- Chúng tôi học kinh (3)
- (Kinh Pháp Bảo Đàn)
- Tâm Minh
- (Thân kính tặng
Anh Chị Em Áo Lam)
Hôm nay chúng tôi học Kinh Pháp Bảo Đàn. Đáng lẽ phải gọi
là "Ngữ Lục của Tổ Huệ Năng" vì đây là lời Tổ nói, được
ghi chép lại, không phải là Kinh (lời dạy của Phật) nhưng đệ tử của
Ngài là thiền sư Pháp Hải trụ trì chùa Bảo Lâm đã y theo lời dạy của
ngài mà đặt tên. Vì vậy chúng ta khỏi cần thắc mắc ! !!
Cũng như các lần học trước, anh chị em chúng tôi ai cũng
đã đọc truớc ở nhà và đến đây tuần tự tóm lược các Phẩm trong
Kinh rồi sau đó mới quyết định " xóay" vào phẩm nào. Lần này
chúng tôi học kỹ phẩm thứ 3: NGHI VẤN. Đây là phẩm nói lên những nghi
vấn, thắc mắc trong lòng ngườI học đạo, đại diện là quan Thứ sử
và hộI chúng lúc đó. Cứ mỗI thắc mắc của đại chúng đều được Tổ
giải đáp thật rành mạch mà "bình dân" dễ hiểu (mặc dù khó
làm !) và thoáng vô cùng:
*** Thắc mắc thứ nhất - cũng là bài học thứ nhất của
chúng ta - là: Vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma rằng: " Trẫm
suốt đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai thì có những công đức
gì? " Tổ bảo " thật không có công đức." Tại sao vậy?
Ngài Huệ Năng trả lờI quan Thứ Sử: tại vì Võ Đế tâm
tà, không biết chánh pháp, những việc làm của ông ta gọI là cầu phước,chứ
không thể đem phước đức để đổI làm công đức. Lục Tổ dạy tiếp:
"Thấy tánh ấy là Công, bình đẳng ấy là Đức. Trong tâm khiêm hạ,
ấy là công ; bên ngoài hành lễ phép, ấy là đức. Mỗi niệm không có
gián đọan ấy là công, tâm hành ngay thẳng ấy la đức ; tự tu tánh ấy
là Công, tự tu thân áy là Đức.
Tâm thường khinh người, thị-phi không dứt tức là không
công ; tự tánh hư vọng không thật tức không có đức. Này thiện tri thức
! Công Đức phải là nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường
mà cầu được. Võ Đế không biết chân lý chứ không phải Tổ sư ta có
lỗi ! "
*** Bài học thứ hai là bài học về cõi Tây Phương ; Thứ
Sử hỏi: "đệ tử thường nghe nói niệm Phật A Di Đà thì được vãng
sanh Tây Phương ; điều này có đúng không ? Thỉnh Hoà thượng từ bi chỉ
dạy." Tổ đáp: Thế Tôn nói Kinh A Di Đà ở trong thành Xá Vệ có nói
rằng Tây Phương ở cách đây mười muôn tám ngàn tức là trong thân có 10
ác và 8 tà. NgườI mê niệm phật cầu sanh Tây Phương, ngườI ngộ tự tịnh
tâm mình. Này Sử quân! Tâm địa không có cái bất thiện thì Tây Phương
cách đây không xa, nếu ôm lòng chẳng thiện, niệm Phật vãng sanh thật
khó đến ! Nay khuyên thiện tri thức trước nên dẹp trừ 10 điều ác tức
là đã đi được mườI muôn, sau trừ 8 cái tà tức là qua được tám
ngàn, mỗI niệm thấy tánh thường hành bình đẳng, liền đến TâyPhương,
thấy đức Phật A Di Đà. Sử quân, chỉ hành 10 điều thiện đâu cần phải
nguyện vãng sanh, còn nếu không đọan cái tâm ác thì Phật nào lại đón
tiếp ?! J J !!
