- Lá thư thầy (2)
Ngày …. tháng …. năm
Pháp đệ thương mến,
Kể từ khi pháp nạn, hoàn cảnh đưa đẩy chúng mình phải
rời am tranh bên đồi mây vắng, chia tay nhau mỗi người một ngã, như cánh
nhạn lạc đàn từ giã quê hương đi tìm xứ lạ.
Hình ảnh ấy đã làm sống lại kỷ niệm ngày xưa, chắc
đệ còn nhớ, một buổi chiều thu thật buồn và đẹp, huynh đệ mình đứng
tựa hiên tây, ngắm cảnh hoàng hôn đang buông theo dòng nước lung linh xuôi
về biển cả… Bỗng trong không khí tịch liêu đó, một con nhạn lạc đàn
vươn cánh bay cao, vẽ ngang nền trời lam một làn khói bạc. Và vô tình, từ
đỉnh Bạch Vân một cụm mây cô đơn len khỏi đồi cao bay ra đồng nội.
Lúc đó huynh chợt nhớ đến câu thơ :
- "Lạc hà dữ cô vụ tề phi
- Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc"
- (Cô đơn ráng lẻ bay ngang
- Trời thu cùng với trường gian một màu)
mà huynh đã ngâm cho đệ nghe với một giọng thì thầm xa
vắng. Lời thơ rì rào len trong từng đầu cây, ngọn cỏ, ve vuốt đám
rêu xanh trên bờ vách đá, lúc ríu rít líu lo cùng chim hót gọi đàn, khi
biệt tích vô thanh theo gió chiều thoang thoảng, rồi bỗng ầm ĩ thét vang
cuối ghềnh sóng vỗ, cho đến khi tan dần vào hư không vô tận của buổi
chiều tà. Chỉ còn nghe ngọn lá vàng rơi lặng lẽ trên lối vào am vắng.
Bất chợt ngày tháng ngừng thôi, không gian bất động.
- Nhiên ! Khứ lai hề
- Thiên thu giả mộng !
Pháp đệ thương mến,
Bây giờ những kỷ niệm êm đềm xa xưa đã trôi theo
giòng suối… và xô đẩy chúng ta vào giữa dòng định mệnh của cuộc đời
chìm nổi. Bỗng đau chạnh thấy mình đã mang kiếp nhạn lạc, mây trôi tự
bao giờ, để cho :
- "Cô đơn theo dõi mỏi chân này
- Bơ vơ hoa nắng cùng mây trắng
- Ủ bọn hồn ta giấc ngủ say"
- (quên tác giả… ?)
Nhưng trong giấc ngủ cô đơn ấy huynh đã tìm ra được ý
nghĩa nhiệm mầu của sự ra đi và trở lại.
Đệ có biết chăng làm kiếp mây trôi chính là đánh mất
quê hương, đi vào viễn mộng, để rồi bị cuốn trôi trong bầu trời huyễn
hóa của cõi phù sinh.
Nhưng làm kiếp mây trôi cũng có nghĩa là giã từ thế giới
mây mưa, cô thân vạn lý trên đường tìm về tự tánh rồi giải thể
chính mình trong biển huyền không, chân như, vắng lặng.
- "Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu
- Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu
- Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh
- Đồng vị chi huyền, huyền chi hựu huyền
- Chúng diệu chi môn"
- (Lão Tử - Đạo Đức Kinh)
Ra đi hay trở lại tất cả chỉ có bấy nhiêu, trở lại
hay ra đi muôn đời là ảo mộng. Cho nên "Niết bàn sinh tử thị không
hoa" là vậy.
Nhưng dù với ý nghĩa nào đi nữa, đã dấn thân làm kiếp
phù vân thì phải sẵn sàng chịu đựng vùi dập giữa muôn ngàn giông tố
bão bùng, có mong chi tìm được giây phút trời yên biển lặng, phải
không đệ ? Kiếp phiêu du của chúng ta trong cuộc đời đau khổ này không
thể nào khác được.
Chắc đệ còn nhớ có lần bác Đạo Tâm ghé qua thảo am
thăm chúng ta trong một đêm trăng bên bờ suối đá, bác đã tâm sự :
- Đạo sĩ chờ ta chán hải hồ
- Ta chờ đạo sĩ lãng hư vô
Và mấy tháng gần đây huynh có gặp lại con người nghệ
sĩ ấy trong một trường hợp tình cờ. Bác kéo huynh vào một con đường
vắng và lại thì thầm tâm sự:
- Sống trong cái chết bao lần khóc
- Gẫm lại cơn mê mấy trận cười !
Giọng nói nửa như trầm buồn nửa như hài hước của bác
chứng tỏ bác đã gặt hái ít nhiều khổ đau trong cuộc đời hồ hải. Rồi
bác xiết chặt tay huynh, từ giã, không quên ngoái lại : "Xin cứ đợi
chờ" với một nụ cười tự tin đượm mùi chua chát của một con người
từng ra vào sóng gió. Thế là bác lại tiếp tục ra đi theo tiếng gọi hải
hồ muôn đời của bác.
Huynh đứng trông theo bước chân của bác xa dần mà tự
nghĩ không biết bác đang đi vào viễn mộng hay đang tìm lại đường về.
