- PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC
Mãi cho đến đầu thế kỷ vừa
qua, Phật giáo bị giới hạn trong những nước mà khoa học hiện đại
chưa phổ biến. Tuy nhiên, từ thuở ban sơ giáo lý Đức Phật luôn luôn mở
rộng tư tưởng khoa học.
Một lý do tại sao lời dạy của
Đức Phật dễ dàng được chấp nhận bởi tinh thần khoa học là vì Đức
Phật không bao giờ khuyến khích niềm tin giáo điều cứng nhắc. Ngài
không tuyên bố giáo lý của Ngài dựa trên niềm tin, tín thành nhưng cho phép
sự uyển chuyển linh hoạt và tự do tư tưởng.
Lý do thứ hai là tinh thần khoa học
được tìm thấy trong thế giới quan của Phật giáo. Phương thức của Đức
Phật đối với việc khám phá và chứng nghiệm chân lý thì rất giống với
những sự khám phá của các nhà khoa học. Nhà khoa học quan sát thế giới
bên ngoài một cách khách quan và chỉ đưa ra học thuyết khoa học sau khi
đã kiểm chứng các thí nghiệm thực tiển.
Cách đây hơn 25 thế kỷ, Đức Phật
đã vận dụng phương thức tương tự khoa học quán sát thế giới nội tại
bằng sự suy xét vô tư khách quan và khuyến khích các đệ tử của Ngài
đừng chấp nhận bất cứ điều gì cho đến khi nào họ đã thực sự
nghiên cứu và xác chứng tính thực tại của nó.
Giống như các nhà khoa học ngày
nay không thể tuyên bố thực nghiệm của mình mà không thể thừa hưởng
kinh nghiệm từ những người khác, Đức Phật không tuyên bố rằng sự chứng
đắc giác ngộ là chỉ độc quyền dành riêng cho Ngài. Do đó, trong sự tiếp
cận chân lý, Đức Phật đã có sự phân tích giống như các nhà khoa học
ngày nay. Ngài đã thiết lập phương thức khoa học thực tiển cho việc đạt
đến chân lý tối hậu và thực nghiệm giác ngộ.
Phật giáo rất gần gũi với tinh
thần khoa học, nhưng sẽ không đúng nếu cho rằng Phật giáo thì ngang
hàng với khoa học. Sự thật rằng các ứng dụng thực tiển của khoa học
có khả năng làm cho đời sống con người tiện nghi hơn và hưởng thụ
hơn những điều trước đây chưa từng có. Khoa học đã làm cho con người
bơi giỏi hơn cá, bay cao hơn chim và đi bộ trên mặt trăng. Tuy nhiên, phạm
vi kiến thức chấp nhận trí tuệ khoa học ước lệ thì còn hạn chế
trong các chứng minh thực tế. Và chân lý khoa học chịu sự biến đổi liên
tục. Khoa học không thể giúp con người chế ngự tâm mình và cũng không
đưa đến sự kiểm soát đạo đức và mục đích của cuộc sống. Mặc
dù, khoa học có những sự kỳ diệu của nó, nhưng khoa học vẫn có nhiều
mặt hạn chế mà ở đó Phật giáo đã vượt qua.
- CÁC MẶT HẠN CHẾ CỦA KHOA HỌC
Thường thì người ta nghe quá
nhiều về khoa học và về những gì khoa học có thể làm được nhưng ít
biết được những gì mà khoa học chưa hoặc không làm được. Kiến thức
khoa học bị giới hạn bởi những thông tin nhận được ngang qua các giác
quan. Nó không thể nhận thức chính xác những điều vượt quá giới hạn
của giác quan. Chân lý khoa học được xây dựng trên các quan sát lo-gíc của
các dữ kiện thuộc giác quan mà nó đang biến đổi liên tục. Do đó,
chân lý khoa học là chân lý tương đối không có bền vững trước thách
thức của thời gian và vì nhà khoa học đã nhận biết được sự thật này,
nên luôn luôn sẳn lòng loại bỏ một học thuyết nếu như nó có thể
được thay thế bởi một học thuyết khác tốt hơn.
