6. LÀN SÓNG VÀ HẠT TỬ CHUYỂN HÓA LẪN NHAU
TINH THẦN BIẾN VẬT CHẤT
Sự giao biến giữa làn sóng và hạt tử phản ảnh trong
sinh mạng của con người là hiện tượng từ tinh thần biến thành vật chất.
Trước tiên, chúng ta nên tìm hiểu chữ "Biến", biến như thế nào
?
Theo khí công là dùng ý niệm lực, gọi là "ý đến thì khí đến, khí đến thì ý đến". Khí
này có thể điều chỉnh kết cấu nội bộ của vật thể, hoặc phóng lớn
rút nhỏ, hoặc dời chỗ, hoặc biến hình, tụ hợp và tan rã v.v…toàn
nhờ vào ý niệm lực để điều khiển.
Nếu nói từ vật chất sinh ra tinh thần thì "vật chất
là đệ nhất tánh", thuộc quan điểm duy vật;
vậy, từ tinh thần biến vật chất thì " tinh thần là đệ nhất tánh", thuộc quan điểm duy tâm. Khí công
nhấn mạnh quan điểm sau, chú trọng tác dụng của ý niệm. Ví như một
nhà khí công biến rượu thành nước, hoặc dùng ý niệm dời đi sỏi mật trong thân của bệnh nhân v.v…
những hiện tượng kỳ lạ chơn thật này đều thuộc tinh thần biến vật
chất, đối với nhà khí công cũng thuộc việc thường thôi.
ẨN CÔNG VỚI HIỂN CÔNG
Chúng ta cần phải thăm dò
phần
lý luận của khí công, hãy so sánh sự khác biệt
giữa cơ điện lực và ý niệm lực:
Học thuyết ẩn hiển nhắc nhở con người khi nhận xét sự
vật nên chú ý nguyên tắc thống nhất và đối lập
của tánh ẩn với hiển, ví như nói có cơ điện lực (hiển tánh lực mà
ngũ giác quan có thể thấy) thì ắt phải có ý niệm lực (ẩn tánh lực
mà ngũ giác quan chẳng thể thấy).
Hãy xem biểu đồ so sánh như sau:
Hiển tánh lực |
Ẩn tánh lực |
Cơ điện lực |
YÙ niệm lực |
Vật thể vận
động |
Tinh thần vận
động |
Thật tử vận
động |
Hư tử vận
động |
Ngũ giác
quan thấy được |
Ngũ giác quan chẳng thể thấy |
Dùng sức trao truyền |
Dùng sức cảm ứng |
Hoằng quán
động thái |
Hoằng quán tịnh thái |
Thể xác
điều khiển |
Tâm lực
điều khiển |
Dựa theo 3
định luật của Newton. |
Dựa theo 3 tánh ẩn, hiển, trung của
vô cực. |
HIỆN TƯƠÏNG CHUYỂN HÓA CỦA TÂM PHÁP VÔ CÙNG
Hiện tượng của tâm pháp vô cùng cần phải xem theo thực
tế có thể thông qua ý chí lực tiến hành ý niệm hoạt động để sanh ra ý niệm lực hay không ? Khi bắn ra làn
sóng tin tức, ảnh hưởng vật chất thật-tử sanh ra biến hóa, quá trình
này tức phát công. Phương pháp phát công muôn muôn ngàn ngàn của nguyên
lý này, gọi là tâm pháp vô cùng.
Nguyên tắc chuyển hóa của hai tánh ẩn hiển này đến cấp bậc cao, có đủ thứ chuyển hóa, đều thuộc
về một nguyên lý, cũng là tâm pháp vô cùng. Ví như Đạo giáo xử
dụng bùa chú, thủ ấn, vật tin tức, bí quyết v.v… dùng nhiều phương cách
thúc đẩy ý niệm năng bắn ra làn sóng tin tức để
biến đổi sự kết cấu vật chất của thế giới thật tử.
