- CON NGƯỜI & VŨ TRỤ
- Trần Chung Ngọc
Từ khi bắt đầu xuất hiện
trên trái đất, con người luôn luôn thắc mắc với những câu hỏi như:
thế giới này tự đâu mà ra, vũ trụ này từ đâu mà có, con người từ
đâu sinh ra, sẽ đi về đâu v...v... Từ xưa tới nay, con người đã đưa
ra nhiều giải đáp khác nhau, dựa trên sự hiểu biết và trí tuệ của
con người ở mỗi địa phương và qua các thời đại. Điều rõ ràng là,
với thời gian, trí tuệ của con người cũng đã theo định luật tiến hóa,
càng ngày càng mở mang, và do đó sự hiểu biết của con người cũng tiến
triển theo cho tới trình độ của ngày nay.
Với sự hiểu biết và trí tuệ của
con người hiện nay thì, dựa trên những sự kiện (facts) khoa học, thuyết
con người là do sự tiến hóa của những sinh thể ban khai tạo thành, và vũ
trụ sinh ra từ một sự nổ bùng lớn (Big Bang) của một dị điểm
(singularity) vô cùng nóng, vô cùng đặc, được công nhận là hợp lý nhất.
Lẽ dĩ nhiên, tính cách hợp lý này không nằm trong đầu óc của nhiều
triệu người, vì lý do này hay lý do khác, vẫn còn tin là vũ trụ và mọi
vật trong đó là do sự sáng tạo trong 6 ngày, cách đây 6-7000 năm như được
viết trong Thánh Kinh Ki Tô - Do Thái (Judeo-Christian Bible), của một đấng thần
linh toàn năng, phép tắc vô cùng, tuy rằng không có một căn bản thuyết lý
hay bằng chứng nào có thể biện minh cho sự hiện hữu của vị Thần
toàn năng nói trên, và cũng không có một bằng chứng nào chứng tỏ sự
can thiệp của vị Thần toàn năng trên vào những việc thế gian. Điều này
phù hợp với thuyết tiến hóa, vì theo định luật "chọn lọc tự nhiên"
(natural selection) và "thích hợp nhất với hoàn cảnh xung quanh"
(best fit) trong thuyết này thì chỉ có một số người nào đó mới có thể
có những đầu óc theo kịp với đà tiến bộ của nhân loại, cũng như không
phải tất cả các sinh thể ban khai đều tiến hóa thành nhân hầu, và
không phải tất cả nhân hầu đều tiến hóa thành loài người.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải ý thức
được rằng: một thuyết lý khoa học không bao giờ được coi là chung
cùng. Điều này cũng dễ hiểu vì con người vẫn còn nằm trong quá trình
của sự tiến hóa, trí tuệ càng ngày càng phát triển và không ai có thể
tiên đoán được là tiến trình này tiến tới đâu và bao giờ mới ngừng.
Các khoa học gia, dựa trên những dữ kiện khoa học về những mối liên hệ
giữa trái đất và mặt trời, tiên đoán rằng trái đất mà chúng ta đang
sống chỉ có thể tồn tại khoảng 5 tỷ năm nữa, nhưng nhân loại sẽ
đi về đâu thì đó còn là một ẩn số vĩ đại.
Nho giáo rất thực tế. Khi được
hỏi về quan niệm Thần linh, và sau khi chết con người đi về đâu, Đức
Khổng Tử đã trả lời: "Chuyện con người còn chưa rõ nói chi đến
chuyện Thần linh, và chuyện sống còn chưa rõ nói chi đến chuyện chết.
"
Phật Giáo, một tôn giáo đặt căn
bản trên con người, có vẻ như không quan tâm mấy đến những giải đáp
không mấy giúp ích cho con người để sống một cuộc đời hiện thực, bây
giờ và ở đây, nên Đức Phật đã giữ im lặng trước những câu hỏi
có tính cách siêu hình như trên. Nhưng điều này không có nghĩa là Đức
Phật không có những giải đáp thích đáng nếu chúng ta chịu khó đọc kỹ
Kinh điển Phật Giáo. Người chỉ cho rằng những giải đáp siêu hình
không mang lại ích lợi thực tế cho chúng sinh. Biết hay không biết thế
giới từ đâu đến, sẽ đi về đâu, không giúp ích gì cho con người để
giải quyết những sự việc trước mắt, ngay trong đời sống này của con
người. Vấn đề thiết thực nhất của con người là tự giúp mình và
giúp cho tha nhân tiến bước trên con đường đi đến giác ngộ, nhận thức
sự việc như chúng thực sự là như vậy (như thực tri kiến), và do đó
thoát ra khỏi những chấp kiến có tác dụng buộc chặt con người vào những
sự khổ đau ở trên đời.
Điều mà chúng ta không còn nghi ngờ
gì nữa, là con người đã nằm trong một quá trình tiến hóa trải dài
trong nhiều triệu năm, từ thời tiền sử ăn lông ở lỗ, trí tuệ thấp
kém, cho tới con người văn minh tiến bộ ngày nay. Qua các thời đại, chúng
ta thấy xuất hiện trên thế gian những bộ óc siêu việt như của Đức
Phật, Khổng Tử, Lão Tử, Socrates, Galilei, Darwin, Einstein v..v.., những bộ
óc đưa ra những tư tưởng, thuyết lý phổ quát, có thể áp dụng trong mọi
thời, ở mọi nơi. Trong quá trình tiến hóa nói trên, sự hiểu biết về
con người và vũ trụ hiển nhiên cũng phải tiến theo, và do đó, dần dần
loại bỏ những quan niệm hoang đường, mê tín, không phù hợp với những
hiểu biết ngày càng tiến bộ của con người. Kiến thức của nhân loại
vẫn còn đang mở mang, tiến bộ từng ngày, và có lẽ chỉ chấm dứt khi
trái đất trở thành tro bụi sau đây khoảng 5 tỷ năm.