Ngài lại nói: " Huệ Năng vì mọi người dời cõi Tây
Phương trong khoảng sát na ở trước mắt khiến cho quí vị được thấy,
quí vị có muốn thấy không ? " Đại chúng vâng dạ, muốn xem cõi Tây
Phương hiện tiền trước mặt, Tổ bảo rằng: Này đại chúng ! Thân này
là thành, mắt tai mũi lưỡI là cửa, ngoài có 5 cửa, trong có cửa ý. Tâm
là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh còn thì vua còn, tánh đi
mất thì vua mất; tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật
nhằm ở trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức
là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật.
Ngài còn dạy về các hạnh Từ Bi, Hỷ Xả, Tinh tấn,Thanh
Tịnh .... của chư Phật Bồ tát cũng như các phiền não trần lao của
tham, sân si... như sau: "Này thiện tri thức ! Từ Bi tức là Quán Thế
Âm, Hỷ xả gọI là Đại Thế Chí, tịnh tức là đức Thích Ca, bình trực
tức là Phật Di Đà. Nhân ngã ấy là núi tu Di, tà tâm là biển độc,phiền
não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỉ thần, trần lao
là ruà trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh v..v.. Này thiện
tri thức ! thường làm 10 điều thiện thì thiên đường liền hiển hiện,
trừ nhơn ngã thì núi Tu Di sập, dẹp tham dục thì biển độc khô, dứt
phiền não thì sóng mòi mất, độc hại hết thì rồng cá đều biến mất...
Ở trên tâm địa mình là giác tánh Như Lai. Nếu 6 cửa ở ngoài thanh tịnh,bên
trong tự tánh trừ sạch 3 độc thì trong ngoài sáng rực, chẳng khác vớI
cõi Tây Phương ; không chịu tu như thế thì làm sao đến T ây Phuơng đưọc
đây !?J J !!
*** Bài học thứ ba là phương pháp tu hành của Lục Tổ trao truyền cho
quan Thứ Sử ; Tổ bảo rằng ai tu cũng được, không cần phải ở chùa mớI
tu được (tất nhiên nếu xuất gia được thì tốt hơn nhiều chứ, phải
không các bạn ?) ; đây là bài kệ Vô Tướng:
- Tâm bình không cần giữ giới
- Hạnh thẳng không cần tu thiền
- Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ
- Nghĩa thì trên dướI thương nhau
- Nhường thì trên dướI
- Nhẫn thì các ác không ồn
- Nếu hay dùi cây ra lửa
- Trong bùn quyết mọc sen hồng
- Đắng miệng tức là thuốc hay
- Nghịch tai ấy lờI ngay thẳng
- Sửa lỗI ắt sanh trí tuệ
- Giữ quấy trong tâm không hiền
- MỗI ngày thường làm lợI ích
- Thành đạo không do thí tiền
- Bồ đề chỉ hướng tâm tìm
- Đâu nhọc hướng ngoại cầu huyền
- Nghe nói y đây tu hành
- Cực lạc chỉ ngay trước mắt
|
- Tâm bình hà lao trì giới
- Hạnh trực hà dụng tu thiền
- Ân tác thân dưỡng phụ mẫu
- Nghĩa tác thượng hạ tương lân
- hoà mục Nhượng tác tôn ti hoà mục
- Nhẫn tắc chúng ác vô huyên
- Nhược năng toản mộc xuất hỏa
- Ư nê định sanh hồng liên
- Khổ khẩu đích thị lương dược
- Nghịch nhĩ tất thị trung ngôn
- Cải quá tất sinh trí tuệ
- Hộ đoản tâm nộI phi hiền
- Nhật dụng thường hành nhiêu ích
- Thành đạo phi do thí tiền
- Bồ đề chỉ hướng tâm mích
- hà lao hướng ngoại cầu huyền ?
