PHỤ LỤC 1:
VÔ DƯỢC LIỆU PHÁP
Tùy sự phát triển của
văn minh nhân loại, trình độ gánh vác của tinh thần và lao nhọc của thể
xác cũng theo đó gia tăng, khiến bệnh tật ngày càng phức tạp khó trị.
Cách trị liệu của y học hiện hữu chẳng thể giải quyết sự mâu thuẫn
này. Đối với bệnh ung thư, sida và những bệnh nan y quái lạ do tinh thần
căng thẳng gây nên, cảm thấy vô phương đối trị. Đứng trên lý luận
triết học, từ gốc độ vật lý hóa học đến sinh lý giải phẫu để
xem xét, nguyên nhân căn bản không thể nhận thức bản chất của bệnh tật
là do cố chấp lý luận không gian ba chiều tự tạo chướng ngại. Câu hỏi
cần thiết là tại sao những khu phát triển kinh tế với trình độ văn hóa
càng cao thì càng xuất hiện những bệnh tật mới lạ và tỷ lệ phát bệnh
càng nhiều càng khó trị ? Xu hướng xuất hiện bệnh văn minh ngày càng
nhiều, chẳng thể giải thích.
Do đó, vô dược liệu pháp ắt
được người ta chú trọng, cuối cùng sẽ kiến lập một thể hệ y học
mới.
Theo hiện tượng mà chúng tôi đã
biết, đối với những bệnh tật có tánh tiềm ẩn trong cơ thể và do
tình dục phát triển quá mạnh, làm cho chức năng của tạng phủ gánh vác
không nổi, cuộc sống thất thường, lâu ngày rồi sinh ra quái bệnh. những
phương pháp đối trị những bệnh tật kể trên bằng vô dược liệu pháp
vừa giản dị lại mau có công hiệu.
Vô dược liệu pháp xưa nay các nước
đều có, nếu sưu tập lại có thể thành một hệ thống cụ thể, nay diển
tả theo từng môn loại, trong đó có cái thì có pháp mà vô lý, có cái thuộc
về bí truyền, khó giải thích theo lý luận khoa học hiện đại; có cái
thuộc bất khả tư nghì, thậm chí nghiêng về tính cách mê tín, các
chuyên gia không dám tiếp xúc, e sợ ảnh hưởng đến sự nghiêm túc của
kỹ thuật khoa học. Nhưng đối với những người mang bệnh đã lâu, bị
y học chánh thống phán đoán cho là không còn hy vọng, chẳng có lối
thoát, vì sự khát vọng cầu sống mà áp dụng vô dược liệu pháp lại
được lành bệnh một cách kỳ lạ.
Do đó chúng tôi quy nạp tất cả
vô dược liệu pháp, phân ra thứ lớp và môn loại, thành 12 loại như sau
:
1.- KHÍ CÔNG LIỆU PHÁP
Khí công liệu pháp là một điển
hình của vô dược liệu pháp, hiện tượng khí công là hiện tượng hoạt
động của tâm lý và sinh lý đặc biệt, khác hơn người thường. Kỹ thuật
khí công là một thứ kỹ thuật phản nghịch quy luật thường, kỹ thuật
này được biểu hiện ra dưới trạng thái công năng đặc biệt, là một
thứ kỹ thuật mà người thường không có khả năng xử dụng, chỉ có những
người đã thông qua tu luyện như kích phát, dẫn dụ, truyền thọ, cảm
ứng mới có công năng để xử dụng, ví như xem xa, biết xa, chẩn đoán bằng
xem thấu vật chất như X quang, cho đến ý niệm dời vật v.v…
Khí công liệu pháp có sự tồn tại
chơn thật, đã được giới khoa học công nhận, nên xếp loại lớp thứ
nhất của vô dược liệu pháp.
2.- LIỆU PHÁP CÔNG NĂNG ĐẶC
BIỆT BẨM SINH
Có người sinh ra tự có công năng
đặc biệt, có thể gọi là " khí công sẵn có". Người có công năng
đặc biệt giống như nhà khí công, cũng là tiềm năng của sinh mạng hiện
ra công năng phản nghịch qui luật thường.
