Điều nầy nghe như một
định nghĩa ghê gớm, mà sự thăm dò của ngành nầy ít có liên
quan đến những vấn đề mà chúng ta hằng ngày gặp phải. Thật
ra, vấn đề ngược lại thì đúng hơn, từ khi có sự hiểu biết
về những vận hành và quy luật của vũ trụ, và mô hình của quy
luật nầy đang mở bày ra để có thể cung cấp cho chúng ta, những
con người tầm thường, sự chỉ dẫn quý báu. Nếu chúng ta đủ sáng
suốt để đi theo sự hướng dẫn nầy, chúng ta sẽ tránh được những
quyết định sai lầm có thể dẫn đến những hậu quả không tốt, thay
vì tiến triển đến các mục đích tốt đẹp trong đời sống của chúng
ta.
Thêm vào đó, bởi trí tuệ vô
hạn của Thầy chúng ta, đức Phật Sakyamuni (Thích Ca) và những bậc
trước đó đã xuất hiện trên thế gian trước thời của đức Phật
Thích Ca, chúng ta thật may mắn là những người thừa kế một
truyền thống vũ trụ học vĩ đại, đáng kính, đáng sợ, hoàn toàn
làm lu mờ những khái niệm tôn giáo Tây phương. Kể cả trước
thời của đức Phật, những nhà thông thái và triết gia Ấn Độ
qua sự tưởng tượng, sử dụng những sức mạnh siêu phàm và sự
trầm tư của một trí tuệ cổ xưa nhất đã có từ thời tiền
sử, đã xoay xở để đạt đến khái niệm của vũ trụ bao la, của
không gian, và thời gian không thể đo lường. Trên thực tế, họ đã
đạt đến một điểm – điểm vô tận.
Văn học Phật giáo rõ ràng chứng
minh sự thật là đức Phật, với Phật nhãn, đã thanh lọc và hoàn
hảo hoá sự hiểu biết về cái vô hạn thực sự của vũ trụ cũng
như thời gian dài không thể tính được của thời quá khứ, hiện
tại, và tương lai trong vòng tròn của sinh diệt và hiện hữu. Vũ
trụ được khoa học biết đến chỉ là tầng thấp nhất của ba mươi
mốt tầng, vũ trụ không thể đếm được, vì không có khởi đầu.
Vũ trụ vật chất bao gồm sự
vô hạn định của nhiều hệ thống thế giới nằm rải rác trong không
gian vô định, mỗi thế giới đều thành hình và rồi bị huỷ diệt
trong vòng thời gian vô thuỷ vô chung.
Để cho các đệ tử hiểu chút
ít về ý nghĩa của số lượng lớn thời gian cần có, để hiểu về cuộc
sống mà họ hiện đang trải qua, đức Phật tuyên bố số lượng sữa mẹ
được uống và nước mắt đã chảy trong những kiếp sống trước còn
nhiều hơn nước trong bốn đại dương.
Khái niệm của Phật giáo bao gồm
chân trời to tát, rộng lớn với tầm nhìn vô tận, ngược lại với khái
niệm hạn hẹp của địa lý được tìm thấy ở văn chương tôn giáo của
Do Thái và Ả Rập (Semitic), đặc biệt là Kinh Thánh; theo lời của một
tác giả đương thời, “giống như bước ra một túp lều không cửa sổ
và nhìn lên bầu trời nửa đêm đầy sao".
Chiều dài không tính được của
thời gian thế giới được nói đến như là một kiếp hoặc một đại kiếp.
