- Tôn Giáo và Khoa Học
- Mỹ Thanh dịch
Từ những buổi đầu tương đồng cho
đến sự chia rẻ: Thông thường tôn giáo xuất
hiện từ những lo sợ, nhất là nỗi lo sợ về thiên tai như : sấm
sét, lụt lội, động đất, núi lửa, và bão tố. Những hiểm nguy
nầy luôn đe dọa đời sống con người từ bao thế kỷ. Người xưa
đã không hiểu rõ sự vận hành của thiên nhiên, không hiểu
được nguyên nhân của những thiên tai nầy; và vì sợ thiên tai
nên con người mới bắt đầu tìm kiếm những câu trả lời, những
nguyên nhân. Cuộc tìm kiếm nầy mở màn cho những giải đáp về
những gì đang xảy ra chung quanh đời sống của con người.
Sự nhận thức về hiểm nguy và sự muốn được an
toàn là nguyên nhân chánh cho tôn giáo và khoa học ra đời. Song song
với nỗi lo sợ về thiên tai, con người cũng kinh ngạc, thán phục
trước những kỳ công của thiên nhiên. Đây không phải là sự
tò mò ngẫu nhiên : con người bị bắt buộc phải tìm ra những giải
đáp cho những thiên tai đang đe dọa mạng sống của họ. Do đó, vì lo
sợ và vì cố gắng muốn thoát khỏi những nguy hiểm đó mà con
người gián tiếp khao khát muốn biết sự thật về đấng tạo hóa;
và từ đấy mà khoa học ra đời.
Tôn giáo ra đời vì nỗi mong muốn tránh nguy hiểm, và
khoa học ra đời từ ước vọng muốn biết sự thật về tạo hóa.
Lịch sử cho chúng ta biết buổi đầu của những tìm
tòi có tính cách khoa học xuất hiện nơi nền văn hóa Ai Cập và
Mesopotamia, được những vị thầy tu hướng dẫn. Họ là những
người đầu tiên đã thích thú tìm hiểu về thiên nhiên và họ
đã bỏ thời gian tìm câu trả lời cho những thiên tai đang đe dọa
con người.
Tuy nhiên, điểm tương đồng buổi đầu giữa khoa học
và tôn giáo cũng là khởi điểm đã phân chia tôn giáo và khoa
học. Lý do chia rẻ nầy nằm nơi lãnh vực Sự Thật về thiên nhiên.
Vì những nguy hiểm, đang đe dọa đời sống con người,
liên quan đến sự sống chết, nên cần phải có những giải đáp
tức thời. Khi mà một câu trả lời xuất hiện có thể chấp nhận
được, thì liền ngay đó câu trả lời được ghi xuống và được
chấp nhận như một điều luật của tôn giáo. Những câu trả lời
thích hợp được đưa ra bằng nhiều cách : những cuộc tế lễ đầy
huyền bí, dưới mắt chúng ta hiện giờ là những việc dường như
là vô lý -- dầu vậy, lúc đó đây là một hình thức dễ được
chấp nhận nhất. Với xã hội, hình thức nầy dần dần được hình
thành cho tôn giáo ra đời.
Hiện tại có những kẻ bỏ thời gian để thu lượm
bằng chứng, họ phân tách và làm thí nghiệm. Những người nầy,
qua những thí nghiệm và những quan sát, họ đã có được những
câu trả lời không đồng với quan niệm tôn giáo. Đây được gọi
là " khoa học," một sự hiểu biết được hình thành qua việc
quan sát và thực nghiệm.
Đây là điểm không tương đồng giữa khoa học và
tôn giáo.
Câu trả lời như là một liều thuốc cho sự cần
thiết nhất thời, cho số đông, và nương nặng về lòng tin và sự
trung thành, thiếu sự nhận xét khách quan. Đấy là Tôn giáo. Do
đó, tôn giáo nặng về tín ngưỡng.
Trong khi Khoa học dựa vào sự tìm tòi, tra cứu, quan
sát và thực nghiệm. Khoa học không cho những câu trả lời chưa
được chứng nghiệm; vì vậy, đây là môi trường chỉ dành cho một
số ít người, không phải cho cả xã hội. Sự chứng nghiệm và quan
sát tỉ mỉ nầy được tiếp nối và hình thành cái mà chúng ta ngày
nay gọi là "Khoa học".
Ngay tại điểm nầy chúng ta hiểu rõ sự khác biệt
giữa tôn giáo và khoa học : tôn giáo dành cho số đông, trong khi
khoa học chỉ có thể thích hợp cho một số ít người. Để giữ sự
đồng nhất về việc tế lễ, cũng như việc dạy dỗ tín đồ, tôn
giáo nghiêng nặng về lòng tin. Tôn giáo bắt nguồn từ lòng tin, và
dựa vào lòng tin để gìn giữ sự giáo huấn. Tôn giáo là một
hệ thống tín ngưỡng không đổi thay với những giáo điều phải
được tuân theo mà không được đặt câu hỏi.
