- Chúng tôi học kinh (1)
- Tâm Minh
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn".
Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng
từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một
Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng
nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng
1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học
cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã
tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền
Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì
không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy
mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1
Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải
thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
- 1/ Phát Bồ Đề Tâm Văn (của Ngài Thật Hiền).
- 2/ Kinh Di Giáo.
- 3/ Kinh Pháp Bảo Đàn.
- 4/ Kinh Kim Cang.
- 5/ Kinh Lăng Nghiêm.
- 6/ Kinh Thắng Man.
- 7/ Kinh Pháp Hoa.
- 8/ Duy Thức Học (hay Thắng Pháp Tập Yếu Luận cũng được)
- 9/ Kinh Duy Ma Cật.
Thứ tự không cần theo đúng miễn là khi học xong 1 bộ
kinh nào thì có một người đại diện Chúng trình bày lại quá trình tu học
như thế nào cho các Anh nghe. Hồi đó muốn đến nhà nào buổi tối mà
trên 3 người thì chủ nhà phải báo cho Công An khu vực biết. Chúng tôi
có tới 10 anh chị em, mỗi tuần học Phật pháp một lần, vào tối thứ Năm,
thay đổi địa điểm luôn để khỏi phải báo cáo. Chúng tôi nghĩ rằng mình
tu học thì cần gì phải báo cáo. Vả lại nếu mình báo cáo, mấy ổng tới
ngồi nghe có thể xảy ra nhiều cái nguy hiểm không lường trước được.
Ví dụ hồi anh Như Tâm Nguyễn Khắc Từ đi dự trại ở Phan Thiết, ảnh
nhắc lại câu nói của Đức Phật :"Các người hãy tự mình thắp đuốc
lên mà đi" vậy mà Công An Phan Thiết bắt ảnh bỏ tù mấy năm vì cho
rằng ảnh xúi giục thanh niên phản động. Họ nói mình chê ngọn đuốc của
đảng Cộng Sản nên mới tự thắp đuốc lên mà đi. Thật là một sự hiểu
lầm tai hại và câu chuyện giống như câu chuyện tiếu lâm nhưng mà đó
là sự thật 100%. Do đó chúng tôi rút kinh nghiệm là học Phật pháp không
có gì phải báo cáo cả. Thế là anh chị em chúng tôi cứ thay phiên nhau phụ
trách chỗ tu học của Chúng mình. Khi thì ở nhà anh A, khi thì nhà chị B,
khi thì sân chùa Vạn Hạnh, Già Lam....
Tôi vẫn nghĩ rằng khi nào có dịp tôi sẽ viết lại những
kỷ niệm về các buổi học này. Giai đoạn sinh hoạt khó khăn của người
Htr GĐPT nhưng cũng là giai đoạn đáng nhớ nhất vì hình như trong gian khó
nguy nan chúng ta cáng thương yêu, hiểu biết nhau hơn, cũng như chia ngọt xẻ
đắng với nhau trong mọi lúc, có khi còn hơn cả tình ruột thịt. Có những
buổi trưa nắng gắt, vài anh chị em chúng tôi phải chạy qua Vạn Hạnh
"cầu cứu" Thầy Chơn Thiện vì "Duy Thức" quá khó, "tối
nay phải học Duy Thức rồi mà bây giờ tụi con chưa hiểu rõ về 30 bài tụng
Thầy ơi". Thế là Thầy bỏ giấc ngủ trưa ra sức giảng "Duy Thức
tam thập tụng" ra tiếng Việt cho chúng tôi nắm bắt kịp. Chúng tôi
thật vất vả theo cho kịp những lời giảng của Thầy về sự "triển
chuyển của Nghiệp", mồ hôi nhễ nhại trong buổi trưa Hè cúp điện
(nên không có quạt). Ôi, những kỷ niệm thật tuyệt vời, về Thầy, về
bạn, về các Anh Chị ..v..v...