Một kiếp được chia ra thành bốn thời gian ngắn, mỗi thời gian rất
dài, không thể đo lường kể cả bằng ngàn năm. Trong thời gian đầu của
một kiếp, hệ thống của những thế giới đã hiện hữu hoàn toàn bị
tiêu huỷ, hoặc chuyển thể sang những nguyên tố kết hợp. Phần đông
chúng sinh sống ở nhiều tầng hiện hữu khác nhau, được tái sanh ở thế
giới của Phạm Thiên, tầng hiện hữu cao nhất và tinh tế nhất, không bị
huỷ diệt và tan biến. Thời gian thứ hai của một kiếp bắt đầu, chúng
ta tìm những phần tử năng lượng còn lại, tiêu biểu hoàn toàn tính
khách quan, và thế giới Phạm Thiên và các chúng sinh sống ở đó, biểu
hiện tính cách chủ quan, bị chia cách bởi các thái cực của sự hiện hữu
phi thường. Sự tách rời nầy tiếp tục cho đến thời gian thứ ba của một
kiếp đang hình thành. Trong thời gian nầy, hệ thống thế giới tiến hoá
từ những phần tử còn lại, trong khi số đông chúng sinh thì từ trời Phạm
Thiên thác sinh trở lại trên mặt đất tối tăm và đầy nước. Điều nầy
dường như không làm phiền đến các chúng sinh có tâm thức ở từng trời
Phạm Thiên, họ vẫn sống như họ từng sống, thân thể sáng chói, được
nuôi dưỡng bởi sự sung sướng và không có giới tính.
Với thời gian dài vô tận, các điều
kiện (nhân duyên) bắt đầu thay đổi. Cặn bã, với một chút sôi sục của
nước gạo, bắt đầu tụ lại trên mặt đất lạnh, và những sinh vật của
địa cầu bắt đầu nếm thử và thích thú với vị giác nầy. Niềm sung
sướng nầy dẫn đến sự ham muốn và dần dần họ nương tựa vào cặn
bã nầy để làm món ăn. Những con người ở đây thấy thân thể nhẹ
nhàng của họ mất dần ánh sáng, và trở nên nặng nề, thô kệch, và
hình dạng và diện mạo của họ bắt đầu biến đổi. Dần dần, nước
phủ trên mặt đất rút xuống; sương mù biến mất, và mặt trời, mặt
trăng hiện rõ trên nền trời.
Với thời tiến hoá liên tục, đầu
tiên rêu mọc, rồi đến các cây bò sát, cây leo, và cuối cùng là những
hạt giống ăn được xuất hiện. Lúc con người học tồn tại nhờ vào
những nguồn thức ăn nầy, họ trở nên thô kệch, mất hết ánh sáng và
nét rạng rỡ. Và rồi, họ thay đổi, trở thành những giống khác nhau, cũng
như trở thành nam và nữ. Sự chia rẽ thành hai giới tính đưa đến tình
trạng ham muốn nhục dục, đam mê, và ganh ghét, và đồng thời hình thành
nhóm gia đình, và rồi sự thành lập xã hội. Hồ sơ vấy máu của vài chục
ngàn năm vừa qua, là bằng chứng cụ thể về tình trạng điển hình của
thời kỳ cuối của giai đoạn thứ ba của một kiếp.
Phần thứ tư và cuối cùng của một
kiếp là lúc hệ thống thế giới vẫn giữ ở nấc thang phát triển mà
nó đã đạt đến, cho đến lúc bắt đầu một kiếp mới, trong lúc nầy
cả tiến trình được lập lại. Dù muốn dù không, chúng ta cũng đang ở
bên lề giai đoạn thứ tư của kiếp hiện tại.
Cần phải thấy rõ là tiến trình
khó tin nầy chứa đựng một mâu thuẫn gây đau khổ : Khi hệ thống thế
giới đi theo con đường đưa đến sự tiến bộ rất cao về mặt vật chất,
mỗi một bước tiến về mặt vật chất kèm theo đó là một bước tuột
dốc về mặt tinh thần, hoặc tâm linh.
Nguyên tắc nầy áp dụng cho toàn bộ
hệ thống thế giới, và trái đất vô nghĩa nầy là một phần trong hệ
thống ấy. Hệ thống thế giới có khoảng 10.000 thế giới.
Có rất nhiều hệ thống thế giới
như nói ở trên, và chiều dài của một kiếp thật là dài quá sức
tưởng tượng, sự xuất hiện của đức Phật chỉ là việc hiếm
có, so với thời gian một kiếp. Có vài kiếp được xem là những kiếp
trống không vì không có vị Phật nào xuất hiện. Những kiếp khác may mắn
hơn có thể có một hoặc nhiều vị Phật. Hệ thống thế giới của
chúng ta, trong vòng nhiều kiếp được ưu đãi với 28 vị Phật, kể cả
đức Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni). Kiếp mà chúng đang sống được xem là 1 kiếp
rất thịnh vượng với năm vị Phật : Kusanda, Konagamana, Kasyapsa, Sakyamuni và
Maitreya, vị Phật tương lai.