Khoa học thì dành cho những người thích suy nghĩ, thích
tìm hiểu. Tính chất của khoa học là tìm tòi sự thật qua những thí
nghiệm có căn cứ. Khoa học vì vậy gìn giữ và truyền bá sự
thật qua sự hiểu biết có tính cách suy nghiệm và lý giải.
Tôn giáo được hiểu như là nơi có những giải
đáp cho một sự thật duy nhất.
Thật ra không phải là tôn giáo đưa ra những giải
đáp, mà là những giải đáp được đưa ra bởi con người cần
nó và từ đó mà tôn giáo được hình thành.
Tôn giáo tìm ra giải đáp cho những vấn đề liên quan
đến đời sống con người, từ thấp đến cao, đủ mọi trình độ.
Mặt khác, khoa học quán sát sự thật từ những biểu thị riêng
rẻ. Khoa học tìm tòi và thu nhặt những mảnh vụn để ráp chúng
lại với nhau và hy vọng tìm được câu trả lời thích đáng. Dù
rằng khoa học cần có những nguyên tắc chung, nhưng những nguyên tắc
nầy cũng bị điều kiện hóa; vì vậy, sự thật tìm thấy được
cũng không hẳn hoàn toàn. Chúng ta có thể nói tôn giáo cho câu
trả lời đầy đủ , còn khoa học thì chỉ một phần .
Vì tôn giáo và khoa học có giới hạn, cho nên có
một thành phần thứ ba xuất hiện, muốn tìm hiểu về sự sống và
vũ trụ. Nhóm nầy không vừa ý với tôn giáo vì câu trả lời
không nằm trong phạm vi lý luận. Ngược lại, khoa học có câu trả
lời dựa trên nguyên nhân và lý luận nhưng chưa có những giải
đáp tuyệt đối.
Nhóm thứ ba nầy không muốn chờ khoa học cho câu trả
lời, nên họ đã tự tìm lấy những giải đáp bằng cách lý luận
và phân tách mà không cần sự kiểm chứng. Cách nầy đã cho ra
đời một môn khoa học được mệnh danh là triết học.
Chúng ta có thể dùng một thước đo để so sánh ba
môn nầy từ một câu hỏi thông thường về thiên nhiên, như sau :
l. Khoa học - vì đang còn trong vòng kiểm chứng và quan
sát nên chưa có được câu trả lời thích đáng.
2. Triết học - ráng tìm ra câu trả lời qua những
phân tách và lý luận, mà chưa được kiểm chứng.
3. Tôn giáo - cho đầy đủ những câu trả lời mà
không cần kiểm chứng.
Khoa học và triết học đều xuất hiện sau tôn giáo,
và cả hai đều cố gắng tìm những giải đáp rõ ràng, minh bạch.
Nhưng cả hai đều thất bại khi mà họ không cho được những giải
đáp đầy đủ , thích ứng trong đời sống hằng ngày. Ngược lại ,
tôn giáo vẫn tồn tại vì đã đáp ứng được những câu hỏi
của con người mặc dù do lòng tin mà ra.
Bởi vì tôn giáo đáp ứng được tức thời sự
thật, câu trả lời cho số đông, nhưng không được kiểm nhận bằng
năm giác quan, tất cả chỉ được dựa vào lòng tin. Và vì những
giải đáp nầy không được kiểm chứng nên chúng luôn bị thay
đổi.
Đôi lúc một câu trả lời được đưa ra : người ta
không biết đúng hay sai vì đâu có kiểm chứng. Nếu họ tin thì họ
chấp nhận liền. Sau đó nếu có câu trả lời khác, họ lại càng
không biết đâu là đúng, vì cũng đâu có kiểm chứng. Do đó, có
những kẻ thích câu trả lời cũ hơn là câu trả lời mới. Tôn
giáo vì dựa trên niềm tin nên cũng bị đổi khác theo mực thước
của niềm tin. Vì vậy chúng ta có thể thấy được rằng có bao nhiêu
là tôn giáo. Bởi vì câu trả lời bao gồm sự thật tuyệt đối
chưa được kiểm chứng, chỉ dựa vào niềm tin. Do đó khi có những
giải đáp mới xuất hiện thì kẻ tin, người không .
Ngược lại, khoa học trả lời chậm chạp, thứ tự,
kiểm chứng từng điểm một. Khoa học giải quyết vấn đề bằng duy
lý. Bởi thế mới có câu : " Có rất nhiều tôn giáo nhưng khoa
học chỉ có một thôi." Nhưng theo cái nhìn lịch sử thì vì khoa
học không có cái nhìn thấu suốt về sự thật cho nên có rất
nhiều môn khoa học. Những lý luận về vạn vật và vũ trụ thay
đổi không ngừng. Vì vậy mà hiện tại có rất nhiều môn khoa học
đang hiện hành. Có những khoa học gia muốn kiểm chứng lại những
lý thuyết đã có trước đây, họ không đồng ý với mớ lý
thuyết cũ và vì vậy chúng ta nghe nói đến 'vật lý mới' và 'khoa
học mới'.