Sau đây, tôi sẽ duyệt qua những
quan niệm về con người và vũ trụ qua các thời đại và sau cùng trình
bày những thuyết mới nhất mà khoa học đã đưa ra, dựa trên những sự
kiện khoa học mới khám phá được, để giải thích về nguồn gốc của
con người và vũ trụ. Điểm kỳ lạ là những khám phá của khoa học gần
đây đã rất phù hợp với quan niệm về nguồn gốc con người và vũ trụ
của Phật Giáo, điều này chứng tỏ rằng nhiều tư tưởng của Phật giáo
đã đi trước khoa học khá xa, như sẽ được trình bày trong các phần tiếp
theo phần nói về nguồn gốc vũ trụ. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà
chúng ta nên tương đồng hóa khoa học với Phật Giáo. Cái dụng của Phật
Giáo và của khoa học thuộc hai bình diện khác nhau. Bình diện của Phật
giáo bao trùm mọi Pháp giới trong khi đối tượng của khoa học chỉ thu hẹp
trong một số lãnh vực, cho nên những tương đồng giữa khoa học và Phật
Giáo, nếu có, thường chỉ là những tương đồng bề ngoài, danh từ khoa
học gọi là tương đồng biểu kiến. Tôi sẽ trở lại vấn đề này với
nhiều chi tiết hơn trong một phần sau: Khoa Học và Phật Giáo.
Trước hết, chúng ta hãy đi ngược
trở lại thời tiền sử. Khi đó con người cảm thấy yêu đuối và sợ
hãi trước thiên nhiên, từ những cơn bão tố sấm sét, những cuộc động
đất, lụt lội, những kỳ núi lửa phun ra nham thạch v..v.. những hiện tượng
con người khi đó không thể giải thích vì chưa đủ trí tuệ để hiểu.
Ngoài ra con người còn phải đối diện với trăm thứ bệnh tật, bất an
trong cuộc đời. Cho nên, thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy con người thời
đó nghĩ rằng, chắc những thiên tai, bệnh tật kể trên phải có một
nguyên nhân sâu xa nào đó nằm ngoài sự hiểu biết của họ, và họ đã
qui mọi hiện tượng thiên nhiên về hoạt động của những bậc siêu
nhiên mà họ gọi là Thần (Gods). (Người Ki Tô giáo gọi Thần của họ
(Christian God) là Thượng Đế hay Thiên Chúa. Trong cuốn sách này, để cho vấn
đề danh xưng đồng nhất và thích hợp, tôi gọi Thượng đế hay Thiên
Chúa của Ki Tô Giáo là Thần Ki-Tô.) Thí dụ, sét được coi như là những
lưỡi gươm của Thần giáng xuống nhân loại, sấm được coi như là tiếng
nói trong cơn thịnh nộ của Thần, những bệnh dịch tả, dịch hạch, vì
có tính truyền nhiễm nên làm chết hại nhiều ngàn người vì chưa có thuốc
phòng ngừa hay chữa chạy, cũng được coi như là họa của Thần giáng xuống
đầu con người để trừng phạt con người vì tội đã làm phật ý Thần.
Bởi vậy, tục lệ Tế Thần hầu như nơi đâu cũng có. Nhưng con người lại
không chịu dậm chân tại chỗ, cho nên ngày nay, chúng ta đã hiểu, và hiểu
rất rõ, bệnh tật từ đâu mà ra, tại sao có sấm, sét, và tiên đoán
được khi nào có sấm, sét và có ở đâu v...v... Do đó, những quan niệm
thuộc loại mê tín như Thần có thể ban phúc, giáng họa cho nhân loại là
những quan niệm đã lỗi thời, không phù hợp với những thực tế ở
ngoài đời.