Vì sự nhận thức của loài người đối với khoa học vũ
trụ còn kém, đối với cái không gian bốn chiều cao hơn tầng lớp của
không gian ba chiều này thật chẳng thể lý giải, hễ mở miệng liền lọt
vào tư duy tầm thường của phàm phu tục tử, đâu thể nhảy ra ngoài
khuôn khổ của không gian ba chiều để nhận thức pháp vô cùng tận trong
thế giới trong sạch từ không gian bốn chiều trở lên ! Sự cảm nhận
này chẳng thể hồ đồ, trái lại cần có cao độ
cảnh giác mới được.
KHOA HỌC PHƯƠNG TÂY VỚI KỸ THUẬT KHÍ CÔNG
Nói " phạm vi vật chất thật
tử vận động chỉ thích hợp trong không gian ba chiều" là
lý luận
của khoa học phương Tây, còn "phạm vi về ẩn tánh vận động thích
ứng nơi không gian bốn chiều" là triết lý của khoa học phương Đông.
Đông Tây phương mỗi mỗi đều có
quy luật và phạm vi khác biệt để thích ứng với lý luận của họ,
dùng khoa học phương Tây để xác định kỹ thuật khí công của triết
lý phương Đông, tức là
dùng khoa học hiện đại để xác định triết lý linh-học, thật là bất
khả tư nghì, chẳng biết dựa vào đâu mà đoán mò, có thể gọi là mắt
mù. Sở dĩ chúng tôi muốn nắm vững và phát triển khoa học hiện đại,
chỉ vì muốn cho lý luận Đông Tây phương song
song cùng tiến vào vũ trụ vô cực mà thôi.
Đứng trên vũ trụ vô cực để đối
chiếu đặc điểm khác biệt giữa không gian ba chiều với khí công học của
không gian bốn chiều như sau :
KHOA HỌC
HIỆN ĐẠI |
KHÍ CÔNG HỌC |
Thích hợp với không gian ba chiều |
Thích ứng với không gian bốn chiều |
Suy lý bằng logic |
Lãnh hội bằng linh cảm |
Cảm nhận bằng ngũ giác quan |
Cảm nhận siêu ngũ giác quan |
Cơ điện
động lực |
YÙ niệm công lực |
Dưới tốc
độ ánh sáng |
Siêu tốc độ ánh sáng |
Xử dụng máy móc |
Xử dụng tâm linh |
Dùng máy vi tính |
Dùng trí óc con người |
Có thể tái diển nhiều lần |
Tùy duyên chuyển biến |
Thích hợp thế giới hiển tánh |
Thích hợp thế giới ẩn tánh |
Chỉ dùng duy vật luận |
Kiêm dùng duy Tâm luận |
Theo đặc điểm khác biệt kể trê
n,
hiện tượng khí công chẳng thể đi theo đường lối
toán lý phương Tây để tìm sự phát triển, ấy là tiến vào khu
đen tối. Thế thì khí công cần phải tiến lên một tầng theo đường lối khoa học vũ trụ để tìm tòi tư tưởng
hướng dẫn của triết lý, từ trên tầng cao nhìn mới có thể dùng khách
quan phán đoán vị trí, thứ lớp, đặc điểm,
quan hệ hợp lý giữa khí công và khoa học hiện đại.
QUÁ TRÌNH VỀ NĂM GIAI ĐOẠN TIẾN
HÓA
Quá trình phát triển từ khoa học không gian ba chiều đến
khoa học không gian bốn chiều, có thể chia làm 5 giai đoạn như sau :
1/ Con người: Là người địa cầu thuộc không gian ba chiều,
dùng ngũ giác quan cảm nhận sự vật.
2/ Năng nhân: Nhà khí công đạt mức độ, gồm tánh ngộ
triết lý phương Đông và trí thức toán lý khoa học phương Tây.
3/ Kỳ nhân: Nhà khí công cao cấp hơn năng nhân, cũng là người công năng có mức độ, đã
khai ngộ tâm lý.
4/ Siêu nhân: Người có công năng
đặc biệt siêu việt kỳ nhân.
5/ Linh nhân :Có thể ra vào thế giới ẩn hiển, hư thật,
có công năng chuyển hóa không gian thời gian, hay phi hành, ẩn hành, sống tự
do nơi Thái dương hệ.