Khoa học đối đầu với ngoại cảnh, dựa trên mực
thước của năm giác quan. Còn tôn giáo thì nhắm vào ngoại cảnh
và con người trong bối cảnh đó. Khoa học chỉ nhắm vào sự quan sát
ngoại vật; tôn giáo thì nhắm vào con người với khả năng của
các giác quan đối với ngoại cảnh.
Vì tôn giáo nhắm vào sự phát triển mức độ tinh
thần của từng cá nhân, cho nên đây là điểm khá phức tạp nơi
tôn giáo.
Dù trong trường hợp nào, tôn giáo cũng chỉ nhắc
đến con người khi mà họ đang có những vấn đề, và vấn đề nầy
cần được giải quyết.
Khi mà tìm nguyên nhân của một vấn đề thì tôn giáo
nhìn vào ngoại cảnh chung quanh, không khác chi là khoa học. Tôn giáo
nhìn vào ngoại cảnh để tìm ra nguyên nhân của vấn đề, hoặc của
đau khổ.
Tôn giáo tìm kiếm sự thật để giải quyết những
vấn đề của con người, trong khi đó thì khoa học tìm sự thật chỉ
để thỏa mãn khối óc tò mò.
Có những tôn giáo vì muốn có câu trả lời cấp
tốc cho một số vấn đề đã buộc phải giải thích rằng nguyên nhân
là do những lực ngoài khả năng của con người, như lực của
thượng đế, thánh thần, ma quỷ, v...v...
Về những hiện tượng thiên nhiên như sấm sét,
động đất, v...v... những buổi cầu nguyện hay tế lễ được đặt ra.
Về bệnh hoạn, sợ hãi hay bệnh tâm thần, thì những người 'đồng
cốt, thầy bùa' làm những lễ đặc thù huyền bí để chữa bệnh.
Trong lúc đó khoa học vì không bị thúc đẩy phải có câu trả lời
cấp tốc nên họ tìm kiếm nguyên nhân và truy xét một cách từ
từ .
Về mặt tôn giáo, Phật giáo nhắm vào cuộc sống của
con người, nhưng không quy lỗi của những vấn đề chỉ nơi ngoại
cảnh. Phật giáo nhìn vào nguyên nhân của vấn đề nơi 'Nhân và
Quả"-- Nhân và Quả nơi con người như có những ý nghĩ không
lành mạnh, hoặc hành động không tốt -- bên ngoài cũng như bên
trong, dù có hình tướng hay không hình tướng.
Theo bình thường thì những tôn giáo giáo huấn tín
đồ bằng những luật lệ, để củng cố nền đạo đức hay nhân
phẩm. Nhưng thường thường thì vì vâng lời, hoặc sợ bị trừng
phạt, hay vì lợi ích về sau mà người ta tuân theo những điều luật
nầy, hơn là vì hiểu rõ những nguy hại cũng như lợi ích của nó
theo quy luật của thiên nhiên.
Tôn giáo hướng vào những khát vọng khác nhau của
bao từng lớp con người; vì vậy theo thời gian, tôn giáo cũng có
nhiều tông phái vì trình độ hiểu biết của con người cũng không
giống nhau.
Trong quá khứ, sự thật khoa học được kiểm chứng
bằng năm giác quan; theo thời gian, chúng ta có những dụng cụ tối
tân như viễn vọng kính, kính hiển vi, làm tăng cường khả năng của
các giác quan. Nhưng nay thì những dụng cụ nầy đã đạt đến tuyệt
đỉnh của chúng, và bây giờ chúng ta cần những máy móc tinh vi
hơn, tuyệt xảo hơn.
Hiện nay ngôn ngữ toán học và vi tính là những
dụng cụ mới nhất được dùng cho việc kiểm chứng.
Sự phát triển của khoa học tăng dần với những
dụng cụ kiểm chứng tối tân, đã trở thành một nghành chuyên
môn mà ít có người lãnh hội
được ,vì một người bình dân đâu có phương tiện
có những máy móc tối tân để giúp họ kiểm chứng về những
phát minh của khoa học.
Ngược lại, tôn giáo dành cho số đông. Cho nên một
người bình dân vẫn có thể hoặc tiếp thu hoặc loại bỏ mà không
cần kiểm chứng.
Mặc dầu có một số tôn giáo, tựa như khoa học,
dành phần 'sự thật' cho một số ít được lựa chọn, các thầy tu,
thầy tế lễ, có khi họ còn được ưu tiên để mà thăng tiến
trên đường tâm linh, và đây là kết quả của sự điều hành có
tính cách cá nhân hơn là bản chất thật sự của tôn giáo.