Bây giờ chúng ta hãy để tâm đến
những chúng sinh thông minh, có tri giác của những loài khác nhau đang hiện
hữu trong vũ trụ của chúng ta, kể cả ở những vũ trụ không thể đếm
hết, qua những thời đại không thể đo lường. Mặc dầu, thông thường
thì chỉ có con người mới có thể giác ngộ, nhưng có những tầng hiện
hữu cao hơn và sung sướng hơn, có những chúng sinh được ưu đãi với vẻ
đẹp, sự sung sướng và quyền lực cao hơn loài người rất nhiều. Tái
sanh ở những thế giới nầy chỉ dành riêng cho những chúng sinh biết làm
việc phước thiện, và sống cuộc sống đoan chính. Tuy vậy, những tầng
trời nầy không thường hằng, và một khi nghiệp tốt đã hết, những
sinh linh nầy sẽ phải đầu thai lại làm người ở nơi trần thế.
Dưới cõi trần, có vô số cấp bậc
thấp, sống rất đau khổ, những tầng địa ngục khủng khiếp, nơi đó
các chúng sinh đã từng làm ác đang bị trừng phạt cho đến khi họ thay
đổi trở nên tốt hơn, và có mong ước được tiến triển nơi cõi người,
và nơi này là nơi duy nhất để có thể giác ngộ và đạt đến Niết Bàn.
Tuy vậy, như chúng ta đã thấy, thời
gian và không gian là vô định, và hoàn cảnh của một chúng sinh trong đời
sống đặc biệt nào đó chịu nhiều ảnh hưởng của nghiệp quá khứ
trong những kiếp trước. Năng lượng nghiệp quả này hình thành thiên hướng,
tính cách, và trong chừng mực đáng kể, ảnh hưởng đến tư cách và cá
tính của người này. Để có được sự lựa chọn còn tuỳ thuộc vào việc
người này bị khuất phục bởi năng lượng không tốt của quá khứ, và
chẳng chịu cố gắng để sửa đổi hành vi xấu của mình. Trong trường
hợp này, kẻ này sẽ tái sanh trong một tình trạng xấu hơn tình trạng hiện
tại. Mặt khác, nếu người này tìm hiểu về Phật tính, qua sự cố gắng
để thay đổi khắc phục tính xấu, và để cho ý thức vươn lên đến mức
độ cao của trí tuệ, từ bi và sự sáng suốt, kiếp tái sanh tới của người
này không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ là một tái sanh tốt đẹp, thuận lợi,
với nhiều cơ hội để tiến triển đến mục đích tối thượng – giác
ngộ.
Do đó, con người hoàn toàn chịu
trách nhiệm về định mệnh của chính mình. Tất cả chúng sinh đều nặng
trĩu nghiệp, được tái sanh, để kinh nghiệm một cách không ngừng nghỉ
về sự chuyển đổi vận mệnh, được định sẵn hoàn toàn do những chọn
lựa, và hành động của họ trong những kiếp sống ở quá khứ. Đức Phật
vì trí tuệ và lòng từ bi đã tuyên bố về sự thực của vòng luân hồi
mãi mãi tiếp diễn cùng với đau khổ và sự bất như ý. Đức Phật muốn
những người theo Phật phải hiểu rõ hai nguyên nhân khủng khiếp không thể
tránh khỏi cho việc tái sanh không ngừng nghỉ, ấy là ham muốn và si mê.
Ham muốn và si mê chỉ bị khắc phục xuyên qua việc giác ngộ, đạt đến
trí tuệ, và việc tái sanh sẽ không còn nữa. Để giải thoát khỏi vòng
luân hồi, dĩ nhiên mục tiêu tiến đến là Niết Bàn.
Đức Phật mở rộng những thảo
luận về nhân duyên tái sanh ở bài giảng về mười hai nhân duyên, được
gọi là Pratitya Samutpada. Tương quan phụ thuộc của nhân duyên, hay luật
nhân quả của đạo Phật, được nói đến trong mười hai nhân duyên đưa
đến sự đau khổ triền miên và sự bám víu vào việc tái sanh. Mỗi một
nhân duyên trước dựa vào nhân duyên đã có trước đó. Như vậy, khi si mê
chấm dứt, thì các bố trí của nhân duyên cũng chấm dứt, ý thức dứt rồi,
thì tất cả mọi thứ như già, chết cũng như tái sanh đều dứt bặt hết.