Trở lại với chuyện tu học của Chúng Cổ Pháp: chúng
tôi lập ra 1 bản danh sách về sách Phật pháp, kinh điển, rồi coi thử
trong Chúng ai có bộ nào. Bộ nào cả Chúng không ai có thì để mượn quý
Thầy hay các Anh sau và sẽ học sau cùng. Thật là may, gần như bộ kinh nào
cũng có 2, 3 anh chị đều có. Kinh Pháp Hoa thì hầu hết mọi người đều
có và chỉ có kinh Thắng Man là mọi người đều không có nhưng biết tên
người có sách này nên tất cả đều thật là hoan hỷ.
Chúng tôi bắt đầu bằng bộ kinh Pháp Hoa. Kinh gồm 28 phẩm,
chúng tôi quyết định mỗi tuần phải học xong một phẩm. Pháp Hoa nhiều
bạn có cả kinh lẫn sách chú giải..v...v... cụ thể như sách của các Thầy
Thiện Hoa, Thanh Từ, Từ Thông, Thông Bửu, Chơn Thiện, Trí Quảng, bác Tâm
Minh Lê Đình Thám, cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền...v..v... nên tương đối
khi học kinh Pháp Hoa chúng tôi không phải "khổ sở chạy đôn chạy đáo"
như các bộ kinh khác (Thắng Man hay Duy Thức chẳng hạn).
Khó khăn ban đầu (và còn mãi về sau này) là khi gặp từ
ngữ nào ít dùng, chúng tôi thường dừng lại rất lâu, không ai nhường
ai, mạnh ai nấy nói, nhất là khi anh chị nào đã được đọc sách hay
nghe quý Thấy giảng về chữ đó. Cuối cùng chúng tôi cũng khắc phục
được một phần nào là đưa ra một luật chung: bất cứ bàn luận sôi nổi
như thế nào cũng phải chấm dứt bàn luận trước giờ tan lớp học là nửa
giờ để mỗi người nói ra trước Chúng bài học mà mình đã nhận được
trong buổi học này, và đã áp dụng bài học ấy trong cuộc sống như thế
nào. Từ đó chúng tôi bớt tranh cãi về từ ngữ để hướng đến cốt tủy
của câu kinh mình vừa đọc. Tất nhiên ai nấy đều đọc trước ở nhà,
đến lớp chỉ là để được soi sáng thêm những chỗ mình còn thắc mắc.
Đôi khi có anh chị đã nghe quý Thầy giảng rồi hay nghe băng kinh rồi
nhưng khi anh chị em bàn cãi, thảo luận, mình vẫn được sáng thêm. Trong
giai đoạn này câu nói "Tam ngu thành hiền" tôi ngẫm nghĩ thấy thật
thấm thía. Bây giờ xin đi vào những bài học mà anh chị em chúng tôi đã
thu lượm được sau khi học xong phẩm Tựa của kinh Pháp Hoa.
Phẩm này chúng tôi tranh cãi nhiều về cách xếp đặt các
phẩm. Phẩm nào mới thêm vào sau, phẩm nào đã có sẵn, lý do...v...v....
Sau đó mỗi người nói lên sự thu nhận của mình như sau: (chúng tôi chỉ
xin đưa ra những bài học không trùng nhau thôi)
1/ Phẩm này cho ta nhìn được thông suốt 2 phần: phần bản
môn (chân lý muôn đời vượt không gian và thời gian) và phần tích môn (lịch
sử). Ví dụ khi nói Đức Phật Thích Ca sắp nói kinh Pháp Hoa: đó là nói
về 1 sự kiện lịch sử (Tích môn); khi nói rằng Đức Phật đã giảng
nói kinh này trong nhiều đời xa xưa hay nói Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng
Minh cũng đã từng giảng kinh Pháp Hoa thì đó là bản môn (chân lý đã có
tự muôn đời). Từ đó chúng ta có cái nhìn rộng rãi hơn khi học kinh
cũng như khi dạy Phật pháp cho các em: không chấp thủ như trước đây. Ta
dễ dàng giảng cho các em hiểu khi các em thắc mắc đôi khi rất ngây thơ
và ngây ngô "Phật là đàn ông hay đàn bà?", "Đức Phật Thích
Ca và Đức Phật A Di Đà ai lớn hơn?", "Sao nói Đức Phật Thích
Ca ra đời để đưa đạo Phật vào đời mà lại nói có nhiều Đức Phật
đã ra đời trước Đức Phật Thích Ca?" ...v...v..