Phật giáo thì không có phân biệt vì bản chất thật
của thiên nhiên là Phật tánh. Làm sao chúng ta có thể độc tôn
Phật tánh? Mỗi một cá nhân có quyền hiểu và thực hành để
giác ngộ sự thật, tuỳ theo sự thông minh và hiểu biết riêng của
mỗi người.
Nên nhớ là có hai loại không có khả năng kiểm
chứng sự thật. Loại thứ nhất vì không có những dụng cụ cần
thiết để kiểm chứng, loại thứ hai thì vì những sự thật nầy
không thể kiểm chứng bằng dụng cụ.
Hiện tại khoa học đang rối đầu về hai vấn đề nêu
trên, nhất là cố gắng định nghĩa về sự thật tối cao, hoặc giả
tìm tòi câu trả lời trong thế giới của tinh thần.
Nếu cái nhìn của khoa học không được mở rộng, thì
chắc chắn khoa học sẽ đi vào ngõ cụt. Khoa học có được nguồn
cảm hứng phải tìm cho ra câu trả lời về vũ trụ, nhưng hình như
chúng ta chưa bao giờ có được câu trả lời thích đáng. Cũng như
trong sự tìm tòi nghiên cứu khoa học dường như gần tìm thấy sự
thật, nhưng hiện tại sự thật vẫn nằm ngoài vòng tay của khoa học.
Thêm vào khoa học 'mới' và khoa học 'cũ', hoặc vật
lý 'cũ', vật lý 'mới', chúng ta còn có một thứ khoa học dành cho
những người chuyên môn và một thứ khác dành cho người bình
dân. Bao nhiêu là khái niệm khoa học mà một người bình dân không
thể nào tưởng tượng được. Chẳng những anh ta không có khả
năng để hiểu, còn nói chi việc tự kiểm chứng. Đây không phải
chỉ xảy ra cho người bình dân : một số khái niệm của khoa học cũng
rất khó hiểu và không tưởng tượng nỗi đối với một số khoa
học gia...Vì vậy chỉ có thể tin vào lời nói người đi trước .
Hãy lấy một thí dụ. Theo khoa học, ánh sáng chỉ là
một làn sóng và là một phân tử.
Những khoa học gia đi tìm định nghĩa cho bản chất của
ánh sáng : 'đây là một phân tử, đúng không ?'
Một nhóm trả lời,' đúng thế. Đây là một phân
tử, một luồng năng lượng điện lực (photon)'.
Nhưng nhóm khác lại nói, ' Không, ánh sáng là một
làn sóng.'
Cuối cùng thì ánh sáng vừa là một phân tử và
vừa là một làn sóng. Nhưng đó là cái gì vậy ? Điều nầy cần
được chứng minh bằng toán học, và bước nầy thật là ngoài tầm
hiểu biết của người dân bình thường.
Hãy nhìn vào một số thí dụ khác : những nhà thiên
văn nói với chúng ta là có những lỗ hũng đen (black hole) trong vũ
trụ. Chúng là những vì tinh tú có sức hút rất mạnh đến nỗi
ánh sáng là một phân tử cũng không thoát khỏi, cũng bị hút vào
đó. Bây giờ đối với một người bình thường, họ phải hiểu sao
đây? Cái gì mà ánh sáng cũng không thoát khỏi?!
Kế đến họ nói trong những lỗ hũng đó, vật chất
và năng lượng đều bị kết lại thành những khối dầy đặc mà
không có gì trên trái đất có thể so sánh được. Để minh họa,
họ nói, nếu khoảng không, của một tòa nhà lớn như Empire State
Building, (một trăm lẻ hai tầng), được lấy ra và trọng lượng của
khoảng không nầy được kết dồn lại như kích thước của một cây
kim! Những khoa học gia giải thích như trên về định nghĩa lỗ hũng đen
là gì. Một người bình dân phải hiểu sao đây ?
Thật ra, làm sao có thể hiểu được kích thước chỉ
bằng cây kim mà trọng lượng lại là một toà cao ốc 102 tầng.
Không thể nào hiểu nỗi--chúng ta chỉ có cách là tin họ. Chúng ta
tin vào khoa học trong một thời gian khá dài, cho dù có những nghi
vấn . Nhưng thật ra trong lòng, chúng ta ai ai cũng đều tự hỏi, ' ủa,
cái gì kỳ vậy? làm sao được kìa?'
Khoa học còn đang tìm cách chứng minh những tài liệu
góp nhặt của họ. Những tài liệu nầy cũng chưa giải thích được
những câu hỏi thông thường về thiên nhiên, vũ trụ, cũng như
sự hiện hữu của một phân tử.