Sau khi đức Phật nhập diệt, cái
thấy của đức Phật về luân hồi, vòng luân chuyển của hiện hữu,
cùng với mười hai nhân nhuyên được trình bày như một sơ đồ, thường
được thảo kỹ lưỡng, chi tiết trong bức hoạ, được gọi là Bánh xe
luân hồi (Wheel of Life). Dưới dạng biểu đồ nầy, sơ đồ biểu trưng kịch
đời của một người, với sự lựa chọn của họ và những kết quả tiếp
sau đó. Như chúng ta thấy sơ đồ tôi đang cầm trên tay, nguyên bánh xe
được nắm giữ ở miệng và nanh vuốt của Mara, trong trường hợp nầy
biểu trưng cho sự vô thường và cái chết. Ở chu vi của bánh xe, chúng ta
thấy mười hai nhân duyên và móc xích của nó. Ở trung tâm, chúng ta thường
thấy biểu tượng của ba độc : gà trống tượng trưng cho ham muốn, rắn
tượng trưng cho giận dữ-căm ghét và con heo biểu trưng cho ảo tưởng. Những
độc nầy được xem là những sức mạnh đẩy đưa chúng ta vào vòng sanh
tử. Mỗi cá nhân phản ứng theo những sức mạnh nầy tạo thành nghiệp,
từ đây quyết định nơi nào trên vòng bánh xe mà người đó sẽ bị tái
sanh.
Như chúng ta quan sát sơ đồ, có thể
thấy rằng, có sáu thế giới để chúng sinh tái sanh. Tái sanh ở cõi trời,
cõi A-tu-la hoặc cõi người là phần thưởng cho cuộc sống đoan chính, và
những hành động phước thiện, trong khi tái sanh ở cõi súc sinh, và ngạ
quỷ hoặc địa ngục thì có thể xem là bị trừng phạt cho cuộc sống đắm
mình trong si mê, tội ác, chuyên hại người, và không cố gắng vươn lên
để đạt đến trình độ cao của ý thức. Tuy vậy, như tôi đã nói trước
đó, cuộc sống ở địa ngục có thể kéo dài trong một thời gian khác thường,
rất là lâu , nhưng may mắn thay, không phải vĩnh viễn. Tái sanh trong ba
cõi thấp nhất có thể được xem là tình thương cứng rắn của đức Phật,
xem như là một dạng để dạy dỗ và cải thiện những người nầy, như
vậy sau khi nghiệp xấu đã trả xong, họ có thể tái sanh làm người.
Cõi người, cho dù thấp hơn cõi trời
và cõi A-tu-la, cũng vẫn quan trọng hơn, vì chỉ nơi cõi người, trí tuệ
và đức hạnh mới có thể tăng trưởng. Như đã nhắc qua lúc trước, các
chúng sinh tái sanh ở hai cõi cao kia, cũng chỉ là tạm thời, đó là phần
thưởng của họ ở kiếp sống đạo đức trong quá khứ. Tuy nhiên, một
khi nghiệp tốt đã hết, họ sẽ bị tái sanh ở cõi thấp hơn. Sự trục
xuất này đưa họ ra khỏi tình trạng hưởng thụ, đặc ân, có thể nói
là cực kỳ đau đớn.
Do đó, tất cả các cõi luân hồi
với sự thay đổi, đau khổ và cái chết là những việc không ai ưa thích.
Chỉ duy nhất một mục đích, thường hằng và muốn giải thoát vĩnh viễn
khỏi đau khổ, cách tốt nhất là giác ngộ. Đó là sự giải thoát khỏi
bánh xe luân hồi. Đấy là Niết Bàn, giải thoát khỏi tái sanh, và chuyển
hoá hoàn toàn vòng sinh tử ác nghiệt mà chúng ta gọi là luân hồi.
Cho nên, Phật đã từng ném vào mỗi
cá nhân, một câu nói đã từng vang vọng qua hàng thế kỷ: "Đây là
con đường đưa đến giải thoát khỏi đau khổ. Hãy bước đi.”