Có thể nói, cách đây mấy ngàn năm,
mỗi nền văn hóa đều có một cách giải thích khác nhau về nguồn gốc
con người. Điểm chung của các quan niệm thuộc các nền văn hóa khác nhau
này là: có một vị Thần, hoặc dưới dạng người, hoặc dưới dạng
sinh vật, đã tạo nên vũ trụ và con người. Sau đây tôi sẽ lược duyệt
một số thần thoại, hay huyền thoại, hay truyền kỳ (myth) cũng như một
số thuyết khoa học về nguồn gốc con người và vũ trụ. Chúng ta cần
phân biệt huyền thoại và thuyết khoa học. Huyền thoại là những chuyện
được lưu truyền trong dân gian, do sự tưởng tượng của con người,
đưa ra những giải thích về thiên nhiên, lịch sử vũ trụ, thế gian, con
người, và thường đặt trọng tâm vào vai trò của những bậc siêu nhiên
được tạo thành theo trí óc, tưởng tượng của con người. Huyền thoại
không dựa trên căn bản luận lý, thực nghiệm cho nên đối với các huyền
thoại, con người hoặc tin hoặc không tin, hay theo lời Giáo Hoàng John Paul
II, giáo chủ của Gia Tô La Mã Giáo (Công Giáo), con người chỉ có thể hoặc
chấp nhận, hoặc chối bỏ. Nhưng chúng ta cũng phải công nhận là, tuy huyền
thoại là những chuyện giả tưởng, nhưng là giả tưởng có ý nghĩa, và
do đó có thể đáp ứng được khát vọng của con người về một vài
khía cạnh nào đó của cuộc sống, của những người đầu óc mộc mạc,
không quan tâm đến suy luận hay tìm tòi, dễ dàng thỏa mãn với những giải
đáp dễ dãi, những hứa hẹn hấp dẫn về một cuộc sống đời đời, với
một giá rất rẻ: chỉ cần tin vào một vị Thần và cho rằng vị Thần
này có khả năng cứu rỗi con người. Đối với những người này thì tin
là một cách sống chết, không cần biết, không cần hiểu (Đỗ Mạnh Tri
trong Ngón Tay và Mặt Trăng), một niềm tin đặc thù của những "bà
lão công giáo nhà quê" (Linh mục Thiện Cẩm). Trái lại, một thuyết
khoa học dựa trên sự quan sát sự việc, trên thực nghiệm và kiểm chứng.
Trong Phật Giáo, Thần chỉ giữ vai trò hộ Pháp, và những thành quả của
người theo đạo Phật là thuần túy dựa trên quán chiếu (quan sát sự việc
như chúng thực là như vậy), thực nghiệm và tự chứng.
Sự khác biệt đặc biệt nhất giữa
một huyền thoại và một thuyết khoa học là: một thuyết khoa học, tuy đã
được kiểm chứng là phù hợp với những dữ kiện, kết quả của những
nghiên cứu khoa học, những quan sát, những kết quả thực nghiệm v..v.. nhưng
luôn luôn dành chỗ cho những chống đối hay phản bác hợp lý và phù hợp
với những dữ kiện mới, khám phá mới. Cho nên một thuyết khoa học
không bao giờ được coi là chung cùng, mà chỉ có tính cách giai đoạn, chỉ
đúng cho đến khi có một thuyết mới chứng tỏ ngược lại hoặc chứng
tỏ thuyết cũ chỉ có một áp dụng giới hạn chứ không áp dụng được
một cách phổ quát. Trái lại, những người dẫn dắt con người tin vào một
huyền thoại, những người trong hàng giáo phẩm các tôn giáo độc Thần Tây
phương, lại khẳng định rằng những điều mình tin, không cần biết,
không cần hiểu, là những chân lý Thiên khải, và nhiều khi sử dụng đến
cả những phương cách bạo tàn như tra tấn, giết chóc, thiêu sống, chiến
tranh v...v... để ép buộc quần chúng cũng phải tin như vậy, tuy rằng lịch
sử đã chứng minh rằng những chân lý này là sai lầm và đã phải giải
thích lại nhiều lần, với tất cả những co dãn trong tiểu xảo vận dụng
ngôn ngữ. Đặc biệt là khi những tín điều nào, vì "bí đặc"
không thể giải thích được, thì giới lãnh đạo tôn giáo gọi đó là những
"bí tích", "nhiệm tích" v..v..., vượt ngoài sự hiểu biết
của con người.
Năm 1930, trong một bữa tiệc, khi nâng
ly chúc tụng Albert Einstein, cha đẻ của thuyết Tương Đối, đại văn hào
George Bernard Shaw đã phát biểu một câu rất ý nhị như sau:
"Niềm tin vào Thần Ki Tô giải
thích được mọi sự trong vũ trụ vật chất, do đó chẳng giải thích gì
cả... Tôn giáo (độc Thần) bao giờ cũng đúng. Tôn giáo giải đáp mọi vấn
đề và như vậy hủy bỏ mọi vấn đề trong vũ trụ... Khoa học đối
ngược hẳn lại. Khoa học bao giờ cũng sai. Khoa học không bao giờ giải
đáp một vấn đề mà không tạo ra thên mười vấn đề."
(Belief in God explains everything about
the material universe, therefore it explains nothing...Religion is always right, Religion
solves every problem and thereby abolishes problems from the universe.... Science is the
very opposite. Science is always wrong. It never solves a problem without raising ten more
problems (George Bernard Shaw in a toast to Einstein at a black-tie banquet in 1930))
Trong phần đầu của loạt bài viết
về Con Người & Vũ Trụ, tôi xin kể vài huyền thoại về nguồn gốc
con người và vũ trụ. Sự chọn lựa những huyền thoại này trong số
hàng trăm huyền thoại trên thế gian là có chủ ý, để cho quý độc giả
thấy rằng quan niệm về một vị Thần sáng tạo ra vũ trụ và muôn vật
muôn loài không phải là một quan niệm đặc thù của một tôn giáo nào đó
mà chúng ta vẫn thường tưởng lầm hay tin lầm như vậy.
I.- SƠ LƯƠ.C VÀI
HUYỀN THOẠI SÁNG TẠO ĐIỂN HÌNH:
1. 1. Huyền thoại
sáng tạo (creation myth) của dân Eskimo
Sinh vật đầu tiên ở trên thế
gian mà chúng ta biết có tên là Cha Quạ (Father Raven). Cha Quạ tạo ra mọi
đời sống trên trái đất, và là nguồn gốc của mọi thứ. Khởi thủy
Quạ vốn có hình người và là một bậc toàn năng, nhưng sau trở thành
con quạ.