Khoa học đã đi rất xa về những kiểm chứng bằng
các giác quan. Những giả thuyết được chứng minh bằng toán học,
và rồi lại được thông dịch bởi những nhà vật lý. Sự thật
được thu gọn trong những bài toán đại số, mà toán đại số
không phải là chân lý, nên làm sao có thể giải thích về sự
thật một cách rốt ráo được. Khoa học gia người Anh, ngài Arthur
Eddington là người tìm ra phương cách để chứng minh thuyết vật lý
của Einstein, đã nói như sau :
"Khoa học không có khả năng dẫn dắt con người
đến chân lý. Khoa học chỉ có thể dẫn con người đến cái bóng
của những ký hiệu ."
Cả đến những phương thức quan sát kiểm chứng của
khoa học cũng không thật chắc chắn trăm phần trăm, vì bị giới hạn
bởi những dụng cụ hay công thức.
Ngày xưa chúng ta tin tuyệt đối vào định luật sức
hút của Newton, cho đến khi Einstein chứng minh rằng điều nầy không
đúng hoàn toàn. Trên phương diện hạ nguyên tử (subatomic), định
luật sức hút không áp dụng được. Trong thời của Newton, đâu có
những dụng cụ để mà quan sát hạ nguyên tử. Chúng ta phải đợi
đến thế kỷ 20 với sự hiện diện của Einstein, dùng toán học và
lý luận để nhận định sự thật. Vì vậy chúng ta phải cẩn thận.
Không thể tin chắc chắn vào điều gì, cho dù điều đó có được
kiểm chứng bằng một cuộc thí nghiệm.
Tôi nhớ đến chuyện đàn gà và nông dân Brown. Mỗi
sáng đàn gà thấy nông dân Brown đem đồ ăn đến. Ngày nào thấy
ông Brown thì đàn gà được cho ăn. Cho ra công thức : "Gà thấy
ông Brown = được cho ăn.
Vào một buổi sáng, ông Brown đến nhưng trong tay ông
là một con dao... Công thức - Gà thấy ông Brown = được cho ăn -- bị
biến thành
Gà thấy ông Brown = bị cắt cổ. " Vì thế sự kiểm
chứng bằng cách quan sát liên tục không đứng vững, vì vậy không
thể là một kết luận có thể định trước được.
Khoa học đáng lý phải giúp con người hiểu biết hơn,
nhưng qua những kỹ thuật hiện đại ngày nay, con người chỉ biết
hưởng thụ, chỉ nuôi dưỡng thêm tham, sân, si. Truyền hình được
phát minh, thay vì xem để học hỏi thêm, để tăng trưởng sự hiểu
biết và trí thông minh, nhưng phần đông con người chỉ xem TV là một
thứ tiêu khiển giết thời giờ, và do đó họ trở nên quá dễ
dãi và thờ ơ. Chúng ta có những phương tiện thông tin tối tân,
thay vì dùng chúng để mở mang kiến thức, sự hiểu biết; đàng
nầy ta dùng chúng để khuyến khích sự si mê.
Khoa học không chịu trách nhiệm về những lạm dụng
kỹ thuật nầy. Thay vì dùng những kỹ thuật tối tân để giúp
đời, chúng ta dùng chúng để làm giàu cho chính mình. Do đó, khoa
học để cho số đông tựa vào tôn giáo. Đỗ lỗi cho ai đây ? Khi
một người hỏi : " Tại sao tôn giáo làm cho con người dễ tin
quá?" nhưng cũng bị hỏi ngược lại " Tại sao khoa học lại
bỏ rơi con người cho tôn giáo?"
Có rất ít người có được sự hiểu biết sâu sắc
về khoa học. Phần đông, họ chỉ tin vào những gì họ nghe nói hoặc
họ học được . Vì vậy khoa học ngày nay từ từ cũng trở thành
gần như tôn giáo, chỉ có tin hay không tin mà thôi.
Khi mà khoa học có thể giải đáp rốt ráo được
những câu hỏi của con người thì lúc đó khoa học sẽ được hoàn
hảo. Có những tôn giáo sẽ bị đào thải. Ngược lại, tôn giáo
nào mà dẫn đến chân lý, sẽ đứng vào vị trí thống nhất với
khoa học. Lúc đó, khoa học và tôn giáo sẽ đạt đến một điểm
chung, điểm cuối cùng nơi mà tôn giáo trở nên khoa học và khoa
học trở thành tôn giáo, sự chia rẻ đôi bên sẽ vĩnh viễn bị
mất đi .
Chúng ta đến trái đất chỉ trong một thời hạn.
Những hoàn cảnh đang đe dọa chung quanh không cho chúng ta trể nãi.
Những vấn đề trong cuộc sống cần được giải đáp cấp tốc hoặc
cần có một thuốc chữa-- bây giờ, ngay cuộc sống hiện tại.