2/ Học Pháp Hoa ta thấy Đức Phật không nhập Niết Bàn,
Phật còn ở ngay bên chúng ta. Nếu ta đừng thấy sinh diệt thì tức là thấy
Phật. Và chúng ta nhận ra được "tính không thực có của thời gian
và không gian".
3/ Ngôn ngữ Pháp Hoa là ngôn ngữ biểu tượng. Do vậy, tên
của các vị Bồ Tát, Thanh Văn, các vị thái tử, vương tử ..v...v... đều
có ý nghĩa đặc biệt, từ đây chúng ta có thể hiểu được nhiều hơn về
các "ẩn nghĩa" khi đọc các bản văn của các tác giả Ấn ngày xưa,
ví dụ như kinh Vệ Đà hay Áo Nghĩa Thư chẳng hạn.
4/ Ý nghĩa tên kinh: Diệu Pháp Liên Hoa thật là đúng là kỳ
diệu. Những đức tính của Hoa Sen thật là nhiều nhưng tôi tâm đắc nhất
là "trong Nhân đã có sẵn Quả" của nó. Học phẩm này tôi nhớ lời
Phật dạy: khi đang phân vân không biết có nên đem Phật pháp giảng cho
chúng sanh hay không thì Ngài nhìn thấy một hồ sen: hình ảnh những hoa sen
đã trồi lên mặt nước, những cái còn là đà trên mặt nước, có cái
còn ở dưới nước ..v...v... làm cho Ngài nghĩ đến căn cơ của chúng sinh
cũng y như vậy. Chúng ta bây giờ cũng phải nhớ đến hình ảnh này để
biết các em của chúng ta cũng y như vậy, căn cơ khác nhau, trình độ không
đều, đòi hỏi chúng ta nhiều kiên nhẫn và sáng suốt trong việc giảng dạy
Phật pháp cho các em.
5/ Nguyên nhân ra đời của mọi Đức Phật, trong quá khứ
cũng vậy mà trong tương lai cũng vậy, chỉ vì một đại sự nhân duyên
là "Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật". Đức Phật Thích
Ca cũng vậy, Ngài thị hiện đản sanh ở cõi Ta Bà này, ấy là Ngài cho ta
thấy Ngài cũng là người, sinh ra từ loài người, chịu khó tu tập và
Ngài đã thành Phật. Vậy chúng ta, những con người trong cõi Ta Bà này, rồi
cũng sẽ thành Phật trong tương lai. Từ đó ta có niềm tin ở Phật tánh
trong ta và trong mọi người, ta có thể tự rèn luyện để một ngày nào
đó vị Phật trong ta có thể hiển lộ.
6/ Học Pháp Hoa mới biết rõ nghĩa của mấy chữ như các
bậc "Hữu học" và "Vô học". Không phải như nghĩa thông
thường của thế gian là "vô học = không có học, không có giáo dục"
đâu!. Vô học đây là những bậc không cần học với ai nữa cả, còn gọi
là học đã đạt đến "vô sư trí" nghĩa là trí tuệ của họ tự
đầy đủ, không cần phải học hỏi từ một bậc thầy nào nữa. Từ đây
ta không bao giờ tự hào là nếu mình biết Hán tự thì nhất định mình
hiểu rõ được các từ ngữ trong kinh. Ta phải luôn thận trọng trong việc
học kinh điển và luôn nhắc nhở mình bằng câu nói "Y kinh liễu nghĩa
tam thế Phật oan, Ly kinh nhất tự tức tùng ma thuyết".