Kỳ thật, cách đoán bệnh trị bệnh
của người công năng đặc biệt rất đơn giản, khéo hơn nhà khí công
và thần hiệu hơn, các thứ trị liệu khác không thể so sánh, cũng thuộc
một thứ vô dược liệu pháp.
3.- KINH LẠC LIỆU PHÁP
Kinh lạc gồm châm cứu, điểm huyệt,
xoa bóp v.v… Đông y đem kết hợp với khí công, thì công hiệu trị liệu
được tăng cường nhiều hơn là chỉ dùng mỗi thứ riêng biệt.
Kinh lạc chẳng thể thấy, chẳng
thể mò, mà Đông y lại đặt ra một hệ thống cụ thể rõ ràng, vẽ ra
biểu đồ đầy đủ mọi kinh lạc trong cơ thể, dù sinh lý giải phẫu
tìm không ra nó, nhưng đại học y khoa phương Tây lại đặt ra khoa châm cứu,
có bằng cấp tốt nghiệp được chính phủ công nhận, vậy có thể chứng
tỏ người xưa dùng siêu ngũ giác quan để cảm nhận tin tức ẩn tánh
trong cơ thể cũng là điều hợp lý.
4.- TỊCH CỐC TUYỆT THỰC LIỆU
PHÁP
Nguồn năng lượng của con người
là do thức ăn đưa vào bao tử và ruột, thông qua phản ứng hóa học sinh
ra nhiệt lượng và dinh dưỡng cần thiết của cơ thể, nếu không cần lương
thực bằng vật chất mà được trực tiếp thu hút năng lượng trong không
gian để nuôi dưỡng cơ thể, chẳng cần ăn cơm thì phương tiện biết
bao !
Nếu thật chẳng cần ăn cơm thì
chẳng sanh ra cái khổ "bệnh từ miệng vào", có sự kỳ lạ hơn là
đang lúc tịch cốc, sinh lý của cơ thể có thể tự điều chỉnh quân
bình mà lành bệnh và giữ sức khỏe.
Ở Hàng Châu Trung Quốc, có một
nhà khí công tên Trương Vinh Đường, truyền thọ kỹ thuật khí công tịch
cốc rất kỳ lạ: Ông ấy chẳng cần trực tiếp phát công trị bệnh, bệnh
nhân chẳng cần luyện công, có thể xuất hiện trạng thái tịch cốc, chẳng
cần ăn uống mà khỏe mạnh và làm việc như thường, đồng thời các thứ
bệnh kinh niên cũng được dần dần giảm bớt và tiêu trừ. Kỳ thật đối
với phương pháp này cũng chẳng nên nghi ngờ, các nước tân tiến cũng có
áp dụng tuyệt thực liệu pháp, đều có công hiệu, chỉ là hiện nay chưa
được các học giả xem trọng, lại, đối với người tham ăn cũng không
muốn chấp nhận, nghĩa là chưa đến bước đường cùng thì đa số bệnh
nhân không chịu chọn cách nhịn đói để chữa bệnh !
Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh
là sự phát triển theo qui luật biến hóa của sinh lý con người, sự phát
triển từ phức tạp đến đơn giản, từ thức ăn hữu hình tiến đến
thức ăn vô hình (năng lượng), dần dần phát triển tiến hóa, cuối cùng
cắt tuyệt nguyên do phát bệnh và giải quyết vấn đề căn bản của sinh
lão bệnh tử. Do đó, tịch cốc liệu pháp sẽ được chúng ta xem trọng.
5.- Ý NIỆM LIỆU PHÁP
YÙ niệm là một thứ lực bằng năng
lượng, khác với lực cơ điện, gán tên cho nó gọi là động lực ẩn tánh.
Năng lượng ý niệm đã được nghiệm chứng có sự tồn tại khách quan,
ở đây chúng tôi muốn nói về dùng ý niệm lực có thể trị bệnh, việc
này đã là chuyện thường đối với nhà khí công.