Cho dù khoa học có cách giải quyết một số vấn đề
của chúng ta, khoa học cũng bị trở ngại là " ít quá, trễ
quá." Khi nói "ít quá", tôi muốn nói đến sự hiểu
biết của khoa học về những vấn đề cơ bản trong cuộc sống con
người. Khoa học không thể làm cho con người tốt hơn, không làm cho
con người vui vẻ, không thể chỉ cho con người làm sao để sửa đổi
những thói quen xấu, không trị được đau khổ, buồn bã, giận hờn,
thất vọng, v...v... Khoa học không thể giải quyết được những vấn
đề xã hội.
Về mặt y học, khoa học đã phát minh một số thuốc
giúp ích cho một số bệnh nhân mất ngủ, hay bị bệnh tâm thần... Một
số người bệnh tâm thần nặng được bớt bệnh. Và những khoa
học gia tin rằng trong tương lai họ có thể phát minh ra được viên
thuốc làm cho con người hạnh phúc. Khi mà bạn đang buồn, uống vào
viên thuốc tức khắc nỗi khổ tan biến liền...Nhưng lúc nầy không
còn là y học nữa, mà biến thành chủ nghĩa khoái lạc. Khoa học
đã chứng minh được rằng trong óc của con người, khi vui hay buồn
đều tiết ra những chất hóa học, nếu khoa học có thể chế ra
những chất nầy thì khi buồn hay thất vọng chỉ cần uống viên thuốc
sẽ yêu đời ngay. Những viên thuốc 'hạnh phúc' sẽ được bán như
thực phẩm, lúc ấy sẽ không còn ai buồn khổ hay thất vọng, chỉ có
yêu đời và hạnh phúc thôi.
Tôn giáo thì muốn đưa con người đến chỗ tự do. Con
người có thể hạnh phúc mà không cần những điều kiện từ bên
ngoài đưa đến. Nhưng sự dùng thuốc để được hạnh phúc sẽ bắt
con người nương dựa vào những điều kiện bên ngoài để được
hạnh phúc, làm cho con người mất dần khả năng tự chủ.
Khoa học không khác các tôn giáo cổ xưa là bao, khi
bắt con người dựa vào những phát minh của khoa học để mưu cầu
hạnh phúc. Ngày xưa cũng thế, vì sợ thánh thần, thượng đế
trừng phạt, con người đã cầu xin, van lạy, cúng tế và đặt mạng
sống họ vào tay đấng thiêng liêng. Trong hai trường hợp, hạnh phúc
và khổ đau của con người nằm trong tay các đấng thiêng liêng hoặc
những điều kiện từ bên ngoài; và như vậy khoa học và tôn giáo
cổ xưa đã hủy hoại tính độc lập của con người.
Khoa học tự nó không có khả năng giải quyết những
vấn đề của con người. Theo từ ngữ Phật giáo, khoa học và kỹ
thuật không khuyến khích con người có những hạnh kiểm tốt (sila),
không khuyến khích con người thanh lọc tư tưởng (samadhi). Khoa học tìm
kiếm gom góp những tài liệu nhưng không chỉ cho chúng ta cách sống
thế nào để hạnh phúc (panna).
Điều thứ hai là "trễ quá." Sự thật của
khoa học không hoàn toàn, nên không thể cho chúng ta những câu trả
lời thích đáng, và cũng chưa có dấu hiệu gì cho thấy là khoa học
có thể trả lời những câu hỏi trên.
Sự hiểu biết về khoa học thì thay đổi không ngừng.
Lúc thì như thế nầy lúc thì như thế kia. Nếu chúng ta phải ngồi
chờ khoa học cho câu trả lời thích đáng thì có lẻ chúng ta sẽ
chết trước khi biết được phải sống như thế nào cho xứng đáng
với cuộc sống của mình.
Khoa học luôn tìm một nguyên tắc chung nhưng họ chỉ tìm
được một phần nhỏ của nguyên tắc đó, như tìm được những
mảnh vụn của một tấm hình lớn. Trong khi chờ đợi khoa học giải
thích về sự thật, chúng ta dùng những tiện nghi kỹ thuật đang có
để nâng cao đời sống của chúng ta và cũng để chìu theo những
dục vọng của chính mình.
Như vậy, thật ra không phải khoa học, mà là kỹ thuật
đã cho chúng ta những kết quả cụ thể. Để trả lời cho sự thật
( hoặc không phải sự thật) của thế giới thiên nhiên, con người
phải dựa vào tôn giáo. Dùng khoa học chỉ để có những tiện nghi
vật chất. Đây là trường hợp của ngày nay.
Tôn giáo vẫn tồn tại trên trái đất vì con người
vẫn còn chờ đợi một câu trả lời đầy đủ và hoàn toàn; câu
trả lời đúng với trường hợp và có thể thực tập được
liền. Vì những câu trả lời không được kiểm chứng và vì khoa
học không thể chứng minh được, cho nên phần đông con người tự
tìm lấy niềm tin của mình.