GIẢ THUYẾT VỀ CHU KỲ CỦA
VĂN MINH ĐỊA CẦU
Từ khi hình thành địa cầu đến
nay, đã trải qua nhiều chu kỳ. Vì văn minh
địa cầu có tánh chu kỳ tuần hoàn, nghĩa là từ xã hội nguyên thủy
dã man đến thời kỳ văn minh tột đỉnh gọi là
một chu kỳ; địa cầu chúng ta đã xuất hiện
bảy vòng chu kỳ văn minh rồi, đời sống văn minh
chúng ta hiện nay thuộc chu kỳ thứ tám, đồng thời đã phát triển gần
đến tột đỉnh.
Giả thuyết này đã được chứng minh bởi nhà khảo cổ
và những tài liệu đã phát hiện, đồng thời
cũng được sự chú trọng của giới học thuật cao cấp.
Theo sự phát hiện của nhà thám hiểm và khảo cổ, cho những
di tích kỳ quan và sự vật thời thượng cổ mà khoa học không thể giải
thích là sự sáng tạo bởi người văn minh của chu kỳ trước.
Cũng như sự truyền thuyết về
vương quốc Lan-Tế-Tư (Atlantic) đã chìm mất nơi biển Đại Tây Dương,
là một vương quốc có công năng kỹ thuật khoa học
cao đã tồn tại trong chu kỳ văn minh trước. Kim tự tháp của Ai Cập và
kim tự tháp dưới đáy biển Mexico, đều thuộc về loại kiến trúc công
năng cao do người văn minh chu kỳ trước sáng tạo.
Thời gian cách nhau của mỗi vòng chu kỳ có dài có ngắn,
quy luật phát triển đại khái giống nhau, đều từ
thời đại thạch khí, mộc khí, thiết khí, đồng khí, tiến triển đến
thời kỳ chăn nuôi và nông nghiệp, dần dần
từ thời đại nhân lực, thú lực nhảy vọt đến cơ khí bốc hơi, đến
cơ giới hóa, điện tử hóa, thời đại điện tử vi tính mà đạt đến
tột đỉnh của văn minh.
Sự phát triển của mỗi chu kỳ văn minh khoảng mấy mươi
ngàn năm, đồng thời phát triển từ chậm đến nhanh. Cũng như phát hiện
máy bốc hơi cách đây mới mấy trăm năm, mà kỹ thuật khoa học của
loài người đã nhảy qua nhiều giai đoạn, thẳng
đến điện toán vi tính và thời đại thái không. Vậy sau thời đại điện
toán sẽ là thời đại gì ? Ấy là thời đại trí óc, thời đại ý niệm, thời đại bộc phát tiềm năng
trong cơ thể con người, nghĩa là thời đại công năng ẩn tánh đặc biệt,
từ thời đại của không gian ba chiều nhảy vào thời đại ẩn tánh của
không gian bốn chiều, cũng là thời đại khoa học kỹ thuật vô cực.
KỲ QUAN TRONG ĐỘT BIẾN
Nơi giai đoạn cuối của mỗi chu kỳ,
trong cả tỷ người văn minh, sẽ xảy ra một lần sàng lọc lớn trong đột
biến. Qua sự sà
ng lọc chia làm ba loại người: Nếu chẳng thể tiến
vào Thái dương hệ gia nhập hàng ngũ của sinh linh cao cấp nơi hành tinh,
thì sẽ ở lại trên địa cầu lui vào hàng ngũ loài người văn minh thấp
kém, trở lại cuộc sống nguyên thủy, sống theo cuộc sống dã man. Đối với những người chẳng thể tiến hóa cũng chẳng
thể thoái hóa, sẽ chết đi trong đột biến. Do đó, loài người trong đột
bi?n sẽ xuất hiện ba tình trạng :
1/ Tiến vào vũ trụ vô cực; 2/ Trốn vào rừng sâu; 3/ Tử
vong.
Loại thứ nhất có thể dùng phương thức hư hóa, quang
hóa, nhờ ý niệm lực chuyển hóa vật chất thật tử của cơ thể thành
làn sóng tin tức hư tử, xử dụng xích-lực vạn hữu
rời khỏi địa cầu, tiến vào hàng ngũ của người Thái dương hệ.