- Thính thuyết y thử tu hành
- Tây Phương chỉ tại mục tiền
|
Bài học này làm nẩy sinh trong anh chị em chúng tôi rất nhiều
ý kiến đóng góp, ví dụ như:
** Tâm bình không cần giữ giớI, hạnh thẳng không cần
tu thiền: Chúng ta thì sao ? ai nói động tớI thì sân si nổI dậy, la
hét om sòm ; không cần biết trên dướI gì cả: vậy là tâm chưa bình, hạnh
chưa thẳng, cho nên giớI cũng cần phải tu mà thiền cũng cần phải tinh
chuyên chứ đùng nên xao nhãng đó nha !!J J !!
** Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ, nghĩa thì trên dướI
thương nhau: cái này thì Phật cũng đã dạy rồi: "trong thời không
có Phật,thờ phụng cha mẹ là thờ phụng Phật " nói cách khác, nếu
chúng ta đi chùa, lạy Phật, làm đủ chuyện mình cho là nhiều phước đức
lắm nhưng nếu về nhà thấy cha mẹ già không cần dòm ngó tới, lờI cha
mẹ nói thì coi như " ne pas" ; vậy thì nhất định không phải là
Phật tử chân chính rồi ( mà chỉ là thứ "dõm" thôi! !! )
Anh chị em cùng một cha mẹ sống chung nhau dướI một mái
nhà,nếu không biết thương yêu nhau, nhường nhịn nhau thì ra ngoài xã hộI
làm sao mà tốt vớI ai được ? Nếu có thì đó chỉ là đóng kịch, giả
dối hay là vì lợI dụng gì đó mà thôi, con ngườI như vậy ai mà tin tưởng
được ? Thầy Thanh Từ cũng có nhắc nhở chúng ta : " Nếu sống thưòng
trực nơi gia đình không ra gì thì sống một, hai ngày ở chùa có nghĩa lý
gì đâu ? " Nói tóm lại, ngườI Phật tử chân chính nói chung, ngườI
HTr. /GĐPT nói riêng, phải sống sao cho ngườI khác nhìn vào thấy mình
" sống đạo" chứ không phải chỉ "giảng đạo"
** Đắng miệng tức là thuốc hay, nghịch tai là lời
ngay thẳng: cái này chúng ta cũng thường nghe "thuốc đắng đả tật,
lờI thật mất lòng" nhắc chúng ta tu tập làm sao để khi nghe những lờI
phê bình thẳng thắn, chỉ cái sai, cái lỗI của mình ra thì mình vẫn vui
vẻ nhận lỗI chứ không nổI sân si, đùng đùng bỏ đi, không làm việc nữa,
v..v.. ACE mình cái gì chứ cái này rất hay "tái phạm" ; do đó, đây
là chuyện hết sức đơn giản nhưng không dễ làm, vì vậy Tổ Huệ năng
cũng hết lòng căn dặn.
Muốn làm tốt điều này thì đừng bao giờ nghĩ rằng mình
không bao giờ lầm lẩn, mình rất chuyên môn trong công việc, mình là
"số 1" trong lảnh vực này v..v.. mà phải biết rằng ai cũng có
lúc nhầm lẩn, giỏi tớI đâu cũng vậy thôi, biết nhận lỗI và sửa lỗI
là ngườI trí tuệ, còn nếu cứ "giữ quấy trong tâm" thì đó
không phải là ngườI hiền, ngườI trí ( mà là ngườI ác và ngu, phải
không các bạn ? )
Đây là những bài học đơn giản nhất rút ra từ Phẩm Nghi Vấn. Chúng
ta sẽ tiếp tục học Pháp Bảo Đàn ở những lần sau.
II
Kinh này tương đối dễ tìm vì vậy anh chị em chúng tôi
ai cũng có một bản, do vậy buổi học này còn có phần hào hứng hơn lần
đầu. Đây quả là những lờI dạy đơn giản, bình dị của Lục Tổ,
nói lên cốt lõi của Thiền tông. Hôm nay chúng tôi tiếp tục học 3 phẩm:
phẩm thứ nhất, thứ tư, và thứ năm: Tự Thuật, Định Tuệ và Toạ Thiền.
