-
NHẬP THẾ
GIAN
-
(Hay: vũ
trụ quan trong đạo Phật)
-
Nguyên Thảo
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức
Phật có thuyết:
"Chơn tâm này, cũng tức
tất cả pháp; tức là tâm; tức là đất, nước, gió, lửa và hư không; tức là
nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý; tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;
tức là nhận thức giới cho đến ý thức giới; tức Tứ đế; tức Thập nhị nhân
duyên; tức là Lục độ; tức là Phật và bốn đức Niết bàn. Nói tóm lại, Chơn
tâm tức là tất cả Pháp thế gian và Xuất thế gian". (Phật Học Phổ Thông
VI-VII, Thích Thiện Hoa, trang 138-139).
Như vậy "Chơn tâm" là đầu
nguồn của mọi vấn để, cũng là cái cuối cùng của vòng đi và đến trong
toàn bộ triết thuyết Đạo Phật gồm cả Nhân sinh quan và Vũ trụ quan.
"Chơn Tâm tức là tất cả
Pháp Thế gian và Xuất Thế gian".
Trước khi bàn đến Xuất Thế
gian: Tức là bàn đến các vấn để gút mắt giải thoát hay các cách, các
pháp hướng về Niết bàn, thiết tưởng chúng ta cũng cần tìm hiểu về cách
nào mà chúng sinh đã "Nhập" vào thế gian để phải chịu nhiều khổ đau hệ
lụy, chìm đắm trong "bể khổ mênh mông".
Nhưng, đầu tiên chúng ta
cũng cần nên có "Một cái nhìn" mới về Đạo Phật trong thời đại hiện tại,
khi khoa học đã có nhiều tiến bộ với những bước dài về không gian, điện
tử, vi tính, tin học, y khoa, vật lý, hóa học, vũ trụ... Để từ đó chúng
ta có thể thấy "Đạo Giác Ngộ" (Đạo Phật) là thành tựu do phát triển tột
cùng của Tâm thức con người, chúng sanh; Tâm thức ấy đã đạt được đến
Chân lý, và từ Chân lý đó người ta có thể giải thích vũ vũ trụ, con
người, chúng sanh và những hiện tượng huyền bí, kỳ diệu của cuộc sống
trong thế gian nầy; chứ không như người ta đã có những khái niệm một
cách bi quan về Đạo Phật như trước kia.
Chúng tôi sẽ cố gắng trình
bày một số điểm sau đây để chúng ta cùng lược qua:
I-
Thay đổi "một cái nhìn" về Phật giáo:
- Từ xưa, người
ta thường hay nhìn vào Phật giáo như là một Tôn giáo bi quan, đó là đứng
trên một quan điểm thiển cận và khiếm khuyết, tự tạo cho mình cái khuyết
tật về một cái nhìn, vì Đức Phật không phải nêu lên những cái khổ để rồi
chúng sinh phải biết hoặc cảm nhận là mình khổ. Đức Phật nói đến các sự
khổ mà chúng sinh loài người đã nhận lãnh, rồi sau đó Ngài cũng phân
tích đến "nguyên nhân" của sự khổ cùng đưa ra cách "diệt khổ" và phương
thức để thoát khỏi vòng khổ bằng con đường đạo: "Đạo đế". Thì như vậy,
Đạo Phật không phải là "một Đạo bi quan" mà là "rất tích cực" đưa con
người, chúng sinh đến "con đường vui, thoát khổ".
- Quan niệm sai lầm thứ hai:
Đạo Phật không phải là Đạo riêng của những người Phật tử, mà Đạo Phật
phải nói là Đạo của loài người, của mọi loài chúng sinh; là một "Đạo
Giác Ngộ" của tất cả các loài có sự sống trong ba cõi (Dục giới, Sắc
giới và Vô sắc giới), sáu nẻo Luân hồi (Thiên, A-Tu-La, Nhân, Địa ngục,
Ngạ quỷ, Súc sinh), nhằm đưa Tâm thức của các loài rời cơn "mê muội" mà
trở về "Cội nguồn" bằng sự giác ngộ hầu thoát khỏi "bể khổ mênh mông".
- Đạo Phật không phải là
Đạo do lòng tham ái, vinh danh của Giáo chủ sáng lập, nhằm tập hợp những
con người theo đạo phải sùng bái Giáo chủ như là Thần, Thánh thay thế
cho Đấng Tối Cao thần thoại nào đó; Hoặc được sản sinh do lòng tự ái của
dân tộc; hay "rắp tâm" đưa dân tộc mình thực hiện mộng bá quyền bằng
quyền lực Tôn giáo. Mà Đạo Phật phát sinh từ một sự từ tâm, thương yêu
tất cả mọi chúng sinh và hướng dẫn đưa chúng sinh thoát khỏi các sự khổ,
tìm đến được bến bờ yên vui.