Loại thứ nhì trong đột biến trải qua nhiều tai nạn, may
mắn sống sót, vì mất đi kỹ thuật hiện đại,
dần dần trở về cuộc sống nguyên thủy, quần áo rách hết mặc lá
cây, lương thực ăn hết rồi ăn c?, chẳâng có nhà ở, ở trên cây
và dưới hang, chẳng có xe cộ tập đi bộ, sống không nổi thì chịu chết,
người sót lại thì làm người nguyên thủy, đi vào cuộc sống bộ lạc.
Còn có một số siêu nhân, linh nhân, dù chưa thể ẩn bay
tiến vào vũ trụ vô cực, nhưng họ đã có công năng đặc biệt, có thể tự khống chế cuộc sống, ăn mặc
đi ở, chẳng bị chết đói, chết rét, chết nóng v.v… Họ vẫn ở lại
địa cầu, tự do sống nơi khu đột biến giữ trạng thái linh nhân, giống
như những nhân vật Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế và Đại Dũ… trong
lịch sử Trung Quốc. Vì họ đã nắm vững ý niệm năng, có công năng đặc biệt, nên dẫn dắt dân chúng
kháng lại tai biến, giúp đỡ họ tránh khỏi tai nạn và dạy bảo họ
tiếp tục sinh sống.
Tình trạng xuất hiện tai biến trong cuối chu kỳ văn minh
trước, sau này nhờ người nguyên thủy ghi truyền lại như thần thoại,
do đó có những câu truyện như: Bà Nữ Oa bổ thiên (chống bão lụt), Đại Dũ trị thủy (đào sông thoát nước), Ông
Công dùng đầu chạm núi (chống động đất), Hậu
Nghị dùng tên bắn mặt trời (chống tiểu hành tinh va chạm địa cầu), và Phục Hy vẻ bát-quái-đồ (linh
nhân dùng dấu hiệu ghi lại những trí huệ cao tột để truyền lại đời
sau).
Từ kỳ quan này có thể tưởng tượng mỗi cuối chu kỳ
văn minh đều xuất hiện tai biến, khiến văn minh
đột nhiên giải thể, rồi đi vào hổn loạn giữa người tiến hóa
và thoái hóa, giữa thần và người cùng sống chung trên địa cầu.
Nói "Thần" là chỉ những linh nhân không thể rời
khỏi đĩa cầu,, "người" là chỉ thoái hóa như dã nhân, có thể
thích ứng hoàn cảnh khó khăn, bắt đầu lại cuộc
sống của thời nguyên thủy. Sau đó linh
nhân dần dần rời khỏi hoặc chết đi, dã nhân cũng từ từ tiến
vào thời đại nông mục, từ xã hội nô lệ tiến bước đến thời đại văn minh.
Chúng ta có thể tưởng tượng rằng sau kỳ quan đột biến,
những linh nhân thống lĩnh người thoái hóa, trạng thái công năng giữa họ
chênh lệch rất nhiều, con cháu siêu nhân tự nhiên trở thành chủ
nô lệ, người thoái hóa bất giác hình thành nô lệ, sau đó diển biến từ
từ, chênh lệch rút bớt, dần dần nói đến bình đẳng, rồi tiến vào văn minh cận đại thành xã hội dân chủ.
Theo quy luật thiên nhiên, hiển thịnh ẩn suy, công năng của
siêu nhân dần dần tiềm ẩn, người thoái hóa đến
cực điểm rồi từ từ thông minh trở lại, ra sức kháng cự lại chủ
nô lệ, nên xuất hiện giai cấp đấu tranh, rồi xuất hiện trang sử mới
trong chu kỳ. Về sau nhân loại sáng lập văn tự, từ đó ghi lại hiện tượng
diển biến trong lịch sử cho đến ngày nay.
Từ sự diển biến của hành tinh, cho đến diển biến chu
kỳ tuần hoàn của các sinh linh, và chu kỳ văn
minh của người địa cầu, sự thịnh suy tuần hoàn đều là quy luật
tự nhiên, không cần phủ nhận hay đề xướng, chẳng thể cho là chơn hay
giả: như những sự vật do ngũ giác quan cảm nhận cho là giả, người siêu
ngũ giác quan cảm nhận lại thấy có sự thật khách quan; cũng như giữa
khỉ vượn với loài người vì tầng lớp cấu tạo sinh mạng có cao thấp,
nên sự cảm nhận chẳng đồng, tranh luận với nhau chẳng có ý nghĩa.