Bài học thứ nhất rút ra từ bản thân Lục Tổ Huệ
Năng: nhà nghèo, ít học, ở nơi "quê muà" nhưng lại rất tin vào
tự tánh Phật của mình cũng như ở mỗi chúng sanh, nên khi đối diện với
Ngũ Tổ, ngài không có chút mặc cảm, trình bày chánh kiến của mình:
"người thì có Nam có Bắc, nhưng Phật tánh vốn không có Nam Bắc.
Thân quê muà này cùng với thân Hoà Thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh
đâu có sai khác." Nói vậy nhưng ngài vẫn nghe lời Ngũ Tổ làm việc
ở nhà bếp suốt 8 tháng trường, Ngài không làm được những việc vĩ đại
như các vị Tổ khác,, không đốt thân cúng dường, không dịch kinh, thuyết
pháp v..v.. ngài chỉ giã gạo để lo việc ăn uống cho Tăng Chúng trong
chùa mà thôi. Cho đến một ngày, Ngài được Ngũ Tổ trực tiếp nói kinh
Kim Cang - cho con người "tướng mạo quê muà nhưng trí tuệ phi thường"-
Lúc đó ngài chợt thốt lên:
- Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh
- Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt
- Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ
- Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động
- Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp
Những lời này của Lục Tổ làm chúng ta nhớ đến lời dạy
của đức Thế Tôn về "Thường, Lạc, Ngã, Tịnh" trong Diệt Đế.
Đó là tự tánh thanh tịnh hay là cái " chân ngã": tâm ta như một
tấm gương có khả năng chiếu sáng kỳ diệu, ghi lại tất cả những
hình ảnh của bất cứ vật gì đi ngang qua nó ( hay sinh muôn pháp) mà
không hề có phản ứng gì cả (vốn tự thanh tịnh, vốn không dao động,
vốn không sanh diệt). Để thực tập bài học này chúng ta cố gắng
trong đời sống hằng ngày, trong khi ăn uống,ngủ nghỉ v..v.. an trú trong
tâm Phật này càng nhiều càng tốt. Ví dụ khi nghe ai phê bình mình hay nói
xấu mình mà nổi "tam bành lục tặc" lên, ấy là ta đã biến cái
tâm thanh tịnh thành tâm của loài A Tu la ( quỷ chiến đấu) rồi. Nếu chúng
ta cố gắng theo dõi tâm ( hơi thở) và giữ gìn tâm bớt dao động thì một
ngày nào đó có thể làm hiển lộ bản tâm thanh tịnh này và hằng trú
trong đó.
Đại sư Sogyal Rinpoche ở thời đại chúng ta cũng nói trong
"Tạng Thư Sống Chết "về cái "tâm bản nhiên" mà Lục Tổ
Huệ Năng gọi là "tự tánh" và thiền sư Bankei gọi là "tâm bất
sinh" như sau:.... " Bởi thế, dù đời ta có thế nào đi nữa,Phật
tính của ta cũng luôn luôn ở đấy, và nó luôn luôn toàn hảo. Ngay cả chư
Phật với trí tuệ vô biên cũng không thể làm cho nó tốt hơn được, và
chúng sanh với tất cả vô minh bất tận,cũng không thể làm cho nó lấm
lem. Tính bản nhiên của tâm chúng ta có thể ví như bầu trời, và sự mờ
mịt của tâm thông tục giống như mây. ... Hoàn toàn cởi mở, tự do, vô
biên, Phật tính ấy thực đơn giản, tự nhiên như nhiên đến nỗi không
bao giờ có thể trở thành phức tạp, hư hỏng hay bị nhiễm ô, nó thuần
tịnh đến nỗi vượt cả ý niệm dơ sạch. Nhưng nói về tự tính của
tâm ví như bầu trời ấy chỉ là một ẩn dụ để giúp ta bắt đầu tưởng
tượng được tính chất vô biên bao trùm tất cả của nó ; vì Phật tính
còn có một tính chất mà bầu trời không có được, đó là tính sáng
chói của tỉnh thức, đó là cái giác tính hiện tiền không lỗi nơi bạn,
biết nhận thức mà vẫn trống rỗng, giản đơn mà sáng suốt.