Trong thập niên 50, Liên Xô đã áp
dụng phương pháp sanh đẻ không đau, cũng có hiệu quả: Bác sĩ dùng ý niệm
cương quyết bảo người sản phụ rằng việc sinh con vốn chẳng đau đớn,
sở dĩ cảm thấy đau là do tinh thần lo sợ mà ra. YÙ niệm này khi được
sản phụ chấp nhận và đủ lòng tin phối hợp thì sẽ có công hiệu, ý
niệm càng kiên cố càng được hiệu quả. Trường hợp nếu sản phụ cho
đó chỉ là lời an ủi, do không tin mà cảm thấy hoang mang thì ý niệm lực
phát ra chẳng được tiếp nhận, ắt phải thất bại. Theo đó có thể chứng
tỏ sự hiệu ứng của ý niệm lực.
Tất cả nhà khí công được hiệu
ứng trong trị liệu đều liên quan đến sự hoạt động của ý niệm. Phương
pháp của họ có ba tầng lớp: Kích phát ngoại khí, bắn ra ý niệm lực
và điều khiển tin tức. Sau khi hiểu được cơ chế của ý niệm lực, người
chẳng biết khí công vẫn có thể dùng ý niệm để chữa bệnh, chẳng phải
chỉ có nhà khí công mới trị bệnh bằng ý niệm lực; như sự cầu nguyện
của Tin lành, trì chú của Mật tông, tụng kinh của Đạo giáo, Phật
giáo, cho đến hoạt động tế thần của những bộ lạc nguyên thủy ở
Châu Phi v.v… trong lúc vô ý mà lợi dụng ý niệm lực cũng được phát
huy hiệu ứng trị liệu.
6.- TIN TỨC LIỆU PHÁP
Nội dung của tin tức có hai: Một
thứ có thể thấy nghe, như bùa chú, đồ hình, vật tin tức của Đạo
gia, âm nhạc, chuông trống, tụng ki nh của nhà Phật, dùng các loại tin tức
thông qua sự thấy nghe để thỏa mãn nhu cầu của con người. một thứ
thuộc vô hình, chẳng thể thấy nghe, như làn sóng tin tức, quán tưởng
sinh linh trên hành tinh, quán tâm linh của chính mình, thầm tưởng các thứ
bí quyết và khẩu lệnh bằng mật mã.
Người bệnh nếu có ý niệm tin tưởng
mãnh liệt và có người hướng dẫn, giúp đở, hợp tác tăng cường, sẽ
hình thành làn sóng tin tức, điều khiển ý niệm lực để trị bệnh,
cũng được hiệu ứng mau chóng.
Tin tức liệu pháp xưa nay đã lưu
truyền mấy ngàn năm, các nước đều có, nhất là ở các bộ lạc và
dân tộc thiểu số còn gặp nhiều hơn, nhưng họ thường bị người văn
minh cho là mê tín, nhưng lòng tin của họ rất vững chắc, không sợ phê
phán và ngăn cấm, sự thật hiện nay vẫn còn tồn tại.
Tin tức liệu pháp có nhiều hình
thức, như rửa tội, xoa đầu an ủi, ban phước, chiêu hồn, đuổi tà v.v…trong
hoạt động tôn giáo, và tin tức thủy, tin tức nhạc, tin tức viết, tin tức
quạt … của người có công năng đặc biệt và nhà khí công, có thể điều
khiển sinh lý hoạt động của tin tức, siêu việt thời gian không gian để
chẩn đoán, trị liệu bệnh nhân bất cứ xa gần.
Nói tóm lại, ý niệm trị liệu mở
mang phát triển, ắt sẽ dẫn ra tin tức trị liệu, nghĩa là thúc đẩy công
năng của ý niệm trị liệu lên tầng lớp cao hơn.
7.- NHẬP ĐỊNH TƯ DUY TRỊ
LIỆU
Tư duy trị liệu có bốn chữ yếu
quyết: Buông, tịnh, hư, rỗng. Trước tiên buông xã thân tâm của chính
mình, nếu đã làm được thì thân tâm có thể nghỉ ngơi đầy đủ, theo
qui luật điều chỉnh sinh lý. Sau khi buông xã thân tâm rồi có thể nhập
tịnh, do tịnh sanh huệ, do tịnh tăng trí, trạng thái tịnh có thể khiến
sự rối loạn của thân tâm khôi phục trật tự quân bình mà đạt đến
mục đích trị liệu.