Khoa học nỗ lực tìm hiểu thế giới
bên ngoài và đã bới tìm bề mặt thế giới nội tại con người. Ngay cả
khoa học về tâm lý cũng không thật sự tìm hiểu hết nguyên nhân sâu xa
của các trạng thái bất an của con người. Khi con người nản lòng, chán
ghét cuộc sống và thế giới nội tâm bị tràn ngập bởi xáo trộn và bất
an, thì khoa học ngày nay không có nhiều phương tiện để giúp đỡ con
người. Đối với môi trường sống xung quanh của con người, khoa học xã
hội có thể cung ứng một mức độ hạnh phúc nhất định nào đó. Nhưng
không giống như loài vật, con người đòi hỏi nhiều hơn sự tiện nghi thân
thể và các nhu cầu giúp đối phó với khổ đau và xáo trộn nảy sinh từ
thực tế hằng ngày.
Ngày nay có quá nhiều người bị sợ
hãi, bất an và cảm thấy không an ổn. Tuy nhiên, khoa học không thể giúp
họ được, khoa học không thể giúp chúng ta chế ngự tâm mình khi mà bản
năng đầy thú tính bất chợt nổi lên và đốt cháy trong tâm.
Khoa học có thể làm cho con người
tốt hơn không? Nếu có, tại sao các hành động khủng bố và các hành vi
phi đạo đức đầy dẫy trong các quốc gia mà các quốc gia đó có nền
khoa học tiên tiến? Thật ra không công bằng để nói rằng mặc dù các tiến
bộ khoa học đã đạt được và có các lợi thế ban cho con người, khoa học
vẫn chưa có thể biến đổi nền tảng nội tâm con người mà khoa học chỉ
làm tăng thêm cảm giác của con người về sự phụ thuộc và cảm thấy
thiếu thốn? Thêm vào đó, khoa học thất bại trong việc đem sự an toàn
đến cho mọi người. Khoa học cũng khiến cho mọi người cảm thấy rất
bấp bênh bởi sự đe dọa thế giới có khả năng bị hủy diệt con người
trên quy mô lớn. Khoa học không thể cung cấp đầy đủ ý nghĩa của cuộc
đời, không thể cung cấp cho con người các lý do rõ ràng chính xác về cuộc
sống. Thật tế khoa học là thế tục hoàn toàn trong bản chất và không
có liên quan tới mục đích tâm linh của con người. Chủ nghĩa vật chất
vốn có tư tưởng khoa học đã chối bỏ các mục tiêu tâm lý cao hơn mục
tiêu thõa mãn vật chất. Bằng những lý thuyết có chọn lọc và các chân
lý tương đối, khoa học coi thường các vấn đề cốt lõi nhất và để
lại nhiều câu hỏi không thể trả lời được. Ví dụ, khi được hỏi về
sự khác nhau giữa tâm hồn và thể xác tồn tại trong con người thì
không một sự giải thích khoa học nào có thể đưa ra đối với vấn đề
như vậy. Vì vấn đề đó vượt qua các giới hạn chật hẹp của khoa học.
- NHẬN BIẾT CÁI KHÔNG BIẾT
Tâm siêu việt được Đức Phật
phát triển thì không bị giới hạn bởi các thông tin cảm giác và vượt
qua ngưỡng cửa lô-gíc trong sự giới hạn của nhận thức tương đối.
Trái lại, khả năng hiểu biết của con người hoạt động trên cơ sở của
những thông tin mà nó thu thập và tích chứa dù trong lãnh vực tôn giáo,
triết học, khoa học và nghệ thuật. Đối với vấn đề tâm lý, thông
tin này được thu thập xuyên qua các giác quan mà giác quan bị giới hạn
trong nhiều phương diện. Những thông tin giới hạn được nhận thức khiến
cho sự hiểu biết của chúng ta về thế giới bị méo mó. Trong tác phẩm
"Learned Ignorance," của nhà học giả người Pháp Nicholas , Cusa đã
viết:
"Tất cả những kiến thức
phô bày dựa trên các giác quan của chúng ta thì thật sự là sự không hiểu
biết; và sự hiểu biết chân thật chỉ đạt được bởi sự lột bỏ tất
cả những điều này cho đến khi chúng ta suy nghĩ mà không dùng các ý tưởng
của giác quan"
"Chân lý không phụ thuộc vào
những vấn đề bên ngoài chúng ta mà chính ngay trong chúng ta. Chúng ta
không thể hy vọng tìm thấy chân lý bằng kinh nghiệm, bằng nhận thức
giác quan hoặc ngay cả bằng những lô-gích và lý lẽ. Có nhiều phương tiện
để đạt được kiến thức nhưng đó chưa phải bằng nhận thức là
chân lý. Chân lý phải thực sự đến từ sự nhận thức nội tại. Sách
vở chỉ có thể khơi dậy tư tưởng và cho bạn kiến thức. Đối với chân
lý, bạn phải quay mắt nhìn vào trong chính bạn. Vì vậy việc nghiên cứu
kiến thức là một điều và nghiên cứu chân lý là một điều khác."