Dudjom Rinpoche cũng viết về "nó" - cái "tâm bản
nhiên ấy:
- Không lời nào có thể mô tả,
- Không ví dụ nào để chỉ rõ
- Sinh tử không làm nó xấu hơn
- Niết Bàn không làm nó tốt hơn
- Nó chưa từng sinh
- Nó chưa từng diệt
- Chưa từng giải thóat
- Chưa từng mê lầm
- Chưa từng có cũng chưa từng không
- Nó không có một giới hạn nào
- Không thể xếp nó vào một phạm trù nào cả
- Còn Nyoshul Rinpoche thì nói:
- Sâu xa văng lặng,thóat mọi rắc rối
- Sáng suốt không do kết hợp mà thành
- Vượt ngoaì tâm phân biệt đặt tên
- Đấy là tâm sâu xa của những đấng chiến thắng
- Trong đó không một vật gì phải vứt ra
- Cũng không một vật gì cần thêm vào
- Đấy thuần là cái vô nhiễm
- Đang nhìn vào chinh nó một cách tự nhiên
Thật là thú vị thay khi được nghe lời dạy của các bậc
Thầy nói "mỗi người một kiểu" nhưng thật giống nhau,về cái tự
tánh của tâm .
Bài học thứ hai là ý nghĩa hai bài kệ của ngài Thần
Tú và ngài Huệ Năng:
Bài kệ của ngài thần Tú:
- Thân là cội bồ đề
- Tâm như đài gương sáng
- Luôn luôn phải lau chùi
- Chớ để dính bụi bặm
|
- Thân thị bồ đề thọ
- Tâm như minh cảnh đài
- Thời thời thường phất thức
- Vật sử nhá trần ai
|
Bài của ngài Huệ Năng
- Bồ đề vốn không cây
- Gương sáng chẳng phải đài
- Xưa nay không một vật
- Bụi bặm bám vào đâu ?
|
- Bồ đề bổn vô thọ
- Minh cảnh diệt phi đài
- Bản lai vô nhất vật
- Hà xứ nhá trần ai
|
Cả hai bài kệ đều cho ta những bài học
quí. Trước hết là bài của ngài Thần Tú. Mặc dù bài này Ngũ Tổ cho là
"chưa đạt" nhưng đối với hàng Phật tử chúng ta đây cũng là
phương pháp " theo dõi tâm" để đừng bị ô nhiễm bởi tham sân
si. Thật vậy, tâm ta cũng như vạn pháp, là vô thường: phút trước ma, phút
sau Phật, "tâm viên ý mã" không biết đâu mà lường. Nếu chúng
ta không luôn tỉnh thức , không tự nhắc nhở "siêng năng lau chùi"
tâm thì e rằng sẽ bị "bụi phóng xạ" của tam độc dính vào
ngay, như thiền sư Sogyal Rinpoche, một vị Thầy vĩ đại của thế kỷ 20
đã nói: " quả thật tâm ta đã được huấn luyện một cách thuần thục
bởi sinh tử và cho sinh tử, được huấn luyện để nổi ghen tuông, được
huấn luyện để bám víu, chấp thủ, được huấn luyện để lo âu phiền
muộn, thất vọng, thèm khát, đươc huấn luyện để phản ứng một cách
tức giận đối với bất cứ gì khiêu khích chúng ta. Thật vậy, chúng ta
đã được huấn luyện thuần thục tới mức độ mà những cảm xúc tiêu
cực ấy nổi lên một cách tự nhiên không cần cố gắng." Bởi vậy,
mọi sự đều là vấn đề huấn luyện tâm và năng lực của thói quen như
ngài Thần Tú đã dạy " thời thời thường phất thức" vậy.