Cha Quạ đột nhiên thức tỉnh tâm
thức và thấy mình đang nằm trong sự tối tăm. Cha không biết mình sinh ra
tự đâu và đang ở đâu. Mọi vật xung quanh đều tối đen nên cha không
nhìn thấy gì. Cha mò mẫm trong tăm tối nhưng chỉ cảm thấy toàn là đất
sét. Cha sờ lên mình lên mặt và thấy mình là một con người, một người
đàn ông. Ngoài ra, trên trán cha có một cái u cứng, cái u này về sau biến
thành cái mỏ quạ, nhưng lúc bấy giờ cha không biết được như vậy.
Cha Quạ bò trên đất sét để thám
hiểm xung quanh mình. Trong khi mò mẫm cha đụng phải một vật cứng, cha vội
chôn vật này xuống đất sét. Tiếp tục công cuộc thám hiểm đột nhiên
cha tới một bờ mé, nên cha quay trở lại. Bỗng nhiên cha nghe thấy tiếng
vù vù trên đỉnh đầu rồi một vật nhỏ bé đậu ngay lên tay cha. Dùng
tay sờ sinh vật nhỏ bé này cha biết nó là một con chim sẻ. Con chim sẻ
này đã hiện hữu nơi đây trước cha và tình cờ đậu vào tay cha trong tối
tăm. Cha không hề biết là có con chim sẻ ở đây cho đến khi nó đậu vào
tay cha.
Cha Quạ tiếp tục công cuộc thám
hiểm của mình và trở lại nơi cha đã chôn một vật cứng trước đây.
Vật cứng đó đã trổ rễ và mọc thành một bụi cây. Trên khoảng đất
sét xung quanh đó nhiều cây cỏ khác đã mọc lên. Cha cảm thấy mình cô
độc nên lấy đất sét nặn thành hình một người giống mình và chờ đợi.
Cái tượng đất sét này biến thành sống động và bắt đầu đào bới
mãi không thôi. Cái người mới này rất dễ nổi nóng và có nhiều thái
độ thô bạo. Cha Quạ không ưa người này nên kéo hắn ra chỗ bờ mé và
ném hắn xuống vực thẳm. Về sau con người bị ném xuống vực này trở
thành nguồn gốc của mọi sự xấu ác ở trên đời. Cha Quạ trở lại chỗ
bụi cây và thấy chúng đã trở thành một rừng câỵ Cha tiếp tục thám
hiểm mọi phía xung quanh mình nhưng phía nào cũng chỉ thấy toàn là nước,
trừ phía đã dẫn cha đến cái bờ mé kia. Trong khi đó thì con chim sẻ
luôn luôn bay trên đầu Cha Quạ, nên cha nhờ con chim sẻ bay xuống vực
quan sát tình hình dưới đó. Sau khi tham quan, con chim sẻ trở lại cho cha
biết là có một vùng đất mới ở dưới đó.
Cha Quạ và con chim sẻ ở trên một
vùng đất gọi là trời hay thiên đường (heaven). Vùng đất ở phía dưới,
cha gọi nó là trái đất (earth). Cha sờ nắn con chim sẻ và thấy nó có
cánh. Cha bèn lấy nhánh cây làm cho mình một đôi cánh giống như cánh của
con chim sẻ. Những nhánh cây biến thành cánh thật, và mình mẩy cha mọc
lông đen, cái u trên trán biến thành cái mỏ. Cha đã trở thành một con
chim lớn đen thui, và cha tự gọi mình là con quạ.
Con Quạ cùng con chim sẻ bay từ
trên thiên đường xuống trái đất, cả hai đều mệt lả sau chuyến bay.
Sau khi nghỉ ngơi cho khỏe khoắn, con Quạ trồng cây trên trái đất như là
đã trồng trên thiên đường, và rồi tạo ra giống người. Có người cho
rằng Quạ lấy đất sét tạo ra người cũng như đã từng làm ở trên
Thiên đường trước đó. Thế rồi Quạ tạo ra mọi sinh vật khác.
Sau khi tạo ra mọi sinh vật và
chúng tăng gia sinh sản trên trái đất, con Quạ mới triệu tập loài người
và bảo họ: Ta là Cha của các người. Nhờ có ta mà có các người và có
đất đai để mà sống. Các người không được quên ta, phải thờ phụng
ta. Rồi Quạ bay trở về Thiên đường.
Suốt thời gian sáng tạo trên, vũ
trụ hoàn toàn tối tăm. Bấy giờ con Quạ mới lấy những viên đá lửa
để tạo thành những ngôi sao, và một ngọn lửa lớn để soi sáng trái
đất. Đó là tại sao trái đất, loài người và mọi sinh vật khác hiện
hữu, nhưng trước khi tất cả những thứ trên hiện hữu thì đã có cha
Quạ rồi, và con chim sẻ lại hiện hữu trước cả Cha Quạ.