Quan điểm khái niệm của sách này
chẳng phải chỉ muốn độc giả dùng để tham khảo, mà hy vọng có thể
kích phát tiềm năng của mọi người, phổ biến sanh khởi tác
dụng
của huệ nhãn thông linh.
Bởi vì chơn lý luôn từ chỗ sai lầm qua sự biện chứng
mà sanh ra, mong độc giả cùng nhau đi đến giác ngộ.
ẨN NĂNG TẠI SAO CÓ THỂ TIỀM TÀNG ?
Nguyên lý vô cực cho chúng tôi biết "hiển thịnh thì
ẩn suy", công năng do ngũ giác quan cảm nhận thuộc hiển, siêu ngũ giác
quan cảm nhận thuộc ẩn. Người dã man thời thượng cổ ăn thịt sống uống
máu tươi, hiển suy thì ẩn thịnh, khi ấy chẳng ai dự báo khí thời, chỉ
dùng siêu ngũ giác quan đã sẵn tự đi cảm nhận. Sau này biết dùng con mắt
để quan sát hiện tượng trên trời để phán đoán
mưa gió khí trời, thì công năng cảm nhận đặc biệt bị thoái hóa tiềm
ẩn. Hiện đại có kỹ thuật dự báo thời tiết, người ta luôn cả kỹ
thuật quan sát bằng mắt cũng buông bỏ. Có lẽ người thời nay cho rằng
sự cảm nhận của ngũ giác quan trực tiếp phương tiện, đối với cuộc
sống hàng ngày trong xã hội đã đủ dùng, những công năng biết xa
thấy xa, dời vật bằng ý niệm v.v… cũng từ từ thoái hóa tiềm ẩn.
Ví như đứa bé chưa ra đời, trong
bà
o thai tự phải dùng công năng ẩn tánh, sự hoạt động trong bào thai đâu thể xử dụng sự cảm nhận
hiển tánh của ngũ giác quan ! Nhưng khi đứa bé ra đời, ẩn hiển liền
chuyển hóa, công năng của nó lập tức chuyển biến: Khi đứa bé lần đầu
tiên mở mắt ra, xem vật gì cũng không rõ, nhưng những ngày tháng về sau, công năng hiển tánh dần dần phát triển, thì
công năng ẩn tánh đã xử dụng trong bào thai của mẹ lại dần dần
chìm mất.
Lại, những động vật nhỏ sống
dưới mặt đất, dưới đáy biển, chẳng thể hoà
n toàn xử dụng
ngũ giác quan, nên công năng ẩn tánh của chúng vẫn
được giữ lại phần nào để xử dụng.
Đối với tuyết nhân và
dã nhân do nhà thám hiểm đã
phát hiện, họ chẳng có cuộc sống văn minh xã hội, nên công năng hiển
tánh rất ít, chủ yếu dùng công năng ẩn tánh để
sinh sống, bao gồm dùng "tin tức cảm ứng" để liên hệ với
nhau, ẩn hình ẩn bay, chống tránh tai họa, tuyệt thực, chống tuyết,
công năng miễn dịch, tha tâm thông v.v… Đó là
nguyên nhân vì sao họ có thể sống trong vùng sâu núi tuyết, quần áo lương
thực không đảm bảo, dưới thiên tai bệnh hoạn bao quanh v.v… Từ việc
này cũng có thể giải thích tại sao nhà khoa học thám hiểm trải qua mấy
mươi năm cũng chẳng thể bắt sống một tuyết nhân và dã nhân, chứng tỏ
họ có công năng đặc biệt để ẩn bay trốn thoát.
Lý luận này xin dành cho người nghiên cứu khảo sát để làm tài liệu
tham khảo.