Thông thường trạng thái tịnh khó
giữ được thời gian lâu dài, chân thật thâm sâu, thực hiện " tư
duy trống rỗng" chẳng phải dễ, nên dùng một niệm thay trăm niệm; một
niệm còn thì trăm niệm tiêu; một niệm này tức là niệm của tư duy siêu
phàm. Nói "tư duy" chẳng phải lo nghĩ việc ăn mặc đi ở, danh lợi
thành bại của thế gian, tư duy tức quán tưởng chơn lý của nhân sinh vũ
trụ, giống như tham thoại đầu của Thiền tông.
Tư duy sanh ra hiệu ứng, có thể
điều chỉnh trạng thái sinh lý, khiến thân tâm tự nhiên quân bình, trong
đó bao gồm dưỡng sinh, ngộ đạo, mở mang trí tuệ, gọi là minh tâm kiến
tánh. Tư duy chú trọng nhập tịnh, giống như tịnh công của khí công, từ
buông đến tịnh, đạt đến tánh không, quên mình, Lão Tử gọi là
"vô vi"; vô vi mới có thể vô sở bất vi, quên mình thì quên hết
phiền não thế gian, tâm linh sáng tỏ thì khí huyết điều hòa, bệnh từ
đâu đến ?
8.- THIỀN ĐỊNH LIỆU PHÁP
Tư duy tiến vào cảnh giới tầng lớp
cao hơn tức là tịnh lự, cũng gọi là "Thiền". Thiền tọa kéo
dài, đạt đến trạng thái tối cao gọi là thiền định, được nhập thiền
định sẽ siêu thoát tất cả lo âu tính toán của việc thế gian, gọi là
"vô niệm" (chẳng có vọng niệm). Thiền định đến cảnh giới
cao tột, không những có thể tiêu trừ bệnh tật, còn có thể không nhờ
ăn uống mà duy trì sinh mạng lâu dài cho đến mấy trăm năm.
Liệu pháp này rất khó thực dụng
trong đời sống căng thẳng ngày nay, luôn cả tuyên truyền cũng khó được
người ta tiếp nhận, nhưng nó thuộc về liệu pháp thượng hạng, người
ham tu hành đa số đều hiểu lý này.
9.- TÂM LÝ LIỆU PHÁP
Pháp này xuất phát từ phương Tây,
sau này theo khoa học hiện đại truyền sang phương Đông, Tâm lý học lại
hình thành một môn học trong sách giáo khoa. Tâm lý liệu pháp luôn tồn tại
nơi lâm sàng của bệnh viện, bác sĩ dùng an ủi liệu pháp, bảo đảm liệu
pháp v.v… đều thuộc phạm vi của tâm lý liệu pháp. có người cho rằng
bệnh nhân ung thư thường chết vì sợ hãi, chẳng phải vô lý: do tinh thần
lo âu ảnh hưởng sức khỏe, điều đó ai cũng biết, bệnh nhân thiếu
lòng tin thì bệnh khó trị, là dựa trên quan điểm Tâm lý học.
Có người nói "khí công cũng là
tâm lý liệu pháp" ấy là sai, phải nói là trong khí công liệu pháp
có xử dụng tâm lý liệu pháp, nhưng chẳng đồng nhau. Tâm lý liệu pháp
của phương Tây còn nông cạn, thuộc dạng bị động, họ chẳng thể dùng
nhân tố tích cực trong cơ thể sinh mạng của bệnh nhân điều khiển tiềm
năng sinh lý của họ. Nếu chỉ đơn thuần xử dụng tâm lý liệu pháp thường
không đủ công hiệu, lại chẳng dễ gì được bệnh nhân tiếp nhận lâu
dài, nếu bệnh nhân cho đó là sự thương xót an ủi thì mất linh nghiệm.
Tâm lý liệu pháp phải kết hợp với
các liệu pháp khác, khiến bệnh nhân tin tưởng tự sanh ra hiệu ứng của
tâm lý họ, dùng ý chí lực tự điều chỉnh chính mình, như lời Đông y
nói "thần lãnh hình, linh chủ mạng, khí thống huyết", từ đó thần
an thì hình bất loạn, tâm bình thì thể tự hòa, nghĩa là do khả năng của
chính mình thực hành tâm lý liệu pháp, mới trở thành một phương pháp kỳ
diệu.