Bài kệ của Lục Tổ phù hợp cho hàng căn cơ cao hơn, những
người đã nắm trọn tư tưởng " Tánh Không" của tinh thần Kim
Cang, Bát Nhã. Tâm ngài đã rộng mở và thâm nhập tinh thần ấy, rồi nhờ
có bài kệ của ngài Thần Tú, ngài Huệ năng mới có cơ hội nói lên cái
thấy của mình cái thấy của một con người đã giác ngộ, đã vượt qua
cả ngã chấp và pháp chấp vậy. Bài học của chúng ta ở đây là tư duy
vô ngã, mở rộng cái thấy chân thật về "cái ta" và "cái của
ta" - thật sự là không tồn tại - Nói cách khác: vạn vật do duyên
sinh, duyên tụ thì thành, mà duyên rã thì mất, có vậy thôi ! Tư duy này
giúp chúng ta không hoảng sợ chao đảo, giữ tâm bình an trước những vô
thường của cuộc đời không biết sẽ đến với ta vào lúc nào. Sau Lục
Tổ 10 thế kỷ, thiền sư Bankei ( 1622- 1693) cũng nói: " Tâm là một cơ
cấu năng động, việc của nó là phản chiếu, ghi lại, hồi tưởng những
ấn tượng về thế giới bên ngoài ; nó như một loại gương soi sống động
luôn luôn vận hành, không bao giờ ở yên từ giây phút này sang giây phút
kế tiếp. Trong cái tâm như gương sáng này những ý tưởng đến rồi đi,
sinh diệt rồi lại tái sinh tùy hoàn cảnh; tự bản chất chúng không tốt
cũng không xấu " ("Tâm bất sinh"tr. 36) - hay "... vì tâm Phật
đang chiếu sáng kỳ diệu trong tất cả mọi người, nên bạn có thể học
hỏi đủ thứ, ngay cả trong những hành vi lầm lạc ..." ( tr. 68). Đọc
Bankei ta có cảm tưởng đã " bắt gặp" Lục Tổ Huệ Năng trong vị
thiền sư Nhật Bản này.
Bài học thứ ba là vị trí tương đối giữa Định
& Tuệ. Chúng ta thường nghĩ rằng: phải giữ giới thì tâm mới định,
tâm có định thì huệ mới phát sinh. Qua phẩm Định Tuệ, ngài Huệ Năng
đã rọi vào tâm trí ta một ánh sáng mới: đó là Định Tuệ ví như ngọn
đèn và ánh sáng,có ngọn đèn tức là có ánh sáng, không có đèn tức là
tối. Vậy đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn ; tên
tuy hai mà thật sự chỉ có một thể, Định Tuệ cũng như thế, nói đơn
giản: trong Định đã có Tuệ và ngược lại trong Tuệ đã có Định.