Không có một chủ thuyết "Đại
Đồng" nào bằng sự "đại đồng" trong Phật giáo.
- Đạo Phật sản sinh từ sự
thực nghiệm, chứng thực của một con người; Con người siêu nhân đó đã dám
từ bỏ sự giàu sang, phú quý để sống đời đạo hạnh, gian khổ, tìm con
đường giải thoát nhằm hướng dẫn mọi loài đến con đường giác ngộ và giải
thoát mà chỉ tự xưng là Đạo sư.
- Đạo Phật phát triển bằng
con đường hòa bình, nhân ái , không hề dọa dẫm, dụ dổ, mua chuộc hay
dùng quyền lực hoặc theo một chủ nghĩa thực dân, đế quốc nào để bành
trướng trên 2,500 năm: Nhân từ để giác ngộ muôn loài.
- Đạo Phật không đưa tín đồ
vào sự mê muội, tin theo. Tín đồ không phải "nhắm mắt, đờ đẩn" làm theo
điều chỉ dạy và chịu những trói buộc do Giáo hội đặt ra. Đạo Phật cũng
không đào tạo những con người học thức, khoa bảng mà đầu óc lại u mê,
thao túng giáo hội và đầy quyền lực với tín đồ; mà những người tu hành
trong đạo Phật tự mình tinh tấn trên đường tu, vừa giác ngộ cho mình (tự
giác), đồng thời giúp người khác giác ngộ (giác tha).
- Giáo lý Đức Phật nói ra
là những điều chứng thực trong thiền định, tĩnh tâm của Ngài, là một con
đường đã được kiểm chứng. Nếu ai cũng làm như Ngài thì sẽ đạt đến mức độ
như vậy, thế cho nên Ngài mới nói: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là
Phật sẽ thành". Đó là một sự bình đẳng "tuyệt đối" giữa Ngài và chúng
sinh!
- Đức Phật thể hiện cho "một
con người Thánh thiện hoàn toàn", không phải là con người có những điểm
ác độc đại diện cho một "Đấng" độc ác nào đó từ thần thoại sinh ra.
- Giáo lý Đức Phật mang đầy
đủ tính Triết lý nhân sinh với tính nhân bản, khai phóng; đầy đủ tính
cách Tôn giáo bằng sự cứu rỗi cho mình, cho người; giải thoát khỏi sự
khổ đau, tìm về cõi thanh tịnh an vui; đầy Thiện tâm với Tứ vô lượng tâm;
và mang tính luận lý, khoa học, biện chứng qua các dẫn chứng, ví dụ
trong kinh điển, những điều khoa học đó mà đến ngày nay khoa học tiến bộ
phải công nhận là đúng.
- Các kinh điển của Phật
giáo có hai công dụng: Một là tìm trong đó để hiểu, tìm thấy phương cách
thực hành vì đạo Phật là đạo thực hiện con đường giải thoát. Hai là lấy
những điều trong kinh điển để kiểm nghiệm lại điều mình đã chứng được
trong khi thực hiện để "đi đúng con đường".
- Kinh điển của Đạo Phật do
Đức Phật thuyết về những cảnh giới, những hiểu biết và những đạt được để
thực hành chứ không phải là những câu chuyện suông đầy tính chất hoang
đường, thần thoại như "các chuyện mơ mộng, thần tiên, huyễn ảo, thiếu
thực tế để mê hoặc những "đầu óc trẻ con".
- Qua đó, Đức Phật cũng
trình bày lại những chứng nghiệm, nhận thức chính mình đã đạt được, giải
thích và chỉ cho chúng sinh bằng cách nào để đạt được đến mục tiêu ấy.
Bởi thế, Ngài chỉ là một Đạo sư, chứ không nhân danh cho "Một Đấng Tối
Cao" nào cả để vinh danh cho chính mình như người thế gian thường hay
làm. Nhân cách khiêm tốn ấy khó tìm được ở bất cứ một giáo chủ hay ở một
tôn giáo nào khác. Tính cách "độc tôn thần quyền" là một sự độc tài
trong tâm thức, bắt buộc các tín đồ chìm đắm vào u mê, mê muội phải cúi
đầu vâng theo, dù giáo chủ đang đưa đám tín đồ ấy đi vào địa ngục. Và
những "thừa hành trí thức" như những tay sai mang đầy tội lỗi và ác tính,
nhưng cũng không kém "bản chất mê muội" của thế gian nầy.
Đạo Phật có nhiều đặc điểm
khác với các Tôn giáo khác. Vì thế, ta không thể lấy mô hình chung của
các tôn giáo ấy mà nhìn, hay nhận xét về Đạo Phật. Nếu vậy, ta sẽ sa vào
sự "mê lầm", điều mà Đức Phật không muốn người nào, hay chúng sinh nào
phải bị như thế cả. Vì Phật là giác ngộ, "Đạo Phật" là "Đạo Giác Ngộ",
đạo giúp chúng sinh xa lìa u mê để tìm về con đường giải thoát thoát
khỏi sự khổ và đến cõi "an vui thường hằng".
