- Lá thư thầy (13)
- Sư Viên Minh
Ngày
tháng
năm
Con thân mến,
Thư con viết khá rành mạch chứng
tỏ con có tiến bộ nhiều. Diễn tả rành mạch nội tâm mình là kết
quả của chánh niệm tỉnh giác. Một người thiếu sáng suốt, thiếu
tỉnh thức và tự tri không làm được điều đó.
Những điều con giải bày chứng tỏ
con đã bắt đầu lãnh hội và thể nghiệm được những gì Thầy
đã hướng dẫn, Thầy mừng cho con.
Trong thư con có bốn điểm Thầy còn
phải giải thích thêm:
1- Khi tâm trí ta không bị chi phối
bởi những dao động của tình và lý như vui, buồn, mừng, giận,
thương, ghét hoặc kiến chấp, vọng tưởng, ý hệ v.v... thì đó
không phải là trạng thái vô cảm giác. Nó
không phải là trạng thái ngưng đọng hoặc thụ động như cơn nhập
định, xuất thần, giấc ngủ hay trạng thái bị thôi miên. Trái lại
lúc ấy là lúc tâm trí bén nhạy nhất mà người ta có thể gọi
nó là trực giác, bát-nhã (panġnġa) hay trí tuệ quán chiếu
(vipassanà-nġàna). Vì tâm lúc ấy có đủ ba yếu tố: sáng suốt
(huệ), an tĩnh (định), và trong lành (giới). Nếu để ý kỹ hơn ta sẽ
thấy tâm ấy còn có những trạng thái phụ thuộc như linh động,
thích ứng, ngay thực, tế nhị, nhẹ nhàng, thoải mái v.v... chắc chắn
đó không phải là bệnh tâm lý đâu. Trái
lại, đó là liều thuốc tối thượng của tâm hồn, như Hoàng Đế
Nội Kinh (một cuốn sách đông y được liệt vào hàng Kinh) đã nói:
- Điềm đạm hư vô chân khí tùng chi
- Tinh thần nội thủ bệnh an tùng lai
Nghĩa là khi tâm hồn sáng suốt,
định tĩnh và trong lành là khi bệnh tật chóng tiêu tan và chân khí
chóng hồi phục nhất.
Về phương diện sám hối cũng vậy.
Khi tâm trí vọng động là tội lỗi phát sinh. Khi tâm trí an tịnh là
tội lỗi tiêu tan (tội từ tâm khởi đem tâm sám, tâm được
tịnh rồi tội liền tiêu) cho nên chỉ cần thấu hiểu được
tâm tính mình để tự ổn định là có ngay một tâm hồn lành mạnh
trong sáng.
Tóm lại, sáng suốt, định tĩnh, trong
lành là yếu tố chữa bệnh tâm thần chứ không phải là bệnh tâm
thần.
2- Khi chờ đợi con thường tưởng
tượng ra một cái gì tốt đẹp để khỏi sốt ruột và căng thẳng,
như vậy cũng tạm được nhưng quả không phải là thượng sách. Vì
nó chỉ tạm giải quyết vấn đề chứ không giải quyết đến tận
gốc. Cũng như khi bệnh ta có quyền uống thuốc để cho qua cơn bệnh,
nhưng nếu bản thân ta vẫn là nguyên nhân gây ra các thứ bệnh thì
ta phải cứ uống thuốc hoài. Người chữa bệnh thật sự phải tự
tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện, bệnh trạng, kết quả... bệnh của
mình và giải quyết ngay từ bản thân thì không những có thể tự
chữa được bệnh mà còn ngăn ngừa được bệnh nữa. Y học dạy
ta phòng bệnh hơn chữa bệnh mà muốn phòng bệnh ta phải hiểu bệnh
ấy là gì đã chứ, phải không con?