Bài học thứ tư là về " nhất hạnh tam muội
"(tam muội = chánh định ). Ngài day về hạnh này rất rõ ràng: nhất hạnh
tam muội là thường hành trực tâm trong tất cả mọi lúc đi, đứng, nằnm,
ngồi, ở tất cả mọi nơi. Trực tâm là tâm không chấp trước, không kẹt
hai bên, không còn trong vòng thị-phi như Có-Không, Sai-Đúng, Yêu-Ghét, Lãy
- Bỏ v..v..Thiền sư Bankei thì gọi "nhất hạnh tam muội" là
"thực chứng tâm Phật sống động" nên về điều này Bankei cũng
dạy: " Với một người thực chứng tâm Phật một cách rốt ráo thì
khi vị ấy đi ngủ cũng đi ngủ với tâm Phật,khi thức dậy là dậy với
tâm Phật, khi đi là đi với tâm Phật, khi đứng là đứng với tâm Phật,
khi nằm là nằm với tâm Phật, khi ngồi là ngồi với tâm Phật, khi nói
là nói với tâm Phật, khi im lặng là im lặng với tâm Phật, khi ăn cơm là
ăn cơm với tâm Phật, khi uống trà là uống trà với tâm Phât, khi ặc áo
là mặc áo vớI tâm Phật v..v.. Vào mọi lúc, vị ấy an trú liên tục
trong tâm Phật, vị ấy hành xử ung dung tùy theo hoàn cảnh, cứ để mọI
sự trôi theo cách tự nhiên của chúng, chỉ cốt là không làm việc ác, chỉ
làm việc lành... nhưng không tự hào về những việc lành của mình, không
bám víu vào đó mà ghét những người xấu, vì như vậy là đi ngược tâm
Phật. tâm Phật không thiện, không ác, mà vươt ra ngoài cả thiện ác
(TBS,tr. 164).
Bài học thứ năm là về ba điểm then chốt trong giáo
lý của Lục Tổ, đó là vô tướng, vô niệm và vô trụ. Vô tướng
là ngay nơi các tướng, mà lìa tướng, không bị dính mắc vào các tướng
ấy. Ví dụ: nhìn một bông hoa, một bức họa, một bảo vật v..v.. ta thấy
đẹp, qúi,hay v.v.. nhưng không bị kẹt vào đó, không dính mắc vào đó,
không sinh tâm ham muốn, chiếm hữu nó.. . Vô Niệm là đối cảnh tâm
không nhiễm, không dao động, không khởi lên một ý tưởng hay một niệm
phân biệt nào ; ví dụ: nhìn mùa xuân đi qua, muà hè đến, mùa thu qua mùa
đông đến với tâm tỉnh giác, ghi nhận sự khác nhau giữa các mùa với
"tâm không" nghĩa là không khởi lên sự yêu muà thu ghét muà hè,
hay sợ muà đông v..v.. Vô trụ là không lưu giữ bất kỳ một pháp
nào trong tâm, không sa đà, say đắm (không chỉ say rượu mà còn "say
" đủ thứ khác nữa !!J J !!) đến nỗi không kiềm chế được niềm
say đắm của mình, dẫn đến những hành vi bất thiện. Đây là tinh yếu
của câu nói: " Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong kinh Kim Cang.
Về điều này, Bankei cũng dặn dò: " Rán sức tu hành, cố tọa thiền
để được giác ngộ đều sai. Không có gì khác nhau giữa tâm của chư Phât
với cái Phật tánh nơi mỗi con người, mong cầu đạt giác ngộ là tạo
ra một sự phân hai, thành ra có người giác ngộ và chân lý được giác
ngộ. Khi còn đeo đẳng một chút nào cái ước muốn đạt giác ngộ, thì
lập tức đã giả từ cái bất sinh, đi ngược lại tâm Phật. Cái gì
không vướng vào thế giới bên ngoài chính là tâm Phật (TBS tr. 145)
Bài học thứ sáu cũng là bài học tâm đắc nhất của
chúng tôi rút ra từ phẩm Toạ Thiền. Tổ dạy: nếu người tu hạnh bất
động thì không thấy việc phải quấy tốt xấu lỗi lầm của người tức
là tự tánh bất động. Này thiện tri thức! Người mê thân tuy bất động,
mở miệng liền nói chuyện phải quấy hay dở tốt xấu của người, như
vậy là cùng đạo đã trái nhau, chấp tâm, chấp tịnh tức là chướng đạo.