II-
Chơn Tâm và Vũ Trụ:
Trên tinh thần tìm hiểu và
trao đổi, trong bài nầy chúng tôi sẽ đóng góp những điều hiểu được qua
các lời giảng của Đức Phật nói về Vũ trụ và Chơn tâm.
Thành thật mà nói, chúng
tôi rất thích thú về chữ Phật với cái nghĩa là "Giác Ngộ" của nó; cho
nên đôi khi chúng tôi hay dùng Đạo "Giác Ngộ" thay thế cho tiếng Đạo "Phật".
Vì "giác ngộ" mới nhắc nhỡ cho mình nhớ đến con đường thoát khỏi u mê,
trở về với bản giác để tìm được Chơn tâm. Ai cũng có tâm thức, ai cũng
có linh hồn thì tìm lại được linh hồn, tâm thức chơn thực, sáng suốt của
chính mình lại chẳng là nhờ vào sự tĩnh thức, giác ngộ ấy ư?
Rồi chúng tôi nhớ lại Đức
Phật Thích Ca cũng là một con người bằng da bằng thịt như thân thể của
chúng tôi, của tất cả mọi người, Ngài không khác với ai cả. Ngài cao
thượng hơn vì dám bỏ cung vàng điện ngọc, giàu sang phú quí, vợ đẹp con
ngoan để sống đời đạo hạnh; tìm đường giải thoát mà người khác không dám
làm. Ngài cũng phải vất vả tìm thầy học đạo trong thời gian sáu năm dài.
Cuối cùng, Ngài tuyệt vọng trở về núi Koda "ngồi dưới gốc cây Bồ Đề mà
thề rằng: "Nếu ta không thành đạo, thì dù thịt nát xương tan, ta cũng
quyết không đứng dậy khỏi chỗ này". Với chí hùng dũng cương quyết ấy,
sau 49 ngày tư duy, Ngài thấu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh và
chứng đạo Bồ Đề" (Phật học Phổ thông khóa I, Thích Thiện Hoa, trang 19).
Đức Phật từ con người đơn
thuần như chúng ta đã chứng ngộ được phần sáng suốt của tâm linh, thấu
đáo toàn vũ trụ thì chúng ta chắc chắn "phải" không khác, nếu chúng ta
cũng thực hành và quyết tâm như vậy. Đó là điều mà chỉ trong đạo Phật
mới có mà thôi! Qua biết bao nhiêu kinh điển, phương pháp; Đức Phật cũng
chỉ nhằm hướng dẫn chúng sanh, con người thấy được con đường giải thoát
cho chính mình. Ngài đẫ chịu khó đi nhiều nơi giảng giải cái phương pháp
giải thoát, rời khỏi khổ đau ấy. Ngài khẳng định mọi người đều có khả
năng "thành Phật", chỉ là trước sau do nơi ngộ trước hoặc sau mà thôi!
Thế qua sự thành đạo, Đức
Phật đã nói thế nào về chơn tâm, vũ trụ và thế giới? Mời quý vị lược qua
những đoạn kinh mà chúng tôi trích dẫn từ bộ Phật Học Phổ Thông (PHPT)
của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa.
Để dễ hiểu, trước hết chúng
tôi xin tóm lược một cách khái quát những điều mà Đức Phật đã thuyết về
giai đoạn "tâm thức" của chúng sanh trước khi bước vào giai đoạn luân
hồi:
"Không biết tự thuở nào (vô
thỉ) trong vũ trụ bao la, mênh mông, không có biên giới, ngằn mé (vô
biên), có 7 yếu tố lớn (7 Đại) hòa lẫn với nhau, cùng khắp (viên dung là
Hư không, Đất, Lửa, Gió, Nước, Kiến đại (kiến đại bao gồm cái thấy, nghe,
hay, biết và các giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) cùng Thức tâm
(tâm của mọi chúng sinh).
Trong thuở đó, Tâm của mỗi
chúng sinh đều có tính chất tự chiếu sáng, yên lặng (tịch tịnh), không
bị cản trở ngăn ngại (vô ngại), do đó muốn thân mình lớn tràn khắp vũ
trụ (đồng nghĩa với hư không) cũng được, mà nhỏ như hạt bụi thật nhỏ (vi
trần: Hạt bụi không thể chẻ nhỏ nữa được) cũng được; tức là muốn lớn
được lớn, muốn nhỏ được nhỏ nhưng tính chất vẫn không thay đổi và không
tâm thức nào cản sự trương lớn của tâm thức nào cả, và cũng không hề lẫn
lộn với nhau giống như ánh sáng của những ngọn đèn đặt kế bên nhau ở
trong phòng: Cùng chiếu sáng khắp phòng nhưng không lộn lạo với nhau.
