng đằng sau.
Những con số khoa học hiện đại dùng tới có lẽ chỉ
vào khoảng 10^40 nghĩa là chỉ có 40 con số 0 đứng sau. Chúng ta thấy ngay
rằng, ngay cả về phương diện toán số, Phật Giáo đã đi trước khoa học
khá xa về sự biểu thị chính xác những con số và đã có quan niệm về
những con số vô cùng lớn, lớn ngoài mức tưởng tượng của các khoa học
gia hiện đại.
Trên đây tôi đã trình bày sơ lược, sơ lược vì còn rất
nhiều chi tiết tôi chưa nói tới, những sự tương đồng giữa Phật Giáo
và khoa học hiện đại trong một số quan niệm về vũ trụ, và chứng tỏ
rằng những tư tưởng Phật Giáo đi trước khoa học nhiều thế kỷ, và rằng
Phật Giáo cũng vô cùng chính xác trong một số nhận định. Nhưng Phật Giáo
không phải chỉ có những tương đồng với khoa học trong bộ môn thiên văn
như vừa trình bày ở trên, hay với môn Vật lý các hạt nhỏ (particle
physics) như đã trình bày trong cuốn The Tao of Physics của Fritjoff Capra, mà
còn nhiều tương đồng khác trong các bộ môn như sinh học (bioscience), vạt
lý hạt nhân (nuclear physics), triết lý khoa học (philosophy of science), tâm
lý học (psychotherapy). di truyền học (genetics) v.v... và nếu khảo sát kỷ
thì trong bộ môn nào, tư tưởng Phật Giáo cũng đi trước khoa học khá
xa. Cũng vì vậy mà những bộ óc khai phóng, tiến bộ nhất của nhân loại
hiện nay càng ngày càng phải tìm về những chất liệu trong Phật Giáo với
hy vọng giải quyết những bí tắc trong việc mở mang kiến thức loài người.
Ngoài ra, cái tinh thần tư bi hỷ xả và bản chất khoan dung của Phật
Giáo cũng lần lần đi vào đầu óc của những con người tiến bộ trong
thời đại khoa học.
Để kết luận, tôi xin mượn lời của luận gia Gerald Du
Pré như sau :
"Trong thế kỷ này, đã có nhiều công cuộc hòa hợp
tôn giáo trên thế giới, với mục đích đáng tán thưởng là tìm ra những
điểm chung giữa các tôn giáo, và cổ úy tinh thần khoan dung giữa các tôn
giáo. Tuy nhiên, điều này không làm cho tôn giáo sống lại, vì những thứ
mà hầu hết những tôn giáo cùng có là lòng tin, giáo điều, thánh kinh và
các thần tính, tất cả những thứ này làm cho các tôn giáo đó không tương
hợp với khoa học. Phật Giáo (cùng với Lão Giáo) là một biệt lệ, vì
Phật Giáo không phải là một tín giáo, không có giáo điều cứng nhắc,
không có thần quyền và không chấp nhận hiệu lực của bất cứ ai khác.
Tôi không tin rằng chúng ta nên tìm cách hợp nhất Phật Giáo với các tôn
giáo khác. Điều này chỉ dẫn đến sự lẫn lộn. Chúng ta hãy cố gắng
tranh đấu để hợp nhất Phật Giáo và khoa học, để tạo nên một tôn
giáo khoa học cho thế giới hiện đại. Khoa học Phật Giáo sẽ lam tan biến
sự hoang mang, bối rối bằng cách làm sáng tỏ và hợp nhất lý thuyết
và phương pháp hành trì Phật Giáo để làm một căn bản giác ngộ vững
chắc, hữu hiệu cho người Tây phương".
(During this century, a great deal of works has been done for uniting
the religions of the world, with the praiseworthy object of discovering what they have in
common, and for promoting tolerance among them. However, this has not lead to a revival of
religion, because what most religions have in common is faith, dogma, divine scriptures
and deities, all of which make them incompatible with science. Buddhism (along with
Taoism) is the great exception to this, for it is not a faith, has no dogma or divine
authority of its own adn doee not accept the validity of anyone else's.
I don't believe that we should be trying to unite Buddhism with other
religions. This only leads to confusion. Instead, we should be striving to unite Buddhism
and science, so as to produce a religion of science for our modern world. Science Budhhism
will dispell confusion by clarifying and unifying Buddhist practice and theory and making
it an effective stepping-stone to enlightenment for Westerners" (Scientific Budhhism
by Gerald Du Pré, in "Buddhism and Science", Edited by Buddhadasa P.
Kirthisinghe, New Delhi, India, 1984).