Này thiện tri thức ! Sao gọi là Toạ thiền ? - Ngoài đối với tất cả cảnh
giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là "Toạ" Trong thấy tự
tánh chẳng động gọi là "Thiền" Ngài lại dạy: " Ngoài lìa
tướng là Thiền, trong chẳng loạn là Định". Áp dụng bài học này
vào cuộc sống, ta không chỉ ngồi thiền mỗi ngày vài lần vì đó mới
chỉ là "thân yên" - chưa đủ- còn phải "tâm yên" nữa ;
nghĩa là "đừng thấy lỗi người, chỉ nên thấy lỗi mình" thì mọi
việc trong ngoài mới gọi là "lìa tướng" và "chẳng động"
được. Xin mời các bạn nghe câu chuyện thiền sư Bankei xử lý những tăng
sĩ "bê bối": Lúc ấy Sư đang nhập thất ở chùa Jiziji, vị Tăng
tri sự ở chùa Long Môn của Sư đến vấn an ngài và trình bày rằng "
tại chùa Long Môn có một số Tăng sĩ trẻ bê bối, vô trách nhiệm, hành
vi thô tháo, xáo trộn qui cũ thiền môn, chúng con nghĩ nên gởi họ đi dến
các chùa khác họa may có thay đổi. Sư bảo: " một thiền viện được
lập ra cốt để qui tụ những bọn xấu xa như bọn ấy, chinh phục chúng
bằng sự tiếp xúc thân mật để làm chúng trở thành người tốt. Thế mà
các ông, hoàn toàn thiếu từ bi, các ông muốn đẩy chúng đi nơi khác để
chúng gây rối chỗ khác ! Một người như thế có xứng đáng làm trụ
trì một thiền viện không ? Khi một người không có từ bi quảng đại mà
làm trụ trì chùa tôi, đó là bắt đầu thời kỳ suy tàn của giaó lý
tôi dạy." Sau lần bị quở trách nghiêm khắc ấy, tất cả chức sắc
trong chùa không ai còn dám phàn nàn gì với Sư về hành vi của các tu sĩ
trẻ (TBS tr. 199 )
Tất cả các bài học đều nói về tự tánh tâm, trí tuệ
vô ngã và lòng từ bi. Ý nghĩa của Thiền, Định, Tuệ v..v.. không lià tự
tánh thanh tịnh của tâm.
Tóm lại, tà kiến thì có nhiều nhưng chân lý chỉ có một,
chúng tôi cảm thấy thật hạnh phúc khi những bậc chân nhân, sứ giả của
chân lý,dù diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ nào,ở vào bất cứ thời đại
nào,cũng đều mang một nội dung giống nhau. Chính nhờ vậy mà Lục Tổ Huệ
Năng, ngài Thần Tú, thiền sư Bankei,Sogyal Rinpoche v..v.. đều nói lên những
điều giống nhau về cái Tâm bản nhiên hay Tự tánh, tuy họ sống cách
nhau nhiều thế kỷ và ở trong những đất nuớc khác nhau. Điều này thật
rất quí đối với chúng ta vì nó củng cố niềm tin của chúng ta về con
đường mình đang đi, phải không các bạn ? Để kết thúc, xin chia xẻ với
các bạn lời dạy của các bậc Thầy (Milarepa, Soygal Rinpoche và đức Dalai
Lama ):
"Thấy được tánh Không, thì mở lòng thương xót
"
"Hãy luôn nhận chân tính mộng huyễn của cuộc đời
để giảm bót luyến ái và thù ghét. Hãy có tâm tốt đối với mọi loài."
"Trong cái thế giới hổ tương lệ thuộc mật thiết này,
những cá nhân và quốc gia không còn có thể tự giải quyết vấn đề riêng
của họ được. Chúng ta cần đến nhau. Bởi thế, ta phải phát huy một
ý thúc về trách nhiệm hổ tương... Trách nhiệm của tập thể và của từng
cá nhân là bảo vệ và nuôi dưỡng đại gia đình địa cầu, nâng đỡ những
thành viên yếu kém, bảo trì và săn sóc môi trường sống của tất cả
chúng ta."
Đây cũng là thông điệp quan trọng nhất cho nhân loại
trong thế kỷ mới.