Bỗng huynh nhớ tới bài thơ của Đoàn Khuê và ngâm khẽ :
- Bể khổ mênh mông sóng ngập trời
- Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
- Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió
- Gẫm lại cùng trong bể thảm thôi.
Và huynh cũng rẽ vào một con đường khác, trong lòng còn
nghĩ vẩn vơ đến những kỷ niệm năm xưa dưới mái thiền am lợp cỏ
khô trên đồi mây hoang vắng.
Pháp đệ thương mến,
Có bao giời đệ chợt thấy mình hiện diện một cách phi
lý trên cuộc đời mộng huyễn này không ? Có bao giờ đệ tự hỏi mình
là ai mà phải chịu nổi trôi làm thân "bọt trong cửa bể, bèo ngoài
bến mê" không ?
Một thi sĩ Trung Hoa đã có lần bỗng thấy mình hiện diện
một cách trơ trẽn trên cuộc đời và ông nhất định đòi trở về…
phi hữu :
- Tích ngã vị sinh thời
- Minh minh vô sở tri
- Thiên không hốt sinh ngã
- Sinh ngã phục hà vi
- Vô y sử ngã hàn
- Vô phạn sử ngã cơ
- Hoàn nhĩ thiên sinh ngã
- Hoàn ngã vị sinh thời
Huynh xin tạm dịch :
- Xưa khi mộng chửa vào đời
- Thênh thang mờ mịt đất trời nào hay
- Hốt hề hóa hiện thân này
- Không trung vô cớ hiển bày mà ra
- A鯠cơm làm kiếp người ta
- Gót chân trần thế âu là cuộc chơi
- Cái tôi hoàn lại đất trời
- Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sinh.
Như thế có phải là nhà thơ họ Phạm đã ngao ngán mộng
phiêu du hay không còn kham nổi cuộc đời khổ ải ? Người nghệ sĩ sao không
tiếp tục dệt nốt vần thơ mà đã muốn trở về "minh minh vô sở
tri" để an thân trong cái "vị sinh thời" thiên không vô ảnh ?
Đó có phải là con đường về chân không hay chỉ là bước
trầm luân bên bờ phi hữu ?
Cũng cùng một ý niệm trên, nhà thơ đất Ấn, Rabindranath
Tagore lại có thái độ khác hẳn, ông hiên ngang gởi tối hậu thư thách
thức tuyên chiến với khổ đau và xông lên đối đầu với ma quỷ:
- Không cần tránh gian nguy
- Can trường ta chống đỡ
- Khổ đau nào sá chi
- Kiên trì ta chiến đấu
- Cầu chi người giúp sức
- Một mình ta xông pha
- Dù bao người sa ngã
- Ta vững một niềm tin
- Ma vương dù phép lạ
- Không cúi lạy van xin
- Vì lòng ta đã quyết
- Lìa xa nẻo vô minh
Và con đường xông pha hiên ngang dấn bước của ông có thể
là :
- Ra đi tức thị trở về
- Biển phiền não đó Bồ Đề khác chi
- (Triều Tâm Ảnh)
Nhưng không phải ai từ giã vườn địa đàng ra đi cũng đều
có thể trở về dưới chân Thượng đế. Vì "quả thật ta nói cùng
các ngươi, nếu các ngươi không xây lại trở nên như con trẻ thì hẳn chẳng
được vào nước trời đâu" (Tân ước Mathieu, 18) và những kẻ ấy
đã ra đi, đi hẳn và hỏa ngục đời đời. Đó chính là :
- Người thức ngủ thấy đem dài
- Đường xa trĩu nặng đôi vai lữ hành
- Si nhân chẳng thấy pháp lành
- Luân hồi nào biết mối manh nẻo về.
- (Dhammapada 60)
Thế là có kẻ ra đi "quên hẳn đường về, tình ái
si mê, tù trong lục đạo, trăm dây phiền não… nghiệp báo không rời",
như Vũ Hoàng Chương đã nói :
- Lang thang từ độ luân hồi
- U minh nẻo trước xa xôi dặm về.
Như thế vẫn có kẻ ra đi, có người trở lại, Socrate đã
từng lang thang trên vạn nẻo đường với đôi bàn tay trắng. Chàng Rimbaud
lại trở về sau khi đã "giã từ cõi mộng điêu linh". Và Nietzsche
cô đơn đi vào sa mạc cuộc đời để tìm lại đứa "hài nhi chưa tắm
sông nào" (Trần Đới) may mắn gặp Lão Tử được Lão gia trao cho
Xích Tử anh trở về miệt mài ru con trong cơn điên câm lặng.
Rồi Huệ Nặng, Bùi Giáng, Krishnamurti, Marx, Miller… biết
đâu là lối về, biết đâu là nẻo vọng.
- Hữu lai nhi khứ
- Hữu khứ lai hề
- Hữu lai nhi lai
- Hữu khứ khứ hề
- Tri chi bất lai
- Tri chi bất khứ
- Nhiên ! Khứ lai hề
- Thiên thu giả mộng !
Huynh.
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac
/009-thu2.htm