Chúng cũng không phân biệt, đối xử (đối đãi) với nhau, đó là điều mà Đức
Phật gọi là "Bất nhị" (không hai), tức là không phân biệt ta, người,
chúng sanh; không hề phân biệt tốt xấu, thiện ác, lớn nhỏ, cao thấp...
mà trong triết học gọi là triết lý nhị nguyên.
Thế rồi, vì do sự không
biết (vô minh) của các tâm thức về điều kiện ấy là điều tốt nhất, để rồi
các tâm thức đã nảy ra sự phân biệt, đối xử khác nhau, vọng thấy (vọng
tâm) thấy có ta, có người, có cái khác; và thấy có thân xác là cần thiết
cho nên trong vũ trụ đã biến động lớn lao: Các tâm thức mượn các đại "đất,
lửa, gió, nước" kết hợp lại tạo thành thân xác (cho nên thân xác được
Đức Phật coi là giả tạm, không phải là chính của mình, là vô thường; mà
thức tâm mới là thân thật (chân thân, chân tâm), và mượn kiến đại (thấy,
nghe, hay, biết, mắt tai mũi lưỡi thân ý) để làm các giác quan, các thức.
Từ đó, sự viên dung các đại
không còn nữa: Cái kết hợp có hình tướng, hình thể gọi là thế giới, còn
khoảng trống giữa các thế giới gọi là hư không. Cái không thuộc về thế
giới, hư không thì gọi là chúng sinh.’Khi đã có sanh thì tất có diệt’,
do đó con người, chúng sinh có sanh ra thì sẽ lớn lên và có chết; có
thân xác thì có bệnh vì vậy mà có ‘sanh, lão, bệnh, tử’; về vật chất thì
có ’sanh, trụ, dị, diệt’ (sanh ra, lớn và đứng lại, biến đổi rồi mất đi);
về hiện tượng thì? có ‘thành, trụ, hoại, không’ (được thành lập, tăng
trưởng đến mức nào đó rồi đứng lại, và sau cùng bị tan vỡ mất đi trở về
với hư không); để rồi lại biến thành một cái khác. Đó là ‘cái kiếp’ và
chuẩn bị cho một kiếp khác, khởi đầu cho ‘sự luân hồi’.
Riêng về chúng sanh Đức
Phật đã nhận thấy (qua Phật nhãn) hay nhận thức được (qua Trí huệ sau
khi đắc đạo) có sáu đường (lục đạo) luân hồi, tức là có 6 loại chúng
sanh: Chúng sanh ở cõi trời (Thiên), chúng sanh ở cõi của các vị Thần
(A-tu-la), chúng sanh cõi làm người (Nhân), chúng sanh trong cõi loài
vật (súc sanh), chúng sanh trong cõi quỷ đói (ngạ quỷ), và chúng sanh
trong cõi địa ngục.
Các chúng sanh biến đổi
trong vòng sáu loại đó (vòng lục đạo luân hồi) do nơi trong lúc sống đã
tạo nên nghiệp từ nơi hành động của thân xác, của lời nói, của ý tưởng (thân,
khẩu, ý); để rồi nghiệp nầy sẽ là "nhân" mà những kiếp về sau ta sẽ nhận
"quả", tức là "nhân" đó sẽ hướng dẫn ta đến cõi chúng sanh nào thích hợp
để "đầu thai" cho kiếp sau (Tốt thì đi về "cõi trời"; xấu về "địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh"; hoặc cõi "người" hay "A-tu-la")."
Đại khái là như vậy, và
sau đây kính mời Quý vị đi vào các đoạn kinh mà chúng tôi trích dẫn để
chứng minh cho những điều ấy.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức
Phật đã nói: "Ai tu nấy chứng, không thể thay thế cho nhau được" (Trang
36, PHPT khóa VI, VII). Vì sao? Vì mỗi chúng sanh, mỗi con người có
nghiệp quả riêng; chỉ có chúng sanh, người đó mới trả được cái nghiệp
của mình mà thôi! Người khác không thể thay thế được! Còn sự chứng quả
được thực hành qua những đường tu. Tuy nhiên, đường tu ấy được đặt trên
căn bản nào? "Căn bản của sanh tử, luân hồi là vọng tâm và căn bản
của Bồ Đề, Niết Bàn là Chơn Tâm" (Trang 32, PHPT khóa VI, VII). Như
vậy có hai cái Tâm: Chơn Tâm và Vọng Tâm; Nếu về với chơn tâm sẽ đạt
được Đạo quả, thành bậc giác ngộ; còn đi vào con đường vọng tâm thì
không thể thoát khỏi luân hồi, sanh tử; tức là không thể thành đạt được
đạo Bồ Đề Vô Thượng; không thể thành Phật. Từ trong Chơn tâm, chúng sanh
đã vọng tưởng để rồi có tâm phân biệt, vọng thấy (vọng tâm): Đó là sự vô
minh đã khiến chúng sanh bước vào đường sanh tử, luân hồi. Rồi từ kiếp
nầy tạo nghiệp; để kiếp kế vừa trả nghiệp, lại vừa tạo nghiệp mới; và
rồi cứ tạo nghiệp, trả nghiệp liên tục tiếp nối nhau không biết bao giờ
chấm dứt... Chơn tâm là bản tâm của mọi vật, mọi chúng sanh, trong đó
tâm thức của mọi chúng sanh giống như những ngọn đèn:
"Thí như trăm ngàn ngọn
đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu
khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau" (Kinh Viên
Giác, PHPT khóa
VIII, trang 51-52); và tâm thức đều có những đặc điểm của Chơn tâm là
thường hằng, "vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười
phương hư không thế giới" (Lăng Nghiêm, PHPT khóa VI, VII trang 235).
