- PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG THÀNH TỰU
KHOA HỌC TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THIÊN NIÊN KỶ MỚI
Nỗ lực nghiên cứu của các
nhà khoa học trên nhiều lãnh vực trong những năm đầu thiên niên kỷ thứ
hai đã được đền bù xứng đáng. Đó là bức màn bí mật của bản
đồ gien đã được vén lên, sinh sản vô tính trên con người
được thực hiện và các kết cấu phản vật chất ngày càng lộ dần
ra dưới ánh sáng của những phát minh khoa học. Những thành tựu này đã
mở ra nhiều cơ hội mới trong việc khám và điều trị bệnh tật , trong
việc kéo dài tuổi thọ, trong ước mơ tìm về cội nguồn của thế giới
và rõ ràng nhất là góp phần xây dựng một cuộc sống hạnh phúc cho con
người. Tất cả những thành tựu đó đã được loài người hân hoan đón
nhận và cùng song hành với nóùù là xen lẫn nhiều nỗi lo âu.
Không phải ngẫu nhiên khi cơ quan
an ninh của nhiều nước trên thế giới đã tỏ ra hết sức thận trọng
khi đưa ra dự luật cấm thực hiện sinh sản vô tính trên cơ thể người.
Và càng không phải không có lý do khi Liên hiệp quốc tổ chức giám sát
chặt chẽ các chương trình sản xuất năng lượng hạt nhân. Theo họ, chỉ
cần một sai sót nhỏ thôi thì sẽ tạo ra những dị phẩm mà hậu quả rất
khó khắc phục và nguy cơ sẽ rất cao, khi công nghệ này lọt vào tay những
kẻ khủng bố . Sự dè dặt đó đã phản ánh giới hạn kiểm soát những
sản phẩm được tạo ta bởi sự tiến bộ của tri thức loài người. Vì
con người, với trí tuệ sẵn có, có thể tạo ra những phương tiện vật
chất hỗ trợ cuộc sống nhưng nếu như không có khả năng kiểm soát và
quản lý thì những phương tiện đó sẽ quay trở lại hủy diệt chính
mình.
Thực tế thì điều này không xa lạ
gì theo quan niệm của Phật giáo. Bởi lẽ, khi đưa ra mối tương quan giữa
trí tuệ và thần thông, hầu như đã từ lâu, đức Phật của chúng ta đã
lưu ý đến vấn đề này. Thần thông, theo quan điểm của Phật giáo phải
nằm trong sự chỉ đạo, dẫn dắt của trí tuệ; chưa đạt đến trí tuệ
– được hiểu theo nghĩa trí tuệ tuyệt đối – mà mưu cầu thần thông
là điều khó có thể chấp nhận. Căn cứ vào những thành tựu vượt bậc
của khoa học trong những năm đầu thiên niên kỷ phải chăng là một dạng
khác của "thần thông"? Và với phép mầu thần thông đó, chiếc
đũa thần khoa học sẽ ban phát cho nhân loại những gì nếu như thiếu vắng
đi tình yêu thương không phân biệt màu da chủng tộc, thiếu vắng đi một
nền tảng đạo đức được xây dựng trên tôn chỉ vì tương lai con người?
Trên một phương diện khác, cặp
phạm trù trí tuệ và từ bi trong Phật giáo tồn tại có tính tương tức:
không có trí tuệ nếu vắng mặt từ bi và ngược lại. Có thể xem đây
là một tiêu chí chung cho mọi định hướng phát triển của khoa học. Vì
rằng, trí tuệ chỉ có tác dụng tích cực khi đứng trên nền tảng của
tình thương. Không có tình thương yêu - từ bi - thì cái được con người
nhận lầm là trí tuệ ấy sẽ đưa con người và thế giới đến bờ diệt
vong. Cuộc chạy đua không có đích đến của những ngành công nghệ quốc
phòng ở các nước phát triển như tên lửa đạn đạo, vũ khí sinh học,
vũ khí hạt nhân…là những hiểm họa, đe dọa một thế giới hoà bình.