Sốt ruột, căng thẳng, bực mình
không phải phát sinh ở sự chờ đợi, chờ đợi là điều kiện
(duyên) kích thích cho sốt ruột, bực mình phát sinh. Vậy quan sát kỹ
ta sẽ thấy chính sốt ruột, căng thẳng bực mình là bệnh trạng xuất
từ nguyên nhân nội tâm thiếu ổn định, thiếu tu tập, một nội tâm
hoang dã. Con phải tự khám phá sự bực mình từ nguồn gốc của
nó để thấy rõ nguyên nhân và giải quyết nó từ đấy. Chánh
niệm tỉnh giác giúp con làm việc đó một cách dễ dàng. Khi con bực
mình phát sinh trước hết con hãy giảm trừ những điều phụ thuộc
để đối diện ngay với yếu tố chính. Sự chờ đợi là phụ thuộc
vì nó chỉ là điều kiện (duyên), đau khổ là phụ thuộc vì nó là
kết quả thụ động, chính sự bực mình (bệnh trạng) mới phát xuất
trực tiếp từ nguồn gốc (nguyên nhân) của nó là nội tâm. Với
niệm, tỉnh giác rất tự nhiên con soi chiếu vào trạng thái bực mình
ấy, và theo dõi cho đến khi nó diệt, nghĩa là nó trở về nguồn
gốc chưa sinh của nó. Ở đó con tìm lại được sự quân bình hay
ổn định của nội tâm.
Trong Phật giáo, người ta gọi hành
trình này là Tứ Diệu Đế: thấy khổ, thấy nguyên nhân phát
sinh ra khổ, thấy khổ đi đến hoại diệt và thấy yếu tố nào đưa
khổ đi đến hoại diệt (khổ, tập, diệt, đạo).
Trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử
gọi đó là tiến trình quy căn viết tịnh, thi vị viết phục
mạng, phục mạng viết thường, tri thường viết minh (trở
về gốc của tâm gọi là tịnh, cũng gọi là phục mạng, phục mạng
là thường, biết được tâm thường ấy gọi là minh).
Thấy bực mình, thấy bực mình trở
về gốc, hay diệt, tức là chữa được nó tận gốc. Như vậy đòi
hỏi con phải đối diện với sự thật, không trốn chạy, không giải
quyết tạm thời.
3- Vấn đề thiền tuệ và thiền định
Thầy có giảng giải trong nhiều thư chắc con cũng có đọc rồi. Rất
nhiều người lầm lẫn thiền tuệ với thiền định. Sống thiền hay
sống đạo theo thiền tông hoàn toàn khác với nhập định. Định là
tập trung tư tưởng vào một đối tượng để đưa tâm vào một
đối tượng để đưa tâm vào một trạng thái an nghỉ gọi là ngoại
tức chư duyên, nội tâm tĩnh chỉ (cắt đứt hoàn cảnh
bên ngoài và bên trong tâm ngưng lắng).
Thường người ta gọi chung thiền
gồm cả định và tuệ, nhưng thực ra Tuệ nghiêng về Quán còn Định
nghiêng về Chỉ. Trong đạo Phật, cả Chỉ lẫn Quán đều được dùng,
nhưng phần đông nói tới tu thiền là nói tới chỉ (định) với
những phương pháp tập trung tư tưởng làm cho tâm tĩnh chỉ, có khi
rơi vào trạng thái không còn hay biết gì nữa. Ngược lại, một số
người khác đả kích thiền định, chủ trương thiền là kiến
tánh thành Phật mà thôi. Còn khi nói tới Quán thì người ta
lại hiểu theo nghĩa suy nghĩ về sự chết, về vô thường, về sự
khổ, về vô ngã, về bất tịnh v.v....
Thấy sự lệch lạc đó, nhiều thiền
sư kêu gọi Phật tử trở lại Chỉ quán song tu,
tức là tâm vừa sáng suốt vừa định tĩnh, trong đó chỉ là định
tĩnh bất loạn, và quán là sáng suốt thấy biết như thật. Chỉ quán
song tu cũng còn gọi là định huệ song tu, theo nghĩa tâm vừa có yếu
tố định (an tĩnh) vừa có yếu tố tuệ (sáng suốt), chứ không phải
dành một thời gian để tu chỉ rồi một thời gian khác để tu quán
như người ta thường làm.
Vì tâm thường dao động, căng thẳng
và tiêu mòn sinh lực nên ta cũng cần phải tu tập chỉ tịnh (định)
để lấy lại thăng bằng phục hồi nguyên khí, nhưng khi người ta đã
biết cách định tuệ song tu thì hình như ít ai còn quan tâm đến thiền
định nữa. Thực ra chánh định vẫn được Đức Phật khuyến khích
vì nó có những lợi ích như:
- - Chế ngự tâm tán loạn
- - Được định tĩnh nhất tâm
- - Được hiện tại lạc trú
- - Phát huy năng lực thắng trí
- - Làm nền tảng cho trí tuệ
Tiếc rằng thiền định rất khó tu,
cần theo đúng phương pháp và có thầy hướng dẫn, bằng không có
khi không những không ổn định được tâm ý mà còn bị tẩu hỏa
nhập ma nữa. Vì vậy có nhiều vị Thiền sư cấm hẳn đệ tử tu chỉ
tịnh theo lối tọa thiền nhập định.