Thế cho nên, khi Đức Phật
thành đạo đã nói:
"Còn ta (Phật) thì trái
với vọng trần, hiệp với Chơn tâm thường trụ bất sanh bất diệt, biến khắp
cả pháp giới. cho nên ta mới được tự tại vô ngại: Ở trong một hiện ra vô
lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ;
không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới. thân ta
bao trùm mười phương hư không vô tận. Trên đầu một mảy lông hiện ra các
cõi nước, ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân. Vì ta diệt hết
vọng trần nên mới được như vậy". (Lăng Nghiêm, PHPT khóa VI,
VII trang 132-133).
Trong đoạn nầy Đức Phật
khiến cho ta khó hiểu và đưa ta đến những "phép mầu" mà ta cũng khó có
thể tưởng tượng được. Nhưng nếu chúng ta để ý một chút thì chúng ta cũng
có thể hiểu được một phần nào, vì Đức Phật muốn nói về cái Chơn tâm, và
cái bản thể của Chơn tâm có những đặc điểm mầu nhiệm như thế đó; còn con
người, chúng sanh do vì "Vô Minh" mà đã từ bỏ bản thể mầu nhiệm ấy, để
đi vào vòng luân hồi, sanh tử khổ đau. Con người tu hành đạt được đạo
quả thì sẽ trở về với Chơn tâm thường trụ, bất sanh bất diệt, biến khắp
cả pháp giới vì có thân "tự tại, vô ngại" không có gì ngăn cản, vướng
mắc; tâm thức hòa vào (viên dung) với hư không. Vì không có thân xác nên
không bị kiềm hãm gò bó trong thân xác; hay nói theo Duy Thức là "cái
túi- A Lại Da Thức" đã bị phá vỡ và tâm thức rộng khắp theo cùng hư
không trong cảnh Đại Viên Cảnh Trí. Tâm thức lúc ấy giống như là ánh
sáng của ngọn đèn cùng đốt trong một căn phòng với biết bao nhiêu ngọn
đèn khác, có ta có người, cùng như nhau không khác. Thế cho nên, trong
ta có người và trong người cũng có ta tức là "ở trong một hiện ra vô
lượng, vô lượng hiệp làm một". Và tại sao lại là: "trong nhỏ hiện lớn,
trong lớn hiện nhỏ", hay "trên đầu một mảy lông hiện ra các cõi nước,
ngồi trong hạt bụi mà chuyển đại pháp luân"? Điều nầy nếu vào những thời
gian xa xưa rất khó giải thích cho người khác hiểu được (có lẽ vì vậy mà
trong kinh điển thường có câu "bất khả tư nghì" hay "không thể nghĩ bàn").
Nhưng ở vào thời đại hiện nay với những kỹ thuật làm phim hay vi tính ta
có thể dễ hiểu một phần nào: Quý vị thử tưởng tượng chúng ta đang ngồi
xem phim hay trước màn ảnh vi tính, trên màn ảnh chúng ta đang xem cảnh
sinh hoạt của một người, rồi ống kính thu hình cho hình xa dần lấy toàn
cảnh từ con người đến nhà cửa, đồng quê, núi non rồi xa hơn nữa là xứ sở
của họ; rồi tới trái đất, trong Thái Dương hệ, dải Ngân Hà; rồi cảnh vũ
trụ với nhiều hình dáng các Thiên Hà khác, nhiều và nhiều nữa... Chúng
ta ngồi bên ngoài quan sát giống như các Đức Phật đang quan sát toàn
cảnh trong các cõi nước vậy.