"Lời nói là sản phẩm của
tâm hạn chế của chúng ta và tâm của chúng ta phụ thuộc tất cả kiến
thức dựa trên kinh nghiệm của các giác quan của chúng ta. Đôi khi các
giác quan này không đáng tin cậy. Một việc xảy ra được nhiều người
thấy thì có thể được giải thích trong nhiều cách khác nhau."
Một số người tự hào về sự việc
mà họ biết rất nhiều. Thật tế là chúng ta biết càng ít thì chúng ta
càng có nhiều sự giải thích, chúng ta càng biết nhiều thì chúng ta càng
nhận biết nhiều hạn chế của chúng ta. Một học giả thông thái, khi viết
xong một tác phẩm được xem là kiệt tác. Vị đó cảm thấy rằng tác phẩm
này đã chứa đựng tất cả tinh túy văn học và triết học. Bởi lòng tự
hào về sự đạt được của mình, người đó đã phô trương kiệt tác của
mình đến một đồng nghiệp – người có trình độ kiến thức ngang hàng
– với lời đề nghị rằng xin đánh giá chất lượng của tác phẩm
này. Thay vì vậy, vị đồng nghiệp của vị này lại yêu cầu tác giả
ghi trên một mẫu giấy tất cả những gì vị này đã biết và tất cả
những gì đã không biết. Tác giả đắm chìm trong suy tư và sau một hồi
lâu không thể viết ra được những điều nào mà mình đã biết cả. Rồi
tới vấn đề thứ hai, vị ấy cũng không thể viết ra được tất cả những
điều gì mà mình đã không biết. Cuối cùng trong bước cùng cực nhất, vị
đó đã xuôi tay chịu thua và mới nhận thức ra rằng tất cả những gì
anh ta đã biết đều thật sự là không biết.
Cùng với quan điểm này, Socrates, một
triết gia nổi tiếng Athen của thế giới cổ đại, khi được hỏi những
gì ông ta biết, ông ta chỉ trả lời rằng:"Tôi biết chỉ có một
điều - là tôi không biết."
- VƯỢT TRÊN KHOA HỌC
Phật giáo vượt trên khoa học
hiện đại trong sự chấp nhận lãnh vực kiến thức rộng lớn hơn tinh thần
khoa học. Phật giáo thừa nhận kiến thức xuất phát từ các giác quan cũng
như những kinh nghiệm cá nhân đã được ngang qua sự tu dưỡng tâm. Bởi
việc phát triển và tu tập tâm định tĩnh cao, thì thực nghiệm tôn giáo
có thể được hiểu và được thực hiện. Sự chứng nghiệm không phải
là một điều có thể hiểu được bởi hành động thí nghiệm hoặc thẩm
sát qua kính hiển vi.
Chân lý do khoa học khám phá chỉ tương
đối và chịu sự biến đổi, trong khi chân lý do Đức Phật tìm thấy là
tuyệt đối và rốt ráo: chân lý của các pháp không thay đổi theo thời
gian và không gian. Hơn nữa, ngược lại với các lý thuyết khoa học, Đức
Phật khuyến khích người có trí thì không nên bám víu vào các học thuyết,
khoa học và những điều khác. Thay vì học thuyết, Đức Phật dạy con
người cách để sống đời sống chân chính bằng sự thanh tịnh các căn
và loại bỏ tham muốn, Đức Phật chỉ ra con đường qua đó chúng ta có
thể nhận ra trong chính mình bản chất cuộc đời. Mục đích thật sự của
cuộc đời có thể được tìm thấy.