Một hôm, Chí Thành bạch với Lục
Tổ Huệ Năng:
- Thầy con hằng chỉ dạy đại chúng
trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi không nằm.
Tổ nói:
- Trụ tâm quán tịnh là bệnh, chớ
chẳng phải thiền, ngồi mãi thì bó buộc thân thể, không lợi ích
chi, hãy nghe kệ:
- Khi sống ngồi không nằm
- Chết rồi nằm chẳng ngồi
- Gốc thiệt đầu xương thối
- Làm sao lập công tội !
Đoạn trên Tổ Huệ Năng chê
ngồi trụ tâm là chưa phải đạo, Ngài còn gọi đó là bệnh vì nó
làm ngưng tụ tâm, mất linh động và hoạt dụng của một tâm sáng
suốt. Mặc dù định cũng có lợi ích nhưng nghiêng về định quá tâm
dễ sinh thụ động hôn trầm. Người tu tập tọa thiền thường rơi
vào hai cực đoan nguy hiểm, một là không định được nên phải gia
công tinh tấn nhiều, đưa đến tâm dao động, căng thẳng, mệt mỏi.
Hai là đặt được định thì dính mắc vào trạng thái tĩnh chỉ, ngưng
trụ, đưa đến tâm thụ động, hôn trầm, trì trệ. Đó là chưa kể
những sai lầm khác rất dễ đưa đến điên loạn, mất quân bình nội
tâm và dễ bực mình với đời sống hàng ngày, với hoàn cảnh
chung quanh nữa.
Thiền tuệ hay tuệ quán Vipassanà
thực ra cũng chính là định tuệ song tu. Vì mặc dù không chuyên về
định, thiền tuệ vẫn dùng đến yếu tố định, nhưng không tập trung
tư tưởng vào một đối tượng duy nhất để đưa tới tĩnh chỉ
(nhập định) mà là chú tâm, nghĩa là tâm định tĩnh vừa đủ để
không bị phân tâm khi quán chiếu thực tại. Trong thiền tuệ, chánh
niệm thuộc về định, còn tỉnh giác thuộc về tuệ. Cả hai không thể
tách rời nhau được.
4- Tin Thầy và lệ thuộc vào Thầy
là hai điều khác biệt. Có những người tin mù quáng, tôn sùng vị
thầy của mình triệt để nhưng hoàn toàn bị lệ thuộc vào thầy, như
vậy chỉ có một phần lợi ích rất nhỏ. Đức Phật đã từng tuyên
bố rằng Ngài chỉ là người chỉ đường còn mỗi người phải tự
thắp đuốc lên mà đi. Nếu con tin Thầy vì con thấy những gì Thầy
dạy là đúng và khi thực hành những lời dạy ấy có đem lại
lợi ích thiết thực thì không ai có thể tước đoạt niềm tin ấy
của con. Cho dù một mai Thầy không còn nữa con vẫn không mất niềm
tin và những gì con thực hành vẫn đem lại lợi ích cho con mãi mãi.
Bổn phận của vị Thầy là giữ vững niềm tin nơi người đệ tử,
và đồng thời không để người đệ tử lệ thuộc vào mình. Giữ
vững niềm tin không có nghĩa là bắt đệ tử tin nơi mình, nhưng
phải hướng dẫn đúng đắn để người đệ tử tin tưởng vào
chính họ. Không để đệ tử lệ thuộc vào mình không có nghĩa là
từ bỏ họ, mà giúp họ có thể tự đứng vững một mình.
Đã hiểu được những điều Thầy
dạy, đã thực hành có kết quả những lời dạy ấy thì con còn
sợ gì một mai không còn Thầy nữa. Con cứ yên tâm, chưa bao giờ
Thầy bỏ rơi một người đệ tử và chẳng bao giờ Thầy bắt một
người đệ tử lệ thuộc Thầy.
Thân ái chào con
Thầy
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/009-thu13