1. 2. Huyền thoại
sáng tạo của dân Ấn Độ
Ấn độ có nhiều huyền thoại về
nguồn gốc con người và vũ trụ. Theo Áo Nghĩa Thư (Upanishad) thì huyền
thoại sau đây được ghi vào khoảng 700 năm trước thời đại này:
Thoạt kỳ thủy, vũ trụ này chỉ
là cái Ngã (Self) dưới dạng người. Hắn (cái Ngã) nhìn xung quanh và
không thấy bất cứ gì khác nên kêu to lên: Chỉ có Ta; từ đó quan niệm
về cái Ta khởi giậy.
Rồi hắn cảm thấy sợ hãi. (Đây
là lý do con người sống cô độc thường hay sợ hãi). Nhưng rồi hắn suy
nghĩ: "Chỉ có một mình ta ở đây, vậy có gì mà phải sợ hãi?"
Và hắn hết sợ. (Con người sợ là sợ một cái gì đó).
Tuy nhiên, hắn không lấy gì làm
vui (sống cô độc thường không vui) nên muốn có bạn đời. Cái Ngã này
bèn tự phân ra làm hai phần, và từ đó cặp tình quân và tình nương đầu
tiên được sinh ra, và nhân loại sinh ra bắt đầu từ đó.
Nhưng sau đó nàng suy nghĩ: "làm
sao mà chàng ngẫu hợp với ta được vì ta chính là một phần của chàng?
Vậy thôi ta hãy trốn đi cho rồi." Để trốn chàng, nàng biến thành
con bò cái. Chàng bèn biến theo thành con bò đực, và từ đó các loài
trâu bò xuất hiện. Rồi nàng biến thành con ngựa cái, con lừa cái, con
dê cái v..v.. và chàng biến theo thành những con đực để cặp đôi với
nàng. Từ đó tất cả các sinh vật trên thế gian, từ những sinh vật lớn
cho đến những con sâu con kiến, xuất hiện. Thế rồi chàng ý thức được
rằng chàng chính là đấng sáng tạo vì khởi thủy của mọi vật chính
là chàng. Từ đó sinh ra quan niệm về sáng tạo.
1. 3. Huyền Thoại
Sáng Tạo Ba-Tư (Huyền thoại Zoroaster)
Zoroaster là tên Hi Lạp của nhà
tiên tri Ba Tư Zarathustra, sống ở Ba Tư vào khoảng 1500 năm trước thời đại
chung hay thời đại thông thường (common era: C.E.). Ngày nay, đa số học giả
dùng chữ trước Thời Đại Thông Thường (B.C.E.) và Thời Đại Thông Thường
(C.E.) thay cho những danh từ tôn giáo B.C (Before Christ) và A. D (Anno Domino),
những danh từ đã trở thành lỗi thời trong một thế giới đa nguyên, đa
tôn giáo. Để cho dễ hiểu tôi dùng chữ Tây Lịch (TL) thay cho Thời Đại
Thông Thường. Vậy, TTL có nghĩa là Trước Tây Lịch.
Huyền thoại Zoroaster không tin vào
một vị Thần toàn năng, sáng tạo ra muôn loài, muôn vật, vì cho rằng
quan niệm toàn năng đưa đến một nghịch lý: Nếu Thần toàn Thiện thì
Thần không thể toàn năng, vì Thần bất lực trước sự hiện hữu của
những sự xấu ác trên thế gian; và nếu Thần toàn năng thì Thần không
thể toàn Thiện, vì Thần dung dưỡng những sự xấu ác ở trên đời. Cho
nên, huyền thoại Zoroaster quan niệm có hai vị Thần riêng biệt, ông Thiện
làm chủ những việc thiện, tốt, và ông Ác làm chủ những việc xấu,
ác.
Theo huyền thoại Zoroaster thì đấng
sáng tạo là Ahura Mazda, về sau được biết dưới tên Ohrmazd. Thần Ohrmazd
đã hiện hữu từ muôn thuở, trên Thiên Đường, trong ánh sáng và tính
thiện. Còn vị Hung Thần, Angra Mainyu, sau được biết dưới tên Ahriman, ngự
trị ở dưới trần, trong tối tăm và vô minh. Thoạt kỳ thủy, Ohrmazd tạo
ra những Thiên Thần trên Thiên đường rồi sau đó tạo ra vũ trụ như là
một cái bẫy để nhốt những sự xấu ác. Trong vũ trụ, Thần Ohrmazd tạo
ra thế giới tâm linh trước rồi thế giới vật chất sau. Vũ trụ của Thần
có hình dạng của một quả trứng, trái đất bập bềnh ở giữa. Trái đất
có dạng của một cái đĩa dẹt. Thần Ohrmazd cũng tạo ra con người hoàn
hảo, Guyomard, và con bò rừng nguyên thủy, con bò này là nguồn gốc của mọi
súc vật và cây cỏ. Trong khi đó thì Ác Thần Ahriman bận bịu tạo ra những
con vật đáng ghê như rắn rết và kiến.
Bản tính của Ahriman là phá hoại
cho nên hắn tấn công những tạo vật của Ohrmazd. Hắn len lỏi vào vũ trụ
theo đường chân trời. Hắn thả những tạo vật của hắn ra tấn công
con người và con bò rừng, tạo nên sự đau khổ và chết chóc. Nhưng khi hắn
và những tạo vật của hắn rời khỏi vũ trụ thì hắn thấy lối ra đã
bị bít kín và không có cách nào thoát ra được. Con bò rừng sinh ra những
mầm giống từ đó nảy nở ra những súc vật và cây cỏ. Từ hạt giống
người mọc lên một cái cây, lá của cây này trở thành cặp nam nữ đầu
tiên. Cái ác nay đã bị mắc bẫy trong vũ trụ, do đó Thiện và Ác tiếp
tục chống nhau trong suốt dòng lịch sử kể từ khi mọi vật được sáng
tạo.