Khoa học tiến nhanh nhưng chỉ trên phương diện kỹ thuật
vật chất, còn về những nhu cầu của con người tìm hiểu sự thật
về thiên nhiên thì khoa học chưa có tiến triển gì khả quan.
Trong việc áp dụng khoa học và kỹ thuật, lỗi lầm
vẫn thường xảy ra. Sự sai lầm xảy ra vì không hiểu biết, vì thiếu
kiểm soát hoặc thiếu thận trọng mà ra.
Chẳng hạn thuốc 'chloramphenicol'. Có một dạo thuốc nầy
tràn lan. Thuốc nầy nổi tiếng là thần dược, trị được bá bệnh.
Khi bạn bệnh, chỉ cần mua và uống vài viên'chloramphenicol' được bầy
bán khắp nơi. Chừng khoảng mười năm sau, khám phá ra rằng chất
thuốc nầy được tích tụ lại trong cơ thể và làm cho xương tủy
ngừng phát triển những huyết cầu trong máu, và rất nhiều người
chết vì bệnh bạch hầu (leukemia). Kế đến là thuốc DDT. Có dạo
chúng ta nghĩ với thuốc DDT những vấn đề kiến, sâu, muỗi...sẽ
không còn nữa. Con người nghĩ rằng họ có thể trừ diệt sâu bọ
tận gốc với DDT. Mấy năm sau, khám phá ra rằng DDT có tính chất
gây ung thư, có thể làm chết người. Thêm vào đó, trong lúc con
người mang bệnh về chất thuốc nầy thì lũ sâu bọ được miễn
dịch (immune), và thuốc trừ chúng không còn hiệu lực nữa. Một số
quốc gia đã cấm dùng DDT, nhưng bên Thái Lan vẫn còn dùng DDT cho
đến ngày nay.
Và đây là trường hợp thuốc 'thalidomide'. Thalidomide
là thuốc giảm đau rất được ưa chuộng trong y khoa. Thuốc nổi tiếng
là đạt tiêu chuẩn vì trải qua rất nhiều thử nghiệm. Thuốc được
tin dùng và quảng bá rằng là loại thuốc an toàn nhất. Thuốc
được ca ngợi đến nỗi những nước giàu có, văn minh thường
rất thận trọng về thuốc và y học, đã cho phép thuốc được bán
theo toa bác sĩ. Thuốc bán được khoảng năm năm, cho đến năm 196l,
khám phá ra rằng thuốc nầy khi uống bởi những phụ nữ đang mang
thai, sẽ làm thai nhi bị biến dạng. Quá trễ vì khi thuốc bị thâu hồi
nơi thị trường, thì đã có khoảng 8000 trẻ sanh ra bị dị dạng. Thí
dụ khác, trường hợp CFC's (chlorofluorocarbons). Nhóm hóa chất nầy
được tin dùng cho tủ lạnh, máy lạnh, và những chai thuốc xịt.
Nhưng sau đó, những khoa học gia và những nhà môi trường trên
thế giới đã lên tiếng là những chất nầy làm mất đi một phần
màn khí uyển (ozone layer) cần thiết cho trái đất của chúng ta. Và do
đó, những gì chúng ta nghĩ là tốt, là có lợi ích trở thành có
hại.
Sự phát triển của khoa học giúp cho sự hiểu biết
của con người được nâng cao, đây là điều không chối cãi
được. Nếu chúng ta nhìn kỹ sẽ thấy sự phát triển của khoa học
đồng thời cũng làm cho sự thông minh và hiểu biết của con người
bị suy kém. Lúc đầu mới phát triển, khoa học đã gây một ấn
tượng sâu sắc cho con người với những phát minh mới lạ. Lúc
ấy, tất cả mọi người đều trông chờ vào những phát minh mới
và những kỹ thuật tân tiến. Tất cả những bí mật của thiên
nhiên sẽ được khám phá và khoa học sẽ đưa con đến một thời
đại hạnh phúc hoàn toàn. Những người tin tưởng hết lòng vào
những câu trả lời của khoa học bắt đầu nghi ngờ tôn giáo, và
đã có rất nhiều người mất hết niềm tin và bỏ đạo.
Đáng tiếc thay, sự thật mà khoa học cung cấp chỉ là
một phần nhỏ. Khoa học chỉ đối phó với thế giới vật chất. Khoa
học không có câu trả lời cho những vấn đề nội tại của con
người, và vì vậy con người đành quay lại với tôn giáo.
Khoa học không thích thú tìm hiểu về vấn đề nội
tại của con người, con người thì không để ý đến những điều
nầy, vì vậy sự hiểu biết bị gián đoạn, tinh thần cũng như tâm
linh của con người bị chậm tiến, có nơi còn bị thoái hóa.