BIỂU ĐỒ ẨN HIỂN CỦA KHOA HỌC
VŨ TRỤ
Vật lý sinh mạng công trình học
hiển tánh |
Sinh lý học (Hiển)
Sinh vật học |
-Tự nhiên kích phát công
năng (Ẩn)
- Nhân công kích phát |
Triết lý sinh mạng công trình học |
Khí công học (hiển) |
Linh học (ẩn) |
ĐIỀU KIỆN ĐÀO TẠO CÔNG NĂNG
ẨN TÁNH
Nhà khí công có thể thông qua một phương thức đào tạo
trẻ em xuất hiện công năng ẩn tánh, có một phương pháp rất phương tiện
và giản dị, ấy là cho trẻ em tập đứng im như ngơ ngốc: Trước tiên
cho các em thư dãn như nhập định, nhắm mắt nhìn vào trong cơ thể, nhìn
mãi nhìn mãi, có thể thình lình quên mình mà xuất hiện công năng nhìn thấu
vật chất, nhìn xa, cảm nhận tin tức bằng ý niệm, cho đến dùng ý niệm
làm công tác khác thường …
Còn có điều kiện nào nữa để kích
phát công năng ẩn tánh hay không ?
Có, bất cứ người lớn trẻ em, đều phải dựa theo những
điều như sau :
1/ Tin thì có, thành thì linh.
2/ Tịnh, thư dãn vào tịnh, do tịnh sanh huệ.
3/ Niệm trong sạch, ấy là xả trừ tạp niệm, trong tâm
bình thản chẳng có áp lực, gánh vác, chẳng mong cầu.
4/ Ngơ ngốc, tức là lúc luyện công được quên mình, trở
thành ngơ ngốc, hiển suy thì ẩn thịnh, công năng tự hiện.
Độc giả có thể thực tập thử
bốn điều kiện nà
y !
ĐƯỜNG LỐI THÔNG LINH
Kỳ thật đã có một đường lối
thông linh có thể đột phá sự tự bế tắc, loài người hiện đang đi trên
con đường nà
y, tiến vào vùng sâu của vũ trụ.
Nhân tiện đề cập đến, trong cuối
chu kỳ văn minh lần trước của địa cầu, đã
có nhiều kỳ nhân,
siêu nhân dựa theo con đường thông linh này bước vào không gian bốn chiều,
gia nhập hàng ngũ sinh linh cao cấp. Thế thì cuối chu kỳ văn minh này cũng
sẽ có một số kỳ nhân, linh nhân, siêu nhân thông qua tin tức cảm ứng,
đi trên con đường thông linh này.
Sự tiến vào hành tinh nơi không gian bốn chiều, sinh sống
nơi Thái dương hệ, ấy là lý tưởng của nhà khoa học ngày đêm mơ ước,
vậy con đường thông linh ở đâu ? Nhà khoa
học trước tiên nghĩ đến là máy móc, phi thuyền, phi hành, dĩa bay hành
tinh … Nhưng theo triết lý phương Đông thì cho rằng con đường này chẳng thể đi được
Qua lại giữa hành tinh nơi Thái dương hệ thuộc không gian
bốn chiều, là chiều thời gian, thuộc ẩn tánh, hư tánh, nếu chỉ dùng kỹ
thuật khoa học cao tột hiện đại, những máy móc vận tải cấu tạo bằng
vật chất hiển tánh, thì không thể đưa con người
đến không gian ẩn tánh được. Nói theo thuật ngữ khoa học phương Tây,
chẳng siêu việt tốc độ ánh sáng thì không thể lìa khỏi địa cầu.
Cho dù chúng ta đi đến sao hỏa, sao thủy, thì
sinh sống bằng cách nào ? Chẳng thể theo cách sống thông thường của địa
cầu để sinh sống tại đó. Sau cùng phải nhờ
con đường do công năng của bản thân con người từ hiển chuyển thành
ẩn, khiến thể xác và thể vận tải (dĩa bay hoặc phi thuyền) đều trở
thành làn sóng tin tức, dùng tốc độ siêu ánh sáng, trong một niệm ẩn
bay đến chỗ mục đích, không sợ lạnh, có trạng
thái công năng đặc biệt kéo dài cuộc sống cho đến trẻ mãi
không già…
?y là việc sau khi con ngưòi đã có công năng ẩn
tánh, xử dụng ý niệm lực có thể điều khiển ý niệm năng, ẩn hiển
chuyển hóa, hư thật giao biến, thời không dời đổi, trở thành con đường
thông linh. Đây chỉ là lý tưởng bước đầu do sự chỉ dẫn của triết
lý..