- 1. 4. Huyền Thoại Sáng Tạo
Do Thái - Ki Tô
- (Judeo-Christian Creation Myth)
Huyền thoại sáng tạo Do Thái - Ki
Tô là kết quả cóp nhặt, pha trộn của nhiều huyền thoại sáng tạo dân
gian. Do đó, huyền thoại sáng tạo Do Thái - Ki Tô không có gì đặc biệt
và đáng tin hơn các huyền thoại sáng tạo khác. Tuy nhiên, vì Ki Tô Giáo
đã bành trướng mạnh trên thế giới bằng gươm giáo, súng đạn với chính
sách xóa bỏ những nền văn hóa khác, tín ngưỡng khác, cưỡng bách cải
đạo v...v... do đó đã tiến tới địa vị bá chủ ở Âu Châu trong hơn
1500 năm, cho nên hiện nay có nhiều người tin vào huyền thoại này, vào
khoảng từ 25 đến 30% dân số trên thế giới, hơn 70% số người này thuộc
các quốc gia kém mở mang nhất trên thế giới như ở Phi Châu, Châu Mỹ La
Tinh, Nam Mỹ, Phi Luật Tân và ở vài cộng đồng nhỏ ở Á Châu. Vì huyền
thoại này là niềm tin của khoảng 7% dân Việt Nam theo Gia Tô La Mã Giáo
cho nên tôi sẽ trình bày với nhiều chi tiết hơn và kèm theo vài lời nhận
xét về huyền thoại này. Những lời nhận xét này không có mục đích
bác bỏ một niềm tin tôn giáo mà chỉ đưa ra để độc giả thấy sự khác
biệt và tiến triển của trí tuệ con người qua các thời đại, từ xưa
tới nay.
Huyền thoại sáng tạo Do Thái - Ki
Tô được viết trong Thánh Kinh Ki Tô, Cựu Ước, chương 1 và 2 của quyển
đầu: Sáng Thế Ký, trong hai chương này chúng ta nên để ý là có hai huyền
thoại sáng tạo hoàn toàn khác nhau. Vì chương Sáng Thế trong Cựu Ước
được coi như là những lời mặc khài của Thần Ki-Tô đọc cho Moses viết
nên không thể sai lầm, cho nên khi đọc Thánh Kinh chúng ta không biết phải
tin huyền thoại sáng tạo nào, huyền thoại trong chương 1 hay huyền thoại
trong chương 2? Đối với những người có đầu óc phân tích với chút ít
luận lý thì khi chúng ta không có căn bản nào để quyết định chọn huyền
thoại nào trong hai huyền thoại trên, chúng ta phải loại bỏ cà hai. Nhưng
đối với những tín đồ Ki Tô Giáo thì đây lại là một vấn đề khó
giải quyết vì họ không có cách nào trả lới cho suôi một số câu hòi:
tại sao cả hai huyền thoại đều là những lời mặc khải của Thần Ki
Tô mà lại hoàn toàn khác nhau? Vậy có thật đó là những lời mặc khải
của Thần Ki-Tô không? Nếu không phải, thì những huyền thoại đó có đáng
tin hay không? Tại sao lại đáng tin và phải tin huyền thoại nào? Ngày nay,
các học giả đã đồng thuiận ở một điểm: Cựu Ước không phải là
những lời của Thần Ki Tô "mặc khải" cho Moses, và Ngũ Kinh, năm
quyển đầu trong Cựu Ước, không phải là Moses viết mà là do bốn môn
phái khác nhau trong xã hội Do Thái viết trong vòng mấy trăm năm sau khi
Moses chết.
Để cho vấn đề thêm sáng tỏ,
tôi xin tóm tắt hai huyền thoại sáng tạo trong Cựu Ước:
Theo Sáng Thế 1 thì con người và vũ
trụ gồm mọi vật trong đó được Thần Ki-Tô tạo ra trong 6 ngày như sau:
- Ngày thứ nhất: Tạo ra ánh
sáng, chia ánh sáng ra làm hai phần: sáng và tối, gọi phần sáng là ban
ngày, phần tối là ban đêm. Đó là ngày thứ nhất, gồm có buổi sáng
(morning) và buổi tối (evening).
Theo Thánh Kinh thì Thần Ki-Tô tạo
ra ánh sáng bằng một lời phán: "Có ánh sáng nè", ánh sáng liền
hiện ra. Ngày nay ai cũng làm được. Chỉ cần nói: "có ánh sáng
nè" và tay bật một công-tắc điện là có ngay ánh sáng. Chỉ phiền một
điều là khi Thần sáng tạo ra thế giới, Thần không biết điện là gì
cho nên chúng ta không hiểu Thần tạo ra ánh sáng loại nào. Và rồi Thần
chia ánh sáng đó ra làm hai phần, sáng và tối, gọi phần sáng là ngày và
tối là đêm. Thần gọi ngày và đêm bằng tiếng nước nào, tiếng Hi Lạp,
Do Thái hay tiếng Lèo, và tại sao lại gọi bằng tiếng nước đó.