Và khi, trên màn ảnh chiếu
các Thiên Hà ấy được thu tóm lại trong một bong bóng hình cầu và bóng
cầu đó nhỏ dần, nhỏ dần thành một chấm điểm rồi biến mất trên màn ảnh,
điều ấy giống như Đức Phật thu nhỏ đi toàn thể thế giới cùng mình đi vào
"ngồi trong hạt bụi vi trần" với đầy đủ các cõi nước, và trong đó Đức
Phật đang hành đạo: "Chuyển đại pháp luân". Tại sao như thế? Vì Đức Phật
đã được "thân tự tại vô ngại" hòa cùng hư không vô tận, cho nên "không
rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới. Thân ta bao trùm
mười phương hư không vô tận". Đó là sự mầu nhiệm hay sự thành đạt của
người tu hành đạt được đạo Vô Thượng Bồ Đề "Vì ta diệt hết vọng trần nên
mới được như vậy".
Tóm lại, khi một chúng sanh
tu đặng đạo Bồ Đề đều được trở về với Chơn Tâm, hòa vào cõi Chơn Như, có
thân vô ngại không bị cản trở, tràn đầy hư không pháp giới cũng như bao
nhiêu vị Phật khác trong quá khứ, hiện tại và kể cả tương lai. Nhưng mỗi
vị giống như ánh sáng của các ngọn đèn "đặt kế bên nhau, cùng chiếu sáng
hư không, nhưng không hề lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau".
Đó là điều mà Đức Phật đã?
gọi là "viên dung". Và cá thể của mỗi chúng sanh trước khi bị "Vô Minh"
để rời Chơn Tâm mà trở thành sanh tử luân hồi cũng là như thế.
Quý vị đọc các đoạn sau sẽ
thấy được điều ấy:
"Thấy, nghe, hay, biết, sáu
giác quan kể là một, cùng với hư không và bốn đại thành ra 6 đại, tánh
nó viên dung vốn không lay động đồng một thể chơn tâm, không sanh không
diệt, thế gian vì mê lầm không biết sanh tâm phân biệt, chấp cho nhân
duyên sanh hoặc tự nhiên có đều không đúng cả" (Lăng Nghiêm, PHPT VI,
VII trang 110).
Như vậy, cái
thấy cùng tứ đại, thức tâm đều viên dung, viên mãn (tràn đầy) khắp cả hư
không mà trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói về hư không như sau:
"Hư không pháp giới tính
bình đẳng" (HN 3, trang 342);
"Hư không cùng khắp vậy" (HN
3, trang 402);
"Vì hư không giới không
biên tế" (HN 3, trang 418);
"Chư Phật tử! Ví như hư
không, tất cả thế giới hoặc thành hoặc hoại, hư không thường chẳng thêm
bớt, vì hư không vốn vô sanh" (HN 3, trang 423);
Phổ Hiền Bồ Tát đã bảo với
Thiện Tài như sau:
"Cõi hư không kia hết, sự
lễ kính của tôi mới hết. Nhưng cõi hư không chẳng cùng tận nên sự lễ
kính của tôi cũng không cùng tận" (HN 4, trang 822);
"Như hư không là chỗ nương
dựa của tất cả vật, mà hư không không chỗ nương dựa" (HN 3, trang 397).
Từ đó, chúng ta có thể
thấy rằng: Tứ đại, thức tâm, cái thấy viên dung khắp cả trong hư không
vô tận, chúng đều có tính bình đẳng, không sanh không diệt, vô biên tế,
tịch tịnh không lay động để thành Chơn Tâm và luôn được sáng suốt chiếu
soi ("Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu"- Lăng Nghiêm, PHPT
khóa VI-VII trang 119).
Theo như trên thì hư không
là thể bao quát rộng vô biên, không có giới hạn nào cả, cũng là vô sanh,
đã không sanh thì không diệt; và trong hư không ấy viên dung cả 4 đại (Đất,
lửa, gió, nước), thức tâm và kiến đại (cái thấy) mà tánh của chúng đều
là Chơn Tâm.
Nhưng vì do Vô Minh, tức là
sự không thấu hiểu biết rõ, mê muội nên thức tâm của chúng sanh đã mượn
tứ đại để kết hợp thành thân xác; kiến đại (thấy, nghe, hay, biết và 6
thức làm nhận thức cho mình, cho các giác quan: nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt,
thân, ý); và thức tâm bị trói buộc trong hai thức mà Duy Thức Học gọi là
Mạt Na Thức (ý thức cho riêng về Cái Ngã hay thức Thứ Bảy), và A Lại Da
Thức (Tàng Thức hay Thức Thứ Tám như một cái túi chứa đựng mọi hạt nhân
thiện, ác, hay vô ký) bắt đầu cho cuộc sanh tử, luân hồi triền miên...!
Vô Minh đó là gì? Trong Từ
Điển Phật Học Hán Việt của Viện Nghiên Cứu Phật Học của Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam thì:
"Vô Minh là Avidya
(Thuật ngữ) tiếng Phạn là A Vĩ Nễ. Chỉ cái tâm ám độn, không chiếu rọi
được rõ ràng sự lý của các pháp. Là tên khác của Si".