Theo luật thiên nhiên, cuộc sống và những vấn đề
của con người không cho phép con người lơ là với tôn giáo. Theo
nguyên tắc cơ bản, những câu trả lời cấp tốc và thiết thực
đang cần thiết hơn bao giờ hết. Khi mà con người không còn bị lôi
cuốn bởi khoa học; lúc đó, họ sẽ quay trở về với tôn giáo
để tìm câu trả lời. Nhưng vì đã có sự gián đoạn nơi mặt
phát triển tinh thần, nên con người tìm kiếm loanh quanh, và vì thế
cần phải có một bước đầu mới. Nơi những nước văn minh, hiện
đại, ta thấy có sự phát triển mạnh về tôn giáo, mà nơi đó
sự dị đoan và dễ tin vẫn hiện diện mặc dầu họ đang sống trong
một xã hội rất văn minh và tân tiến về mặt kỹ thuật.
Nhưng cũng nhờ vào khoa học mà con người hiểu rõ
hơn về những tôn giáo đang có mặt. Tôn giáo trong vai trò chủ
động, trong vài tông phái, đã lợi dụng cơ hội để ngăn chận
sự phát triển trí thông minh của con người. Vài tôn giáo vẫn còn
bám víu một cách mù quáng vào những thực hành & niềm tin vô
lý.
Nói về sự phát triển của khoa học : thái độ cũng
như cách thức của môn nầy đã ảnh hưởng tốt đến tôn giáo
cũng như thái độ của tôn giáo trong xã hội. Ít ra khoa học cũng
giúp cho tôn giáo phải ước lượng lại giáo lý & thái độ
hiện có. Khoa học được coi như là một thước đo để đánh giá
những câu trả lời được đưa ra từ những tôn giáo khác nhau.
Tuy nhiên, theo ý kiến chung, đặc biệt ở những
nước mà ảnh hưởng khoa học luôn hiện diện, khoa học không ích
lợi mấy cho cuộc sống cũng như không đem lại an lạc cho tinh thần.
Khá nhiều người không thích mấy khoa học. Khi mà họ nhìn khoa học
với vẻ tán thành, niềm tin của họ cũng không khác người xưa là
bao, khi người xưa nhìn vào bùa chú, pháp thuật. Thật là ngây thơ,
khi cơ bản không dựa trên sự hiểu biết. Đây mới là tinh thần
khoa học. Khi mà số đông nghĩ về khoa học, họ thường nhìn thẳng
đến những phát minh kỹ thuật; những kỹ thuật được dùng như
một phương tiện để thỏa mãn những ham muốn của họ. Vì vậy, sự
phát triển của khoa học chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ trên phương
diện kiến thức, hiểu biết, và quan niệm xã hội.
Con người bắt đầu bớt thích thú về khoa học và
bắt đầu tìm kiếm những gì họ cần nơi tôn giáo. Nhiều tôn giáo
nhắm vào những điểm nầy trên những trình độ khác nhau. Đồng
thời có những thành viên trong vòng khoa học bắt đầu công nhận
giới hạn của khoa học chính thống, và mở mang sự nghiên cứu trong
cái nhìn của tôn giáo. Bước đầu cho sự kết hợp giữa tôn
giáo và khoa học, để cùng dẫn dắt nhân loại đến sự thật, hòa
bình, với một cuộc sống không còn những bám víu điên rồ.
Mặt khác, có thể là khoa học đang tìm cách chứng
minh những gì mà tôn giáo đã nói đến. Khi mà nhân loại không
thể chờ đợi câu trả lời, thì chính tôn giáo là câu trả lời
cho chúng ta. Khi mà điều nầy chưa được minh chứng thì chúng ta chỉ
có cách chấp nhận, chờ khoa học từ từ chứng minh. Trong bối cảnh
nầy, khoa học là một cố gắng của con người để chứng minh những
sự thật (hoặc là không thật) của tôn giáo.
Nhìn vào phương diện nầy, tôn giáo và khoa học hòa
hợp với nhau; vì đều bắt nguồn từ một điểm tương đồng, và
một lần nữa tôn giáo và khoa học hợp nhất.
Theo thời gian, những giới hạn về cách thức của
khoa học sẽ một lần nữa được nhận diện. Khoa học sẽ không thể
nào chứng minh được những sự thật mà tôn giáo nói đến. Hiện
nay một số khoa học gia bắt đầu công nhận rằng chân lý tột cùng
mà tôn giáo đưa ra sẽ luôn nằm xa tầm tay của khoa học.
Ghi chú :
-Sir Arthur Stanley Eddington, The Nature of the Physical World. (New
York- Macmillan, 1929), p.282 .
-(*) Sila, samadhi and panna, or moral restraint, concentration and
wisdom, are the threefold foundation of Buddhist training.
[Trích dịch từ Bhikkhu P.A. Payutto, Toward Sustainable
Science. A Buddhist Look at Trends in Scientific Development. (Bangkok - Buddhadhamma
Foundation, 1993) pp 27-52].