Mặt khác, ngày và đêm chỉ có nghĩa
đối với con người trên trái đất, và tùy thuộc vị trí của mặt trời
đối với trái đất. Thí dụ, ở bên Mỹ (tùy nơi) là 12 giờ đêm thì
ở Việt Nam đã là trưa ngày hôm sau. Cho nên, chúng ta không thể có một
ý niệm nào về ngày và đêm nếu không có mặt trời và chuyển động biểu
kiến (có nghĩa là trông thấy vậy mà không phải vậy) của mặt trời đối
với trái đất. Thời gian mặt trời soi sáng phần nào của trái đất thì
ở đó ta gọi là ngày. Khoảng thời gian không có ánh sáng mặt trời chiếu
vào thì gọi là đêm. Do đó, không ai có thể chia ánh sáng mặt trời
thành hai phần, sáng và tối, vì mặt trời là một khối lửa vĩ đại, luôn
luôn tỏa chiếu ánh sáng. Trí tuệ của những người viết Cựu Ước
chưa đạt đến trình độ để hiểu những hiện tượng trong vũ trụ cho
nên viết là Thần Ki Tô chia ánh sáng làm hai phần sáng và tối. Chưa kể
là trong ngày thứ nhất, Thần Ki Tô chưa tạo ra mặt trời, mặt trăng, sao
v...v..., cho nên cái ánh sáng Thần Ki Tô tạo ra là loại ánh sáng nào. Đó
chẳng qua chỉ là cái "ánh sáng bán khai" của trí tuệ con người
thời đó, cách đây khoảng từ 2500 đến 2900 năm, thời gian 400 năm bốn môn
phái Jehovah (J), Elohim (E), Deuteronomy (D), và Priest (P) dùng để viết Ngũ
Kinh mà "người ta" vẫn rao giảng là do Thần Ki Tô mặc khải cho
Moses viết..
- Ngày thứ nhì: Dựng nên một
vòm (firmament) và gọi là Trời (Heaven).
Muốn hiểu vòm Trời trên có hình
dạng ra sao, chúng ta hãy đọc lời giải thích của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ,
một tín đồ Gia Tô trong khoảng 30 năm hồi thiếu thời, viết trong bài "Ít
Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa Giáo", đăng trong cuốn Tại Sao Không
Theo Đạo Chúa, Tập I, trang 16:
"The New Jerusalem Bible của
Công Giáo dịch là Vault (vòm), và chú rằng người dân Semites xưa coi cái
vòm trời đó cứng chắc, có thể giữ nước ở phía trên, không cho rơi
xuống trần gian. Nó hình nửa vòng cầu, hoặc như cái chảo úp, như ta
thường trông thấy. Nó chắc chắn là phải hết sức cứng vì có thể chứa
được một số nước khổng lồ bên trên. Vòm trời đó, theo Job, đã được
đúc bằng "đồng thau" (Job 37:18). Vòm đó có những cửa. Khi muốn
có Hồng Thủy, những "cửa trời" dó sẽ được mở ra cho nước
trên trời tuôn xuống (Gen 7:11)...Cung đình Chúa và tòa ngôi ngài đặt trên
vòm trời đó (Psalm 11:4), vì Sáng Thế Ký đã định nghĩa cái vòm đó là
"trời" (Gen 1:8).
Chúa Giêsu cũng xác quyết Chúa Cha
ở trên đó, khi Ngài dạy cầu xin: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời (Mat.
6:9). Thánh Joan dạy rằng lúc thế mạt vòm trời đó sẽ bị cuộn lại,
cuốn đi, như một trang sách (Rev 6:14). Chúng ta cũng nên nhớ rằng vòm trời
đó có nhiều cột chống đỡ (Job 27:11); và trái đất cũng có nhiều cột
chống đỡ (Job 9:6). Đất đã được Chúa đặt vững trên mặt nước
(Psalm 136:6). Đất muôn đời đứng yên một chỗ (terra in aeternum stabat,
Vulgate, Eccl. 1:4)."
Đó là cái vòm trời được mô tả
trong Thánh Kinh. Ngày nay, với những khám phá của khoa học, một em học
sinh nhỏ tuổi cũng có thể biết ngay đó là những chuyện hoang đường nhất
trong những chuyện hoang đường, viết bởi những người có trí tuệ của
thời bán khai, và chương Sáng Thế trong Thánh Kinh Cựu Ước không phải
là những lời mặc khải của một Thần Ki-Tô toàn trí toàn năng đọc cho
Moses viết.
- Ngày thứ ba: Phân tách riêng nước
và đất khô dưới vòm trời, gọi vùng đất khô là Trái Đất (Earth) và
vùng nước là Biển (Sea). Rồi tạo dựng nên cây cỏ trên trái đất.
Vậy thì trước khi phân tách riêng
đất với nước, trái đất này toàn là bùn cả? Nghĩa là khởi đầu Thần
Ki-Tô sáng tạo ra toàn bùn. Có thể đúng vì cho tới ngày nay trên thế giới
vẫn còn rất nhiều ma bùn tin ở một vị Thần toàn trí toàn năng sáng tạo
ra toàn bùn. Cây cỏ trên trái đất sống nhờ màu mỡ của đất đai và
ánh sáng mặt trời hay ánh sáng nhân tạo. Không có ánh sáng cây cỏ không
thể nào sống được. Khi đó, chưa có mặt trời, ánh sáng của đèn điện
cũng chưa có, làm sao cây cỏ sống được?