Nhưng trong Kinh Viên Giác,
Đức Phật có nói:
"Vậy Vô Minh là gì? Nầy
Thiện nam, tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên đảo
làm mê mờ tánh "Viên giác", như người lạc đường, lầm lộn bốn phương.
Điên đảo vọng hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ đại giả hợp này
làm thân mình, chấp cái vọng niệm sanh diệt, theo bóng dáng của sáu trần
cho là thật tâm của mình" (Kinh Viên Giác, PHPT khóa VIII, trang16);
và:
"Nầy
Thiện Nam! Cái "Vô Minh" này không có thực thể (thật vật). Như người ngủ
chiêm bao, thấy các cảnh vật, đến khi thức rồi, thì cảnh vật kia không
còn"
(Trang 17, Kinh Viên Giác, PHPT khóa VIII).
Còn ở Kinh Lăng Nghiêm, Đức
Phật thuyết:
"Từ
một thể chơn tâm không khác, vì vọng niệm phân biệt, có năng sở, bỉ thử
sai khác, nên hiện ra có hư không và thế giới"
(trang 121, PHPT khóa VI,
VII).
Như vậy, Vô Minh chính là sự
không hiểu được sự, lý của pháp, cho nên thức tâm từ trong tánh chơn tâm
đã có vọng niệm và phân biệt năng sở, bỉ thử nên nó đó là đầu nguồn cho
"Thập nhị nhân duyên" để từ đó bắt đầu cho "vòng sanh tử luân hồi".
Đức Phật thuyết tiếp:
"Nhơn
có hư không thế giới nên mới có chúng sanh. Đã có thế giới và chúng sanh
lăng xăng đối đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: Tốt,
xấu, phải chẳng v..v...Vì thế mà sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm
ô. Cái có hình tướng và sanh diệt là thế giới, cái không hình tướng và
yên tịnh là hư không, khác với hư không, thế giới là chúng sanh vậy"
(Kinh Lăng Nghiêm
khóa VI, VII trang 121).
Và trong một đoạn sau đó Đức
Phật lại kể rõ hơn:
"Này
ông Phú Lâu Na, thế giới, chúng sanh và nghiệp quả ba món tương tục này
đều ở trong chơn tâm, vì vô minh vọng động sanh ra "năng phân biệt" và
"sở phân biệt" tương đới, nên vọng thấy có sơn hà đại địa, thế giới và
chúng sanh, rồi tiếp tục sanh hóa, vô cùng hư vọng"
(Trang 127, PHPT khóa VI,
VII).
Những điều nầy cho chúng ta
có thể hiểu rằng:
Hư không là căn bản của tất
cả, nó vô sanh tức không bị diệt. Hư không bao la không biên tế (không
biên giới, vô biên). Trong hư không viên dung tứ đại (đất, lửa. gió,
nước); kiến đại (thấy, nghe, hay, biết, 6 giác quan: nhãn, nhĩ, tĩ,
thiệt, thân, ý); và thức tâm (của mọi chúng sanh). Tánh của bảy đại nầy
đều là chơn tâm. Nhưng vì vô minh, nên thức tâm của mọi chúng sanh đã
phát khởi vọng tâm và có tâm phân biệt: năng sở, bỉ thử...Vì thế thức
tâm đã mượn tứ đại kết hợp thành thân xác và kiến đại để tạo thành các
giác quan và thấy, nghe, hay, biết. Từ đó mọi chúng sanh thành hình; các
cái có hình tướng, sanh diệt là thế giới, và cái khoảng trống ở giữa
không có hình tướng và yên tịnh là hư không.
Đó là các giai đoạn thành hình
thế giới, hư không và chúng sanh.
Ngoài ra trong Kinh Hoa Nghiêm
ở phẩm "Thế giới thành tựu", Đức Phật đã nói đến sự thành hình các thế
giới. Chúng ta thử lược qua để hiểu Đức Phật sau thời gian tu tập và
thành đạo Ngài đã nhận thức như thế nào trong thời gian hơn 2500 năm
qua; và từ đó chúng ta có thể thấy được giá trị tâm thức của chính chúng
ta nếu chúng ta cũng thành được đạo quả như Đức Phật đã thành.
Khởi đầu phẩm "Thế
giới thành tựu" Kinh Hoa Nghiêm viết:
"Lúc
bấy giờ Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát do thần lực của Phật quán sát tất cả
thế giới hải, tất cả chúng sanh hải, tất cả chư Phật hải, tất cả pháp
giới hải, tất cả chúng sanh nghiệp hải, tất cả chúng sanh căn dục hải,
tất cả chư Phật pháp luân hải, tất cả tam thế hải, tất cả Như Lai
nguyện lực hải, tất cả Như Lai thần biến hải".