Trong Phật giáo, việc tu tập là
quan trọng. Một người học nhiều nhưng không thực tập giống như người
nói phương pháp nấu nướng từ một cẩm nang dạy nấu nướng đồ sộ mà
không cố gắng để chuẩn bị nấu một món ăn thì cuốn sách cẩm nang
không thể làm giảm cơn đói bụng được. Cũng thế, thực hành là điều
kiện tiên quyết quan trọng trong việc giác ngộ mà trong vài trường phái
Phật giáo như Zen đã nâng cao việc tu tập thiền định thậm chí được
đặt ở hàng đầu.
Phương pháp khoa học có khuynh hướng
hướng ngoại và các nhà khoa học hiện đại đã khai thác bản chất và
các yếu tố tiện nghi cho riêng họ, nhưng lại thường không xem xét nhu cầu
để hòa hợp với môi trường và do đó thế giới xung quanh bị ô nhiễm.
Trái lại, Phật giáo hướng nội và liên quan tới sự phát triển nội tại
của con người. Ở phương diện thấp hơn, Phật giáo dạy con người cách
để điều chỉnh và đối phó với các sự kiện và hoàn cảnh của đời
sống hằng ngày. Ở mức độ cao hơn, Phật giáo trình bày sự tự nỗ lực
của con người phát triển vươn lên thông qua việc tu tập và trau giồi
tâm.
Phật giáo có một hệ thống tu tập
tâm hoàn hảo liên quan tới việc đạt trí tuệ trong bản chất các pháp
để đưa đến sự giải thoát tối thượng – Niết-bàn. Hệ thống này vừa
thực tiển, vừa khoa học. Nó bao hàm sự quán sát khách quan về các trạng
thái tâm lý và tình cảm.Hơn một nhà khoa học, người tu học Phật như là
một vị thẫm phán, một thiền giả quán sát thế giới nội tâm chính
mình với chánh niệm.
- KHOA HỌC KHÔNG CÓ TÔN GIÁO
Nếu không có lý tưởng đạo
đức thì khoa học sẽ đem đến sự nguy hiểm cho toàn thể nhân loại.
Khoa học chế tạo máy móc và máy móc lần lượt trở thành chúa tể. Bom
đạn là quà tặng của khoa học cho một thiểu số người có uy quyền sẽ
điều khiển vận mạng của thế giới. Trong khi phần đông nhân loại lại
chờ đợi trong nổi khổ đau, sợ hãi, không biết khi nào vũ khí nguyên tử,
chất độc hóa học, vũ khí giết người – kết quả của các nghiên cứu
khoa học để giết người có hiệu quả hơn – sẽ được sử dụng đến.
Khoa học hoàn toàn không những không thể hướng dẫn đạo đức cho nhân
loại mà còn nuôi dưỡng nhiên liệu để thổi bùng ngọn lửa khát vọng
của con người.
Sự trống rỗng đạo đức của
khoa học báo hiệu duy nhất một điều là sự hủy hoại: nó trở thành
con quái vật tàn bạo mà con người đã tạo ra. Bất hạnh thay! Chính con
quái vật trở nên mạnh mẽ hơn con người đã tạo nên nó. Trừ phi con người
biết chế ngự và cai quản quái vật này ngang qua việc thực tập đạo đức
tôn giáo thì con quái vật sẽ sớm khuất phục con người. Nếu không có sự
hướng dẫn của tôn giáo thì khoa học đe dọa thế giới với sự hủy diệt.
Trái lại, nếu khoa học song hành với tôn giáo như Phật giáo thì có thể
biến đổi thế giới này thành thiên đường, hòa bình, an ổn và hạnh
phúc.
Chưa bao giờ sự đồng hành giữa
khoa học và tôn giáo lại rất cần cho phúc lợi nhất của con người và
cần phục vụ cho con người như lúc này. Chúng như cần phải đi song song
với nhau. Tôn giáo mà không có khoa học là mù, khoa học mà không có tôn
giáo thì như bị què.
- CỐNG HIẾN CHO PHẬT GIÁO