- Ngày thứ tư: Tạo nên mặt trời,
mặt trăng, và sao.
Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ giải thích:
"Mặt trăng, mặt trời và
các vì sao được gọi bằng một danh từ hết sức khiêm tốn là "đèn
đóm" (xem Kinh Thánh - Nguyễn Thế Thuấn Gen 1:17) - đều nương vào vòm
trời đó (Gen 1:17), y như những ngọn đèn treo trên trần nhà. Những ngọn
đèn đó dĩ nhiên là nhỏ xíu, vì lúc thế mạt - mà cách đây 2000 năm -
Chúa Giêsu đã chủ trương là "sắp tới đây", tinh tú sẽ rụng
xuống trần gian như những quả vả chín rơi rụng khi cây vả bị dập
vùi trong một trận cuồng phong (Rev 6:13)." (Tác giả xin nhắc độc
giả rằng: Mặt trời là một khối cầu lửa vĩ đại, đường kính vào
khoảng 1 triệu 3 trăm 85 ngàn cây số (866.000 miles), và so với nhiều vị
sao thì kích thước của mặt trời không đáng kể)
Mặt khác, khoa học ngày nay đã chứng
minh rằng, không thể có trái đất trước mặt trời. Một lần nữa, chúng
ta lại thấy rõ mức độ hiểu biết về nhân sinh vũ trụ của những người
viết Thánh Kinh.
- Ngày thứ năm: Tạo nên những
sinh vật dưới nước và trên không.
- Ngày thứ sáu: Tạo nên thú dữ,
gia súc, sâu bọ v...v... và người nam, người nữ, theo đúng hình ảnh của
Thần.
- Ngày thứ bảy: Nghỉ.
Trên đây là huyền thoại sáng tạo
trong chương Sáng Thế 1. Sang đến chương Sáng Thế 2, huyền thoại sáng tạo
hoàn toàn khác biệt. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ tóm tắt huyền thoại sáng tạo
trong chương Sáng Thế 2 như sau, Ibid., trg. 17:
"Thoạt kỳ thủy khi Chúa dựng
nên trời đất, thì trái đất còn hoang vu. Chúa bèn lấy bụi đất mà dựng
nên ông A Đam rồi thổi sinh khí vào hai lỗ mũi ông cho ông thành người sống
động. Sau đó dựng nên một cái vườn cho ông ở, và lúc ấy mới dựng
nên cây cối. Sau đó, muốn cho ông có một bạn (đời) xứng đáng nên đã
dựng nên các loài vật, và các chim trời, và đem chúng lại cho ông đặt
tên. A Đam chê chẳng tìm được bạn (đời) nào thích hợp. Chúa bèn cho
ông ngủ đi và lấy một khúc xương sườn của ông để tạo dựng nên
bà E Và.
Ta nhận thấy trong chương hai này
không có nói dựng nên mặt trời mặt trăng gì cả, mà lấy con người làm
trọng tâm. Trong chương này, Chúa dựng nên con người trước rồi mới dựng
nên cây cối và vạn vật sau. Sánh hai chương trên, ta đã thấy một sự
mâu thuẫn quá lớn lao. Không có lý nào mà Ngũ Kinh do Chúa đọc cho một tác
giả duy nhất là Moses chép, khi mô tả cùng một công chuyện tạo dựng, lại
có thể khác nhau đến như vậy."
Trên đây tôi đã tóm lược vài
huyền thoại trên thế gian. Chúng ta thấy rằng, bản chất những huyền
thoại trên đều như nhau, không có huyền thoại nào đáng tin hơn huyền
thoại nào. Do đó, ai muốn tin vào huyền thoại nào thì tin. Con người căn
trí bất đồng nên lòng tin của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc vào trí
tuệ và mức độ hiểu biết của mỗi cá nhân. Trong ánh sáng của khoa học
với những sự kiện không ai có thể phủ bác thì những huyền thoại kể
trên không có bất cứ một căn bản thuyết phục nào. Tuy nhiên, thực tế
là ngày nay vẫn còn khoảng một phần tư dân số trên thế giới tin vào
huyền thoại Do Thái - Ki Tô. Sở dĩ như vậy vì đó là hậu quả của
sách lược bành trướng Ki Tô Giáo trên thế giới, một sách lược dựa vào
cường quyền và bạo lực để tiêu diệt các tín ngưỡng khác, phá hủy
các nền văn hóa phi Ki-Tô, mê hoặc những đầu óc kém hiểu biết vào
trong niềm tin Ki Tô Giáo. Trong những xã hội Ki Tô, do sách lược trên, đầu
óc con người bị điều kiện hóa, lâu đời trở thành những truyền thống
địa phương. Với đà tiến bộ của nhân loại ngày nay, và trước những
khám phá mới của khoa học, niềm tin vào huyền thoại Do Thái - Ki Tô này
đang suy giảm dần dần khắp mọi nơi trên thế giới.
Trong những phần tiếp theo, tôi sẽ lần lượt
trình bày cùng quý độc giả về:
- Nguồn Gốc Vũ Trụ (Thuyết Big Bang)
- Nguồn Gốc Con Người (Thuyết Tiến Hóa của
Darwin)
- Phật Giáo và Khoa Học
http://www.buddhismtoday.com/viet/kh/011-nguongocvutru.htm