(Trang 227, tập 1)
Sau đó ở trang 233 có ghi:
"Lúc
đó Phổ Hiền Bồ Tát bảo đại chúng rằng: Chư Phật tử! Thế giới hải có mười
việc mà chư Phật trong ba thuở quá khứ, hiện tại, vị lai đã nói, hiện
nói và sẽ nói.
Những gì là mười?
Chính là nhơn duyên khởi thế
giới hải, chỗ nương trụ của thế giới hải, hình trạng của thế giới hải,
thể tánh của thế giới hải, sự trang nghiêm của thế giới hải, sự thanh
tịnh của thế giới hải. Phật xuất hiện nơi thế giới hải, kiếp trụ của thế
giới hải, kiếp chuyển biến sai biệt của thế giới hải, môn vô sai biệt
của thế giới hải."
Và rồi, Phổ Hiền Bồ Tát đã
cập giải thích đến từng điểm một của mười điều ấy, trong đó điểm thứ ba
"hình trạng của thế giới hải" (trang 240) khiến ta để ý
đến. Nói về hình trạng của các thế giới hải, Phổ Hiền Bồ Tát cho biết
hình trạng có thể là: Hình vuông, tròn, hoặc chẳng phải tròn vuông, hoặc
hình như nước xoáy, hoặc hình như núi, hình như cây, hình như bông, hình
như cung điện, hình như chúng sanh, hình như Phật, có thế giới vi trần
số hình sai khác như vậy.
Khoa học đã tìm thấy các thiên
hà (thế giới hải?) hình nước xoáy hoặc khác nhau và ánh sáng của chúng
cũng khác nhau, khiến ta liên tưởng đến điểm "sự trang nghiêm của thế
giới hải" (Trang 224-225). Đó là chưa nói đến "Chỗ nương trụ của thế
giới hải" và các điểm khác mà Phổ Hiền Bồ Tát đã đề cập đến.
Có điều Đức Phật đã nói đến
tánh không của thức tâm mà chúng ta thường hiểu qua từ ngữ "tâm không",
chính vì tánh "hư không" đó mà chúng sanh khi thành Phật mới nương "Hư
không" để có thân thật lớn "thân ta bao trùm mười phương hư không vô
tận" hoặc hoặc thật nhỏ "ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân" mà
không bị ngăn ngại nào cả.
Đức Phật đã nói
tánh không ấy trong Kinh "Đại Bát Niết Bàn" như sau:
"Này
Thiện nam tử! Vừa rồi ông hỏi cớ chi đức Như Lai dựa nằm chẳng ngồi dậy,
chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp.
Này Thiện nam tử! Tánh hư
không cũng chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc
coi sóc sản nghiệp, cũng không đi, không lại, không sanh diệt, không già
trẻ, không mọc lặn, hư bể, giải thoát, ràng buộc, cũng không nói mình,
nói người, cũng không hiểu mình hiểu người, chẳng phải ăn, chẳng phải
bịnh." (Trang
385, tập 1)
Và trong tập 2, Kinh Đại
Bát Niết Bàn trang 247 có ghi:
"Này
Thiện nam tử! Tất cả các pháp vốn không có tánh, do nghĩa này nên ta nói
kệ rằng:
Trước không nay có
Trước có nay không
Ba đời có
pháp
Không có lẽ đó
Này Thiện nam tử! Tất cả
pháp do nhơn duyên mà sanh cũng do nhơn duyên mà diệt.
Nếu chúng sanh có Phật tánh,
thời tất cả chúng sanh lẽ ra có thân Phật như ta hôm nay.
Phật tánh của chúng sanh
chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như
trong chúng sanh có hư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng
chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử
nếu chúng sanh chẳng có hư không thời không có những sự đến, đi, đứng,
ngồi, nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất
cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không.
Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Bực Thập trụ Bồ tát thấy được
phần ít như châu kim cương."
Để kết luận phần nầy, qua
các đoạn kinh mà chúng tôi đã cố gắng trích dẫn nhằm giúp chúng ta có
thể hiểu được tương đối dễ hơn về phần vũ trụ quan trong Đạo Phật, cũng
như tánh chất của thức tâm của chúng sanh trước khi bị Vô minh lôi cuốn
vào vòng sanh, tử luân hồi, tức là trước khi "Nhập vào thế gian"; Và nếu,
chúng sanh biết tu, tu đúng hướng thì cũng sẽ đạt đến sự giải thoát,
thoát khỏi vòng sanh tử để trở về với Chơn tâm bất sanh bất diệt, tự
sáng suốt chiếu soi.... Đó là giai đoạn "Xuất thế gian" vậy!
http://www.buddhismtoday.com/viet/kh/nhapthegian.htm