Kinh nghiệm hàng vạn năm nay của
nhân loại lại một lần nữa xác nhận rằng, khi có những thành tựu mới
trong khoa học thì đó cũng là lúc mở ra nhiều nguy cơ ở trước mắt hoặc
lâu dài. Nếu như trước đây, con người hoàn toàn thỏa mãn vì những phương
tiện khoa học kỹ thuật có thể giúp họ cải tạo thiên nhiên, bắt
thiên nhiên phục vụ con người thì ngày hôm nay, thái độ đó không còn nữa
mà thay vào đó là tinh thần ứng xử thân thiện, hài hoà với môi trường
thiên nhiên. Cuộc cách mạng xanh với những thành công vượt bậc về
tăng năng suất cho cây trồng và vật nuôi do công nghệ biến đổi gien
đưa lại, tưởng chừng như đã giải quyết ổn thoả vấn đề thiếu hụt
thực phẩm trên thế giới. Nhưng các thực phẩm có sự biến đổi về
gien ấy lại là nguy cơ cao của bệnh tật, đặc biệt là những bệnh nan
y. Dường như, mặt trái của những thành tựu khoa học bao giờ cũng tiềm
ẩn một nguy cơ vượt khỏi mọi dự kiến của con người.
Về mặt lý thuyết, có thể ngăn
ngừa và khắc phục được phần lớn nếu không nói là tất cả, nếu như
nền tảng của những khám phá khoa học được thiết lập trên cơ sở là
đạo đức. Đạo đức – được hiểu theo nghĩa rộng nhất – sẽ nuôi
dưỡng và mở ra những phát kiến khoa học mà ứng dụng lâm sàng của nó
đích thực là vì cuộc sống, vì hạnh phúc của con người trên khắp
hành tinh. Vấn đề này, đã có một sự hưởng ứng tích cực khi Học viện
y học và Thẩm mỹ Hoàng gia Canada cũng như nhiều trường y khoa nổi tiếng
khác trên thế giới, yêu cầu sinh viên phải hoàn thành chứng chỉ giáo
dục y đức, xem đó là môt điều kiện để hoàn thành chương trình
Sau đại học (Theo, Peter A Singer, University of Toronto Joint Centre for Bioethics,
Canada.). Cần phải bình tâm để nhận thấy rằng, không phải là tất cả,
nhưng động lực cốt lõi nhất của mọi khám phá khoa học mà con người
đạt được trong những năm gần đây đó là gì? Phải chăng, mục tiêu
danh lợi, địa vị…luôn được xếp ở vị trí ưu tiên hơn những tiêu
chí khác? Nếu không nói rằng phát kiến khoa học sẽ phục vụ vì mục
tiêu nhân loại sau khi thỏa mãn cái "tôi" mang tính cá nhân. Đó
là chúng ta chưa kể đến những phát kiến đi ngược lại vì hoà bình,
vì hạnh phúc của nhân loại.
Ở đây, thái độ của Phật giáo
bao giờ cũng khích lệ và chào đón những kỳ tích khoa học nhằm cải thiện
đời sống nhân sinh. Nói cách khác, ánh sáng của khám phá khoa học càng
làm nổi bật những giá trị nhân bản truyền thống vốn có của Phật
giáo.
Những thành tựu vượt bậc mà
khoa học mang lại trong những năm đầu thiên niên kỷ thứ hai và hứa hẹn
sẽ phát triển mạnh mẽ hơn trong nhiều năm tới, lại một lần nữa xác
nhận rằng khả năng nhận thức của con người là vô tận. Nhưng để khả
năng ấy vươn đến những mục tiêu mang tính nhân bản thì nhà khoa học
cân phải được dẫn dắt bới một dạng thức trí tuệ vượt lên trên
trí tuệ hiểu theo nghĩa thông thường: trí tuệ Vô Ngã. Đồng thời, những
nỗ lực nhằm làm thay đồi xã hội, đưa xã hội tiến lên những thang bậc
mới phải được phát xuất từ một tình thương của đồng thể đại bi
tâm, không bị giới hạn vì bất kỳ tiêu chí nào khác. Và trên hết là một
nền tảng đạo đức được xây dựng vững vàng, sẽ là những chất liệu
đồng hành không thể thiếu trong những thành tựu khoa học ở thời đại
hôm nay.
http://www.buddhismtoday.com/viet/kh/pg-khoahoc.htm