10.- SÁM HỐI LIỆU PHÁP
Trong cuộc đời của con người, đôi
lúc vì làm ra việc xấu việc lầm rồi ghi nhớ hình ảnh trong tâm, sanh
lòng hối hận tự trách chẳng thể giải tỏa, chôn vùi trong thâm tâm
hình thành một khối độc hại, ảnh hưởng sức khỏe, gọi là tâm bệnh.
do đó, tâm lý liệu pháp kể trên đã phát triển thêm một liệu pháp gọi
là sám hối liệu pháp, cũng như người phương Tây thú tội trước Hồng
y giáo chủ, cầu xin Thượng Đế xã tội; tín đồ của tôn giáo phương
Đông cũng có sự hoạt động về sám hối, như tụng kinh bái sám để tiêu
trừ bệnh ẩn mật đó, giải tỏa áp lực của tinh thần mà khôi phục lại
sức khỏe.
Sám hối liệu pháp vô hình để thấy,
nhưng thường có công hiệu chơn thật. Muốn có hiệu ứng chơn thật, cần
phải dùng lòng tin tưởng của mình, cầu trời làm chứng, thành kính sám
hối, mới được công hiệu.
11.- NGŨ HÀNH LIỆU PHÁP
Sự hình thành của quả địa cầu
là nhờ kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, sự sinh tồn của người địa cầu
cũng là nhờ nhân tố của kim mộc thủy hỏa thổ làm hữu cơ phối hợp
mà thành. Khi sự phối hợp của ngũ hành mất qui luật thì sinh ra bệnh tật.
Ngũ hành liệu pháp dùng mọi thứ
riêng biệt để trị bệnh, cũng như kim dùng tiếng chuông để thay thế, mộc
tức là ẩn khí của cây cối, thủy là nước suối, như tắm suối nóng,
tắm nước tin tức, tắm hơi … hỏa là ánh sáng, là quang tuyến, như tắm
nắng, trị liệu bằng tia sáng … thổ là tắm sình, tịnh dưỡng trong
hang núi, đi chân không dẫm trên mặt đất, dạo chơi ngoại ô… Tóm lại,
đối với ngũ hành liệu pháp, Đông y đã nghiên cứu ra một hệ thống cụ
thể, có lý luận hoàn chỉnh, nếu biết cách xử dụng cũng rất công hiệu.
12.- THÔI MIÊN LIỆU PHÁP
Thôi miên liệu pháp đối với những
bệnh hư tổn có nhiều công hiệu hơn, có người vì sinh kế mà lao tâm
lao lực quá mức, lâu ngày thành bệnh, nếu được nghỉ ngơi đầy đủ
để giảm bớt mỏi mệt, khôi phục sức khỏe, nhân công liệu pháp cũng
là một trong những pháp đó. Khi vào được trạng thái thôi miên thì thể
xác và tinh thần đều có dịp nghỉ ngơi và tự điều chỉnh quân bình,
khi ngủ một giấc ngon lành thức dậy thì cảm thấy tinh thần khỏe mạnh.
Người đủ điều kiện có thể tự
mình thôi miên, khỏi nhờ nhà khí công và thầy thôi miên thì tiện hơn
nhiều. Có người muốn tự thôi miên, đếm hơi thở trong tâm hoặc nghe tiếng
tíc tắc của đồng hồ thường chẳng có công hiệu, ấy là vì ông chưa
đủ khả năng thôi miên. Kỳ thật phương pháp thôi miên chẳng phải khó
học, ai cũng có thể tự học thử, chủ yếu là luyện tập bốn chữ
:Buông, tịnh, hư, rỗng đã đề cập trong điều " nhập tịnh tư duy
liệu pháp" ở trên, người muốn học thôi miên cứ theo đó thực
hành.
Hiện nay Trung Quốc dùng cách thôi miên gây mê
giải phẫu mà không cần thuốc mê, hiển nhiên chứng tỏ thôi miên liệu
pháp là một đặc sắc của vô dược liệu pháp.