7/ Tại sao Ngài Bồ tát Di Lặc lại phải hỏi Ngài Văn Thù
Sư Lợi để giải mối nghi của mình? Tại vì chỉ có thật trí (Ngài Văn
Thù Sư Lợi là biểu tượng của trí huệ Phật) mới hiểu biết được
những hiện tượng lạ như đã tả trong kinh (phẩm Tựa này) trước khi Phật
giảng nói Pháp Hoa. Ngài Di Lặc trong một kiếp trước rất xa xôi kia là Bồ
tát Cầu Danh trong khi Ngài Văn Thù là Bồ tát Diệu Quang là thầy của Bồ
tát Cầu Danh và vô số các đệ tử khác. Bồ tát Văn Thù đã từng trì tụng,
giảng nói kinh Pháp Hoa cho chúng sanh trong 80 tiểu kiếp. Cầu Danh ham thích
danh lợi, tuy cùng đọc tụng kinh nhưng chỉ làm cho có và không tinh tấn
tu tập nên không đạt trí tuệ vô thượng và không thành Phật được. Đây
cũng bài học cho chúng ta hôm nay vì trong chúng ta có thể có nhiều vị Bồ
tát Cầu Danh lắm đó. Nếu chúng ta đọc kinh sách rất nhiều nhưng cũng
như là đọc tiểu thuyết (nghĩa là đọc để giải trí mà không tu tập),
nếu chúng ta làm việc Gia Đình Phật Tử với tâm mong cầu được nổi tiếng,
được có các em để nhờ vả, sai bảo, dùng danh nghĩa của tổ chức để
thực hiện nguyện vọng hay tham vọng riêng tư của mình ..v...v.... thì rõ
ràng chúng ta có "tu" vô lượng kiếp theo kiểu này đi nữa, chúng
ta cũng không bao giờ "ngộ nhập tri kiến Phật" được cả.
8/ Trong câu chuyện kể của Ngài Văn Thù Sư Lợi có tên của
8 vị vương tử con vua (mà sau này xuất gia thành Phật Nhật Nguyệt Đăng
Minh) cũng có ý nghĩa là 8 thức đó là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, mạt
na và a lai da (thức). Chúng ta phải gìn giữ 6 căn khi tiếp xúc với 6 trần
(thế giới bên ngoài) và coi chừng "anh chàng thứ 7 mạt na" sinh
tâm phân biệt, ưa ghét, thị phi...v...v... Làm sao để - trong mọi lúc-
"cái nghe cứ là cái nghe, cái thấy cứ là cái thấy" thì lúc đó
ta mới thực sự bước vào ngưỡng "cửa giải thoát" mọi khổ
đau phiền não được.
Đó là những bài học trong buổi học chung đầu tiên của
anh chị em chúng tôi. Sau này khi học kinh Thắng Man, Duy Thức, chúng tôi
còn có những hiểu biết sâu sắc hơn về những bài học đơn sơ trên đây.
Dù sao, những buổi học Phật pháp không có quý Thầy giảng, không ngồi
trong điện Phật hay trong giảng đường và trong giai đoạn khó khăn của
đạo pháp và dân tộc, đã để lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm
khó quên và hình như rằng những gì chúng tôi thu nhận được từ những
ngày này đã in sâu vào đầu óc mình hơn bất cứ lần nào được học hỏi
trong những điều kiện tốt hơn. Tôi sẽ còn viết cho tới khi qua hết
các bộ kinh mà chúng tôi đã cùng nhau học như một cuốn nhật ký thân
thiết nhất. Mỗi bài viết tôi đều hướng về các bạn hiện còn ở
quê nhà với ước mong rằng nhóm chúng mình vẫn tinh tấn tu học như ngày
nào, và ở đây nơi xa các bạn cả nửa vòng trái đất, mỗi ngày khi ngồi
thiền, đi dạo, đọc kinh sách..v..v... tôi cũng đều nghiêm túc như khi cùng
với các bạn tu học. Mong rằng chúng ta có thể "thấy" nhau trong
tâm thức như Thắng Man phu nhân vừa nghĩ tới Đức Phật thì thấy Phật
hiện tiền mặc dù Ngài chưa từng đi ra khỏi chỗ ngồi của mình và Thắng
Man phu nhân cũng chưa ra khỏi hoàng cung.